Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

Cố xoa dịu tình hình Biển Đông, người Việt đang chơi một trò rủi may vô vọng

David Brown, Asia Sentinel ngày 7/5/2014
Vũ Thị Phương Anh dịch

Bắc Kinh vừa đưa một giàn khoan nước sâu vào vùng biển của Việt Nam

clip_image001 Chế độ Cộng sản Việt Nam đã hy vọng rằng cách hành xử tôn kính của họ đối với Trung Quốc có thể làm dịu đi tham vọng thôn tính biển Đông của gã láng giềng khổng lồ phương Bắc này. Nhưng với việc đưa giàn khoan nước sâu HD-981 vào thăm dò khai thác dầu khí ở ngoài khơi bờ biển miền Trung của Việt Nam, Bắc Kinh đã đập tan hy vọng này và đặt Hà Nội vào một tình thế vô cùng khó xử. 

Trong giai đoạn 2009-2011, Việt Nam đã từng là quốc gia đưa ra những lời phê phán mạnh mẽ nhất đối với tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với hầu hết Biển Đông, khi Hà Nội đang hy vọng sẽ tập hợp được một mặt trận thống nhất từ Hiệp hội các nước Đông Nam Á với sự hỗ trợ (ít nhất là một cách ngấm ngầm) bởi sức mạnh hải quân Mỹ. Sự miễn cưỡng của cộng đồng của ASEAN trong việc thách thức Trung Quốc đã khiến Mỹ không có được một nền tảng cần có cho một chính sách mạnh mẽ trong khu vực Biển Đông. Washington cũng chưa bao giờ tỏ ra mặn mà với việc cung cấp sự bảo đảm về mặt phòng thủ cho những nước có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông khác với Trung Quốc, kể cả đối với người đồng minh mà nó đã ký hiệp ước phòng thủ là Manila. 

Trong hoàn cảnh như vậy, một thái độ nhún nhường dù ḳhôṇg được người dân ủng hộ, dường như là lựa chọn có thể xoa dịu được Bắc Kinh và tạo ra được sự kiềm chế. Đặc biệt từ khi chính phủ mới của Tập Cận Bình lên nắm quyền, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã hết sức nỗ lực để cải thiện mối quan hệ với gã hàng xóm thô lỗ của mình. 

Vào những năm 2012 và 2013, khi Trung Quốc "thực thi chủ quyền" của mình trên các rạn san hô trong vùng biển Philippines, phản ứng của HN là hoàn toàn im lặng. Khi Trung Quốc cử một đội tàu nhỏ để cắm cờ Trung Quốc trên bãi James ở phía Đông Mã Lai, Việt Nam cũng không hề lay chuyển. Khi tàu hải giám của Trung Quốc đuổi ngư dân Việt Nam ra khỏi ngư trường truyền thống gần quần đảo Hoàng Sa, đường dây nóng giữa Hà Nội và Bắc Kinh chẳng thấy vang lên lời phản đối nào. Khi căng thẳng bùng lên giữa Nhật Bản và Trung Quốc về quần đảo Điếu Ngư, Hà Nội vẫn khăng khăng giữ thái độ hoàn toàn im lặng. Khi Manila yêu cầu HN cùng tham gia khởi kiện Trung Quốc lên Tòa án Công lý quốc tế, Hà Nội đã hoàn toàn né tránh. 

Trong hai năm qua, chỉ có hai sự kiện – cả hai đều diễn ra vào tháng Tám năm 2012 – đã khiến Hà Nội để lộ ra cơn thịnh nộ của mình. Đầu tiên là việc Công ty quốc gia khai thác dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc (Chinese National Offshore Oil, CNOOC) đã gửi lời mời đến các công ty dầu khí nước ngoài để chào giá thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi ở vùng bờ biển miền Trung Việt Nam. Thứ hai là việc thành lập "Thành phố Tam Sa" của Bắc Kinh trên một đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa làm trung tâm hành chính và quân sự cho sự hiện diện ngày càng tăng của Bắc Kinh tại Biển Đông. 

