Võ Văn Tạo
22-05-2014
Lâu
nay, đôi khi các học giả chẳng cần viết cụ thể cái ý thức hệ mà Việt
Nam và Trung Quốc “có chung” là cái gì, hầu ai như cũng hiểu đó là “ý
thức hệ XHCN”, hay “lý tưởng cộng sản”. Và hầu như ai cũng tin đó là sợi
dây liên kết chặt chẽ chóp bu hai nước, là sợi xích trói chặt Hà Nội
vào Bắc Kinh từ nhiều thập kỷ nay.
Nhưng, nếu chịu khó nghiền ngẫm từ sự
thật lịch sử quan hệ giữa các quốc gia tuyên bố theo CNCS – xây dựng
CNXH, sẽ thấy bản chất hoàn toàn không phải vậy:
Các nhà nghiên cứu chính trị biết rõ,
lý tưởng CS hay XHCN không bắt nguồn từ Mác và Ănghen – vẫn được coi là
hai ông tổ của phong trào công nhân thế giới. Nó bắt nguồn từ trước đó,
do một số triết gia Âu châu khởi xướng, vẫn được gọi là lý thuyết, tư
tưởng, trào lưu hay chủ nghĩa “cộng sản không tưởng”, khi Âu – Mỹ bắt
đầu thời đại ồ ạt công nghiệp hóa, với thực tế bần cùng lao khổ của công
nhân, trong khi giới chủ ngày càng quá giàu sang. Giảm thiểu, hoặc loại
trừ bất công – cái lõi của lý tưởng cộng sản – là ý tưởng không tệ, nếu
không nói là tốt đẹp (tuy nhiên, hiểu “thế nào là công bằng?”, cần cả
chuyên đề, xin bàn ở một dịp khác). Trên thực tế, có nhiều phương cách
để giảm thiểu bất công, chênh lệch giàu nghèo phi lý, cũng như nỗi cơ
cực của công nhân.
Cũng trên thực tế, các chính khách nắm
quyền, dù cộng sản ở khối XHCN, dân chủ xã hội ở nhiều nước châu Âu,
thậm chí cả Dân chủ hay Cộng hòa ở Hòa Kỳ… có khuynh hướng thực thi công
bằng xã hội, đã vận dụng khác nhau trong quản lý, điều hành kinh tế –
xã hội, cho kết quả hoàn toàn khác nhau.
Mác và Ănghen, cũng như người được coi
là kế thừa là Lê Nin, phê phán CNCS không tưởng, chủ trương xây dựng
CNCS mà họ gọi là “khoa học”, tạo lập công bằng bằng thiết lập chuyên
chính vô sản, với đặc trưng độc tài, đề cao bạo lực, tước đoạt tài sản
của người giàu, tiêu diệt giới chủ, tiêu diệt tư tưởng đối kháng, thậm
chí tiêu diệt mọi khác biệt (kể cả quần loe, tóc dài như thuở nào). Tuỳ
mức độ, nước Nga xô viết sau Cách mạng tháng Mười -1917, kế đó là Liên
Xô, rồi một loạt quốc gia Đông Âu – nơi giới chức cầm quyền được Maxcova
đặt lên “ngai vàng” sau Thế chiến 2, cũng như Trung Quốc, Việt Nam, Cu
Ba, Triều Tiên, Cămpuchia thời Polpot và Lào đều thiết lập chuyên chính
vô sản.
Cuối thập niên 1950 – đầu 1960, Liên Xô
muốn “xưng đế” trong trào lưu cộng sản thế giới, nhiều lần triệu tập
đại diện các đảng cộng sản và công nhân thế giới đến Maxcova để “tập
huấn” xây dựng CNXH theo khuôn mẫu Liên Xô. Trung Quốc, vốn khúc mắc với
Liên Xô từ khi ĐCSTQ mới thành lập năm 1921 – phải tranh giành quyền
lực với ba thế lực khác khi đó, trong đó có Quốc dân đảng của Tưởng Giới
Thạch, vì Liên Xô giúp Tưởng vũ khí, lương thực, chỉ “chi viện” ĐCSTQ
sách báo Mác – Lê, đã ra mặt bài xích Maxcova là “bọn xét lại hiện đại”.
Bắc Kinh bất thần phục Maxcova và cũng muốn “xưng đế” trong trào lưu
cộng sản thế giới, với các chư hầu Rumani, Anbani, Bắc Triều Tiên. Ngoài
ra, Nam Tư dưới thời Tito, vốn tự giải phóng bằng chiến tranh du kích
trong Thế chiến 2 (không phải nhờ Hồng quân Liên Xô như hầu hết các quốc
khác ở Đông Âu), cũng chẳng chịu “vâng dạ” Maxcova, mặc dù cũng tuyên
bố xây dựng CNXH (Liên bang CHXHCN Nam Tư), bị Maxcova tẩy chay, vu là
“xét lại”, đành tranh ngôi “bá” trong Phong trào không liên kết. Hai
thập niên 1960 – 1970, Hà Nội, trong nỗ lực khôn khéo của Hồ Chí Minh,
không muốn mất lòng ai giữa cuộc tranh hùng Maxcova – Bắc Kinh, vẫn âm
thầm tôn thờ Maxcova là Tổ quốc của Lê Nin, cội nguồn của CNCS, thành
trì và khuôn mẫu của CNXH, nhìn Bắc Kinh như một kẻ dị hợm.
Nhân sự kiện Đại cách mạng văn hóa quái
gở và tệ hại ở Trung Quốc thời kỳ 1966-1976, nhiều học giả Tây phương
muốn tìm hiểu, giải mã điều gì tạo nên tính cách của họ Mao và động cơ
xách động vụ này. Mới hay, Mao luôn dèm pha sách vở Mác – Lê, chỉ hâm mộ
tiểu thuyết Tàu nói vể giang hồ tranh bá đồ vương.
Năm 1979, Trung Quốc bất ngờ xâm lăng, tàn sát nhiều vạn quân dân Việt ở biên giới phía Bắc, ĐCSVN ra nghị quyết, nhận định: “Từ khi thành lập, thực chất ĐCSTQ chưa bao giờ là một ĐCS chân chính. Lập trường của ĐCSTQ vừa qua là phản động, phản bội”
(kể cũng lạ, chưa bao giờ là ta, sao lại dùng chữ “phản bội”?). Thời
gian Mao trị vì, ĐCSTQ rẻ rúng lý thuyết Mác – Lê, ca tụng và ra sức
truyền bá tư tưởng Mao ra thế giới. Thời họ Đặng, ĐCSTQ tung hô tư tưởng
Đặng, hô hào xây dựng CNXH “đặc sắc Trung Quốc”, Mác – Lê chìm vào dĩ
vãng, vật vờ che chắn lợi ích nhóm của chóp bu.
Nhưng sự kiện “động trời” CNXH và trào
lưu cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu bất ngờ sụp đổ, tan rã cuối thập kỷ
1980 – đầu 1990 làm Bắc Kinh và nhất là Hà Nội quá hoảng hốt. Bất chấp
hiểm họa thường trực Bắc Kinh bành trướng, bất chấp vụ Bắc Kinh xua quân
đánh cướp đảo Gạc Ma – 1988, xương máu 64 bộ đội VN chưa kịp phôi pha,
đầu tháng 9 -1990, chóp bu VN, do TBT Nguyễn Văn Linh và cố vấn Phạm Văn
Đồng dẫn đầu (Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh đã bí mật chủ động liên
lạc cầu thân trước đó với Đại sứ Tàu tại Hà Nội là Trương Đức Duy, được
Bắc Kinh “bật đèn xanh”) kéo nhau sang Thành Đô, mật bàn và ký tuyên bố
chung bí mật, núp chiêu bài khôi phục “quan hệ hữu nghị” để “giữ CNXH”,
mà người trong cuộc là Thứ trưởng Ngoại giao VN Trần Quang Cơ cùng nhiều
tướng lĩnh, chính khách, trí thức tâm huyết của VN từng vạch trần là
“mở ra một thời kỳ Bắc thuộc mới đầy nguy hiểm”, “tự chui đầu vào thòng
lọng Bắc Kinh”, “phản bội quyền lợi dân tộc”, “hậu duệ Lê Chiêu Thống,
Trần Ích Tắc”…
Yêu sách tiên quyết của Bắc Kinh khi Hà
Nội xin bình thường hóa quan hệ là phải loại Bộ trưởng Ngoại giao VN
Nguyễn Cơ Thạch khỏi Bộ Chính trị ĐCSVN. Và đòi hỏi trịch thượng đó đã
được Hà Nội lập tức cúc cung đáp ứng. Cùng với cố TBT Lê Duẩn, Bộ trưởng
Thạch là người “đi guốc trong bụng” cái ý đồ bành trướng bá quyền nham
hiểm của Bắc Kinh luôn nung nấu từ hàng nghìn măm nay. Để đối phó, ông
chủ trương ngoại giao đa phương hóa toàn diện, đẩy mạnh quan hệ với các
cường quốc dân chủ Tây phương, kể cả Hoa Kỳ (nếu chóp bu Hà Nội khi ấy
cùng quan điểm với ông Thạch, chắc chắn hôm nay VN không rơi vào thế đã
nghèo yếu lại cô thân đối phó với gã khổng lồ Bắc Kinh hung bạo).
Theo cam kết Thành Đô, bia mộ anh hùng,
liệt sĩ chống Bắc Kinh xâm lược lục tục bị đục bỏ, sử sách VN tảng lờ
các sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979, các vụ Bắc Kinh
dùng vũ lực cưỡng đoạt đẫm máu Hoàng Sa – 1974, Trường Sa – 1988. Hà Nội
tránh né việc nhắc lại các sự kiện bi tráng ấy, đưa lên phạm trù “húy
kỵ” (!). Người dân VN mặc áo HS -TS – VN (Hoàng Sa – Trường Sa – Việt
Nam) hay No U (phản đối “đường lưỡi bò” ôm trọn biển Đông do TQ ngang
ngược yêu sách), hoặc biểu tình ôn hòa phản đối Bắc Kinh bành trướng gây
hấn, tưởng niệm liệt sĩ chống TQ xâm lăng, thậm chí tập Pháp luân công
(luật pháp TQ cấm)… bị an ninh VN móc nối lưu manh côn đồ cản phá, đánh
đập dữ dằn, bắt bớ, tra tấn, khủng bố bằng mọi thủ đoạn đê tiện.
Những luận điệu hoa mỹ “4 tốt”, “16 chữ
vàng” do Bắc Kinh rêu rao để ru ngủ, che đậy bộ mặt thật bành trướng
hiểm độc, được Hà Nội hợp xướng phụ họa, đầu độc nhân dân.
Nhưng thực chất Hà Nội có tin vào cái gọi là “tình hữu nghị” dựa trên cái gọi là “cùng ý thức hệ” đó không?
Hoàn toàn không!
Tuy lúc này lúc khác sao nhãng, tự mê
hoặc, nhưng giới chức Hà Nội không ai không biết âm mưu Hán hóa từ nghìn
đời, Bắc Kinh vẫn ấp ủ (đến thường dân tối ngày lo cơm áo còn nhận thức
rõ, huống hồ chóp bu?).
Bắc Kinh cũng vậy, trong thâm tâm, giới chức chóp bu phương Bắc luôn nhìn Hà Nội rặt lũ cơ hội, sẵn sàng trở mặt phản phúc.
Mạt cưa gặp mướp đắng. Vốn thâm hiểm
vào hàng cao thủ, nhưng Bắc Kinh chẳng lừa nổi Hà Nội. Hà Nội làm sao
mong lừa nổi Bắc Kinh?
Nhưng tại sao Hà Nội vẫn ôm chân Bắc Kinh?
Như trên đã phân tích, rõ ràng Hà Nội
và Bắc Kinh có quá nhiều khác biệt ở tầm mức quan điểm đường lối về
CNXH, làm sao có thể nói cùng ý thức hệ?
Điểm chung duy nhất ràng buộc họ là thể
chế độc tài. Ở đó, lợi ích vị kỷ của chóp bu là tối thượng. Cả hai thể
chế hà khắc đều do “vua tập thể” cai trị. Bản thân họ và con cháu, dù
tài hèn đức mỏng, vẫn mặc sức đục khoét, vơ vét, kiếm chác, đè đầu cưỡi
cổ nhân dân, các “thái tử đỏ” có cơ may nhận “truyền ngôi”. Khi cần
thiết, họ đều tìm cách khích lệ người dân, lợi dụng chủ nghĩa dân tộc
cực đoan để gia cố “ngai vàng”. Trong khi con em nhân dân lao động lương
thiện và đáng thương của hai dân tộc lao vào bắn giết nhau nơi biên ải,
họ vẫn đáp chuyên cơ đến với nhau ở thủ đô, hội đàm trong hội trường
máy lạnh, nhấm nháp sâm banh cùng mao đài, tay bắt mặt mừng, ôm hôn hỉ
hả. Họ sẵn sàng gác quá khứ xung đột đẫm máu, để hân hoan chào đón các
chóp bu bên kia chiến tuyến. Nhưng với những ai yêu tự do, đấu tranh cho
dân chủ thì khác hẳn. Dân chủ, tự do là kẻ thù không đội trời chung
truyền kiếp của thể chế độc tài. Điều tốt đẹp nhất họ làm với những
người yêu tự do, dân chủ là thả tù trước thời hạn, nhằm đối phó với áp
lực nhân quyền quốc tế hoặc mặc cả kinh tế, ngoại giao nhất thời. Chưa
bao giờ, và có lẽ sẽ không bao giờ, họ chịu tiếp xúc, tranh luận hoặc
lắng nghe bất cứ ai tâm huyết với nhân dân và đất nước, can đảm đấu
tranh cho tự do, dân chủ, vì hạnh phúc thật sự của nhân dân, vì một Việt
Nam dân chủ, tiến bộ xã hội và cường thịnh, như hướng đi của nhân loại
văn minh.
Lật giở trang sử khối XHCN các thập
niên 1950 -1980 sẽ thấy, các cuộc đình công hay xuống đường đòi tự do,
dân chủ, đòi quyền sống, chống độc tài ở Hungary, Balan, Tiệp Khắc, Đông
Đức, đều bị xe tăng đi tiên phong và mật vụ Maxcova đứng sau chỉ huy
nghiền nát. Thế nhưng, trước khi bức tường ô nhục Berlin bị đập bỏ năm
1989, quen nếp cũ, Tổng Bí thư CHDC Đức Honecko đã cầu cứu Goorbachop
(nhưng đã bị người đứng đầu Liên Xô lạnh lùng khước từ: “chính sách mới
của ĐCS Liên Xô là không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
khác”).
Dã tâm và ý chí sắt máu tàn bạo có một
không hai của Bắc Kinh trong vụ đem xe tăng chà nát hàng nghìn sinh viên
đòi dân chủ tự do ở Quảng trường Thiên An Môn mùa Hè 1989, đã làm Hà
Nội lóe lên cái hy vọng cầu cạnh Bắc Kinh bảo kê cho “ngai vàng” vị kỷ
của họ, trong tình thế khối XHCN ở châu Âu bắt đầu tan rã từng mảng lớn.
Chẳng nệ nhục nhã, trong tâm thế hèn hạ, họ lết đến Thành Đô, cúi xin
làm đồ đệ “trung thành”.
Ngưu tầm mưu, mã tầm mã, không chỉ bám
lưng Bắc Kinh, Hà Nội luôn đứng về phía các nhà độc tài, tham nhũng khét
tiếng như Sadam Hussen, Kadaphi, Putin (kể cả trong vụ thôn tính Crimée
vừa qua)… mặc dù đám này chẳng “khoái” cái gọi là CNXH như Hà Nội quan
niệm.
Trong khi vụ giàn khoan HD981 gây chấn
động thế giới, Putin sang Bắc Kinh hội kiến họ Tập, Nga tập trận chung
với TQ ở biển Đông. Điều đó cho thấy nhãn quang và “viễn kiến” của Hà
Nội ở tầm mức ra sao.
Vì những lẽ trên, rõ ràng, tuyệt nhiên
không phải ý thức hệ, mà chính quyền lực và lợi ích vị kỷ của “vua tập
thể” mới là sợi xích trói chặt Hà Nội dưới chân Bắc Kinh.
V.V.T.
Chả lễ đây là sự thật ? sao cay đắng quá : cả một đảng sáng suốt, một nhân dân anh hùng đều bị đánh lừa để giúp một số kẻ ôm chân TQ vinh thân phì gia ?Bác Hồ ơi!
Trả lờiXóa