Trong suốt thời gian hai năm đó, bất kỳ lúc nào hoàn cảnh cho phép thì các nhà lãnh đạo Việt Nam đều đã không bỏ lỡ cơ hội tán dương mối quan hệ hợp tác anh em với các đối tác Trung Quốc. Hà Nội dường như đã lý luận rằng tình trạng hòa hoãn tương đối giữa hai nước là hoàn toàn có thể, một khi Tập Cận Bình và và nhóm thân cận của ông ta đã hoàn toàn thực sự nắm được các đòn bẩy quyền lực. 

Trong thời gian chuẩn bị cho việc chuyển giao thế hệ tại Bắc Kinh, những kẻ theo chủ nghĩa Sô-vanh nước lớn ở Trung Quốc đã rất gay gắt trong việc kích động chống Việt Nam. Rõ ràng là Hà Nội đã hy vọng rằng sau khi đã nắm được quyền lực ở trung ương, Tập Cận Bình và các cộng sự của ông ta sẽ ra lệnh cho cấp dưới giảm bớ việc tuyên truyền chống Việt Nam và tránh những hành động khiêu khích. Hoàn toàn tin tưởng vào điều này, các cơ quan an ninh nội bộ của Việt Nam đã gia tăng đàn áp các blogger bất đồng chính kiến; đây là một cử chỉ để chứng tỏ với Bắc Kinh, nhưng đã không có tác dụng dập tắt những lời chỉ trích của công chúng đối với chính sách “nhu nhược” của chế độ trước Trung Quốc. 

Tại Hội nghị Shangri La vào tháng Chín năm ngoái, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi Trung Quốc và các thành viên khác hợp tác để "xây dựng lòng tin chiến lược." Tài hùng biện của ông Dũng đã được nhiệt liệt hoan nghênh nhưng, giờ đây khi giàn khoan HD-981 đã thả neo trong khu vực 120 km ngoài khơi bờ biển miền Trung của Việt Nam, liệu có quốc gia nào trong danh sách dài các đối tác của Hà Nội đối tác sẽ có hành động gì ngoài các lời nói đầu môi trước sự phản đối của Việt Nam? 

clip_image002

Những lựa chọn khó khăn cho Hà Nội 

Tin tức về việc triển khai giàn khoan nước sâu của Trung Quốc đã nổ ra vào ngày 4/5, khi một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối lời cảnh báo thường kỳ của Cục Quản lý an toàn hàng hải của Trung Quốc. Một bản đồ được cung cấp bởi công ty dầu khí của nhà nước, công ty PetroVietnam, cho thấy một chiếc tàu của CNOOC đang ở vị trí khoảng 34 km về phía nam của đảo Tri Tôn, hòn đảo nằm ở ngoài cùng ở phía tây nam trong quần đảo Hoàng Sa, và cách 221 km ở phía đông của đảo Lý Sơn (trớ trêu thay, đây chính là nơi Việt Nam có Hạm đội với thâm niên vài trăm năm nuôi trồng, đánh bắt hải sản ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa). 

Việc triển khai giàn khoan HD-981 là "bất hợp pháp và vô giá trị", phát ngôn viên của Việt Nam đã tuyên bố, và nói thêm rằng vị trí này là hoàn toàn nằm trên thềm lục địa của Việt Nam.

Không phải như vậy, Bắc Kinh nói. Địa điểm đặt giàn khoan là "hoàn toàn nằm trong vùng biển của quần đảo Tây Sa của Trung Quốc."

Hà Nội bác bỏ tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, một nhóm đảo nhỏ và các rạn san hô nằm rải rác về phía nam của đảo Hải Nam và phía đông của miền Trung Việt Nam. Bắc Kinh đã đánh bại các đơn vị đồn trú đóng trên một số quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa (chế độ Sài Gòn) vào năm 1974 và kể từ đó nó đã thực hiện ngày càng chặt chẽ việc kiểm soát trên thực tế trên quần đảo này và vùng biển lân cận. 

Quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã chiếm đóng vẫn không đủ để cho phép Trung Quốc mở rộng vùng đặc quyền kinh tế, xét theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Tuy nhiên, bất kỳ bãi đá nào không bị ngập khi thủy triều lên cũng có thể "tạo ra" vùng lãnh hải 12 hải lý tính từ bờ biển của nó. Vị trí khoan là 18,5 hải lý tính từ đảo Tri Tôn. Do đó nó sẽ không nằm trong "lãnh hải của Trung Quốc" ngay cả khi tuyên bố của Bắc Kinh đối với quần đảo Hoàng Sa được coi là hợp lệ. 

Theo báo cáo của Trung Quốc, giàn khoan nặng 31.000 tấn và trị giá 1 tỷ USD của CNOOC sẽ duy trì ở vị trí hiện nay đến tháng Tám. Ra mắt vào năm 2011, cho đến nay giàn khoan HD-981 được báo cáo là đã thực hiện khoan thăm dò ngoài khơi từ Hồng Kông. Giàn khoan này có khả năng khoan xuống đáy biển ở độ sâu đến 3.000 mét. Bản đồ Việt Nam cho thấy rằng vị trí khoan mới là ít hơn 1.000 mét dưới mực nước biển. 

Cũng theo truyền thông Trung Quốc ngày 6 /5, tàu cảnh sát biển Việt Nam đã "can thiệp" vào các hoạt động của giàn khoan. Chẳng còn nghi ngờ nữa, các tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc cũng đã được đưa đến khu vực này. Cả hai quốc gia cũng có thể triển khai các tàu hải quân và không lực để bảo vệ các lực lượng bán quân sự của họ. 

Việc triển khai giàn khoan HD-981 của Trung Quốc do đó đang đặt ra một tình thế khó xử và đau đầu cho Hà Nội. Tương tự như sự can thiệp của Trung Quốc cách đây ba năm đối với tàu khảo sát dầu khí của Việt Nam, việc Trung Quốc đề nghị đấu giá lô thăm dò dầu khí trong vùng EEZ của Việt Nam và những nỗ lực đôi khi thành công của Trung Quốc trong việc đe dọa các công ty dầu mỏ nước ngoài, hành động khiêu khích mới nhất này đang đe dọa không chỉ làm nhục mà còn gây ra những thiệt hại kinh tế thực sự cho Việt Nam. 

Không giống như quân đội Philippines, lực lượng vũ trang của Việt Nam là một sự cản trở đáng kể đối với Trung Quốc. Không ai nghi ngờ về lòng dũng cảm và tinh thần kỷ luật của quân sĩ và thủy thủ Việt Nam, những người đã thừa kế một thiên niên kỷ những kinh nghiệm chiến đấu thành công chống quân xâm lược, mà đặc biệt là từ Trung Quốc. Hơn nữa, trong những năm gần đây Hà Nội cũng đã thực sự nỗ lực hiện đại hóa lực lượng hải quân và không quân của mình. Họ có khả năng thực hiện một số trận đánh, thậm chí có thể là nhiều trận, với Trung Quốc. 

Trung Quốc dường như đang rất muốn làm nhục Hà Nội, hoặc ngược lại, kích động để Việt Nam tấn công. Việc theo đuổi chính sách bá quyền ở khu vực Biển Đông, được mô tả rất đúng là chiến lược "vừa đánh vừa đàm”, cho đến nay vẫn luôn đặc biệt thành công. Bắc Kinh dường như đang muốn tạo ấn tượng với dư luận thế giới, chứ không hề né tránh nó. Bị kích thích bởi các phương tiện truyền thông cổ vũ cho chủ nghĩa dân túy, người dân Trung Quốc đang sôi sục muốn tiến hành một cuộc chiến tranh. 

Việc triển khai giàn khoan HD-981 đã tạo ra một tình huống xấu dễ dàng có thể leo thang thành một cuộc chiến tranh thực sự. Chỉ Bắc Kinh mới có thể làm dịu tình hình – và chỉ khi nó có quan tâm.

D. B.
Dịch giả gửi BVN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét