Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

LỜI CHIA TAY VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM



 Tống Văn Công

                 Trong bản tự kiểm điểm ngày 22-2, ở phần “tự nhận một hình thức kỷ luật”, tôi đã viết:
Là  một đảng viên hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, 82 tuổi còn làm việc hợp đồng, lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, tôi nghĩ rằng, tôi không phải thuộc số không nhỏ đảng viên thoái hóa chính trị mà chính những người bảo thủ, giáo điều không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng trong sự nghiệp giải phóng, nay trở thành một Đảng độc đoán, tham nhũng mới đúng là những kẻ suy thoái chính trị. Do đó tôi không thể nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên là suy thoái tư tưởng chính trị.
Tuy vậy, tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì làm như vậy, tôi sẽ yên lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó mà mai kia tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn quá bức xúc cứ muốn góp ý xây dựng.
Ngày 24 tháng 2 năm 2014, tôi nhận được văn thư của đảng ủy cho rằng tự kiểm điểm của tôi “chưa đạt yêu cầu”, phải “nghiêm túc viết lại bản tự kiểm điểm và tự nhận hình thức kỷ luật”. Cùng với văn thư trên, có bản gợi ý nêu ra ba trường hợp mà theo Quyết định 47 -QĐ/TW là phải khai trừ: “Có quan điểm ủng hộ hoặc tán thành đa nguyên chính trị, đa đảng; công khai phê phán bác bỏ chủ nghĩa Mác -Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng.”
Tôi hiểu, Ban chỉ đạo muốn bảo rằng: Khuyết điểm của tôi là phải tự nhận hình thức khai trừ ra khỏi Đảng. Không làm như vậy thì tôi gây khó cho tổ chức Đảng. Nhưng làm như vậy thì thật là khó cho tôi. Bởi vì cho đến nay, tôi vẫn tự hào về cái ngày là anh lính vệ quốc đoàn, viết đơn xin vào Đảng để được noi gương các đảng viên trong giờ phút gay go của chiến dịch Cầu Kè năm 1950 (Trà Vinh) đã hô to “Các đảng viên cộng sản! Xung phong!” Tôi vẫn tự hào ngày được vào Đảng, giơ tay thề hy sinh chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất, dân chủ cho nhân dân. Còn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là gì thì, thú thật không chỉ tôi mà cả các bậc đàn anh cũng chẳng hiểu!
Càng tự hào về lý tưởng cao cả mà mình đã bỏ cả đời để phục vụ, tôi càng day dứt, xấu hổ vì sự thoái hóa, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ những người trong guồng máy lãnh đạo, khiến Đảng cầm quyền phạm nhiều sai lầm, làm mất hết niềm tin của nhân dân, làm khoảng cách tụt hậu của đất nước càng ngày càng xa so với các nước khu vực. Những người lúc nào cũng hô hào kiên trì ý thức hệ lỗi thời, cấm không được tự diễn biến, thực ra, họ chỉ nhằm duy trì quyền lực, khai thác “lợi ích nhóm”, làm giàu cho bản thân, bất chấp thiệt hại của nhân dân lao động và đất nước. Giặc “nội xâm” bao giờ cũng là chỗ dựạ của giặc “ngoại xâm”. Bất kể bọn bành trướng hung hăng ra rả khẳng định toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, cả “lưỡi bò” biển Đông là của Trung Quốc, lời họ đáp lại chủ yếu vẫn là kiên trì “16 chữ vàng” và “bốn tốt”, vì đây là “đồng chí cùng chung ý thức hệ”, cùng chống lại các thế lực thù địch phương Tây. Truyền thống bất khuất, lòng tự tôn dân tộc bị xúc phạm nghiêm trọng, làm mất dần sự đồng thuận xã hội trước hiểm họa đe dọa sự tồn vong của dân tộc, mà thực ra cũng là sự tồn vong của chính Đảng cộng sản Việt Nam.
Vì những lẽ đó mà thời gian qua, tôi hết sức tự kiềm chế, cố gắng tiếp tục đứng trong hàng ngũ Đảng để cùng với các đảng viên chân chính trực tiếp đấu tranh, góp ý xây dựng Đảng, hi vọng những người lãnh đạo nhận ra sai lầm,vứt bỏ ý thức hệ lạc hậu, tiến tới một Đại hội Đảng đổi mới lần 2: Đổi mới chính trị, thực hiện nhà nước pháp quyền đúng như các thể chế chính trị hiện đại. Từ đó mà vực dậy niềm tin đang cùng kiệt của nhân dân, tiếp tục sứ mệnh mà đảng viên và nhân dân giao cho.
Hôm nay, con đường ấy đã bị chặn lại. Đau lòng lắm, nhưng phải đành vậy thôi! Từ giờ phút này, từ ngày hôm nay, 25-2-2014, tôi xin nói lời chia tay với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 25 tháng 2 năm 2014
Tống văn Công




BẢN KIỂM ĐIỂM KHÔNG ĐẠT YÊU CẦU

TỐNG VĂN CÔNG


   Ngày 14-2- 2014, tôi được Đảng ủy mời họp tại văn phòng đảng ủy phường Tân Kiểng, quận 7, TP HCM,  để nghe  chỉ đạo  tự kiểm điểm về những khuyết điểm của mình. Do  không được trao văn bản, tôi đã ghi chép mấy điểm chính: Từ năm 2009 đã viết hơn 30 bài trái quan điểm của Đảng, đưa lên mạng gây tác động xấu; Có 15 cuộc kiểm điểm góp ý mà không sửa chữa. Có những bài chống Trung Quốc,  gây chia rẽ  hai Đảng, hai nước xã hội chủ nghĩa; Xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; Tự diễn biến hòa bình suy thoái chính trị: Cổ vũ tam quyền phân lập, đa nguyên, đa đảng, vi phạm 19 điều cấm đảng viên không được làm theo Quyết định 47- QĐ/TW của Bộ Chính trị. Đồng chí Công phải viết bản tự kiểm điểm và tự nhận một hình thức kỷ luật của Đảng.


VÌ SAO TÔI VIẾT BÀI “ĐỔI MỚI ĐẢNG TRÁNH NGUY CƠ SỤP ĐỔ” ?

 Tháng 9 năm 2009 tôi viết bài trên với mở đầu bằng câu “Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm”.
 Từ 2005, Trung Quốc bắt đầu bắn giết đuổi bắt ngư dân đòi tiền chuộc. Ngày 9-1-2005, chúng bắn chết 9 ngư dân Hoằng Hóa, Thanh Hóa, bắn bị thương 9 người, bắt sống 9 người đòi tiền chuộc mỗi người hơn 100 triệu đồng. Các hãng tin nước ngoài đưa tin, ta im lặng. Sau 4 ngày, người phát ngôn Trung Quốc Khổng Tuyền tuyên bố “Qua 55 năm quan hệ ngoại giao hai nước đã bước qua giai đoạn phát triển mới vô cùng tốt đẹp”. Tiếp theo Bộ Quốc phòng cử đoàn cán bộ quân sự cao cấp sang Trung Quốc học tập chính trị. Nhưng không vì thế mà Trung quốc giảm bớt các hành động bắn giết, đuổi bắt ngư dân. Tháng 6 năm ngoái (2013), trong khi người dân bức xúc vì liên tiếp 2 tàu cá Quảng Ngãi, bị bắn chìm, một ngư dân chết thỉ báo chí đưa tin ngày 6-6-2013, Bộ Quốc phòng cử 22 cán bộ cao cấp sang Trung Quốc học chính trị, đây là đợt thứ 6.
 Năm 2009 còn có chuyện mở đầu thực hiện với Trung Quốc khai thác bô xit Tây Nguyên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi liên tiếp 3 thư yêu cầu ngưng dự án này với 2 lý do: Tây nguyên là địa bàn an ninh quốc phòng, không nên đưa nước ngoài khai thác; Hai là không có hiệu quả kinh tế. Các nhà khoa học tổ chức nhiều cuộc hội thảo và kiến nghị giống như Đại tướng, có nêu thêm cảnh báo sẽ có hàng vạn tấn bùn đỏ trên cao hơn 1000 mét có thể đổ ụp xuống làm miền Đông và Sài Gòn chết khát. Nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn kiên trì thực hiện thông cáo chung đã được TBT Nông Đức Mạnh cam kết với Đảng bạn. Năm 2013, nhà máy Tân Rai đã cho ra sản phẩm. Trung Quốc mua dưới giá thành. Tính ra mỗi năm lỗ khoảng 100 triệu đô la. Những vị có trách nhiệm xin miễn giảm thuế và cam kết từ năm 2020 sẽ lãi to! 
 Về hiểm họa nội xâm: Tham nhũng tỏ ra bất trị, cứ tăng nhanh từng năm, tháng. Tại Hội nghị Trung ương 3, năm 2006, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu “Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Là một đảng viên sao có thể vô cảm trước “sự sống còn” ghê gớm ấy? Tuy nhiên dù rất nhiều cảnh báo góp ý, 6 năm sau, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 4 sáng ngày 26 tháng 12 năm 2011 có đoạn như sau: “Đặc biệt có một câu hỏi lớn rất day dứt, trăn trở lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là: Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu? Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối với Đảng? Vướng mắc chính là chỗ nào?”
 Như vậy là dù 30 năm với rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, tham nhũng vẫn không lùi nhưng Tổng bí thư vẫn cho rằng Nghị quyết, chỉ thị rất đúng!
Sau một năm thi hành Nghị quyết Trung ương 4, Tổ chức Minh Bạch thế giới xếp hạng Việt Nam tụt 11 bậc về kết quả chống tham nhũng. Nhân loại tiến bộ đã rút ra bài học thực tế rất ngắn gọn về tham nhũng như sau: Tham nhũng là do Nhà cầm quyền độc tài, quyền quyết định của viên chức quá rộng, thiếu công khai minh bạch và quyền tư pháp không độc lập, do đó không kiểm soát được quyền lực.
 Lẽ ra những người lãnh đạo của Đảng cầm quyền sau hàng chục năm với nhiều nghị quyết vẫn không chống được tham nhũng thì phải hiểu rằng các nghị quyết ấy sai, hoặc chưa đầy đủ, phải học cách làm của những quốc gia chống tham nhũng thành công đặt ra cho mình những câu hỏỉ từ bài học của nhân loại.
 Quan liêu, độc quyền đẻ ra tham nhũng, làm suy thoái Đảng cầm quyền, gây ra khủng hoảng chính trị. Lịch sử 84 năm của Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao giờ có chuyện Tổng bí thư thay mặt Bộ chính trị đề cử 2 người vào Bộ Chính trị mà bị bác bỏ cả hai và bầu 2 người khác. Chưa bao giờ có tình trạng các nhà lãnh đạo công kích nhau trước nhân dân. Chưa bao giờ trong một cuộc họp báo công khai mà ông nói gà, bà nói vịt. (Họp báo đầu năm ngày 7-2, Đinh Thế Huynh nói, báo chí thông tin, bình luận phải có lương tâm và trách nhiệm tạo ra sự đồng thuận, không được phép nói trái làm phân tâm các véc tơ phát triển. Sau đó, phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói: “Tạo đồng thuận không phải là khen xuôi chiều mà phải phát hiện phê phán với tinh thần xây dựng”). Chưa bao giờ có tình trạng nhiều đảng viên tuyên bố bỏ Đảng như bây giờ!
 Từ khủng hoảng chính trị đã gây ra khủng hoảng toàn diện cho đất nước. Chỉ xin nêu sơ lược vài nét:
+   Nền kinh tế được hi vọng sẽ sớm xuất hiện “con rồng Việt Nam” đã lâm vào khủng hoảng 2 năm trước khủng hoảng của thế giới, đến nay theo Viện trưởng quản lý kinh tế Trần Đình Thiên, “kinh tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam thì còn ở dưới đáy, bởi nợ xấu, sở hữu chéo, đề án tái cơ cấu tiếp tục nằm trên giấy. “ (Tại Hội thảo mùa Thu ở Huế)
+  Nông dân kéo đi khiếu kiện vượt cấp hàng chục năm, tới lúc dùng súng chống cưỡng chế. Nguyên chủ tịch tỉnh lúa An Giang Nguyễn Minh Nhị nói: “Bao nhiêu năm theo Đảng giành độc lập, có độc lập rồi thì mất quyền sở hữu ruộng đất, dắt díu nhau lên các khu công nghiệp tìm sống với đồng lương bèo bọt” (báo Nông nghiệp Việt Nam Têt Tân Mão).
 +  Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng của mình. Nhưng họ đang trong tình trạng cùng khổ chưa từng có. Giống như giai cấp công nhân ở thế kỷ 19 mà Marx – Engels đã mô tả, nhưng còn khổ hơn vì không được phép đình công. Theo Tổng Liên đoàn Lao động lương tối thiểu của họ chỉ đủ cho 60% mức sống tối thiểu, có 94% phải tăng ca, tăng giờ. Họ đã tự tổ chức hơn 5000 cuộc đình công bị coi là bất hợp pháp vì không được công đoàn lãnh đạo! Trước đây công nhân còn cử ban đại diện ra đối thoại với chủ, nhưng từ 2013 không còn ai dám đứng ra làm đại diện nữa, vì sau khi tình hình ổn định thì người đại diện bị chủ sa thải, hoặc bị bắt về tội kích động đình công.
 + Năm 2013 Công ty tư vấn tài sản WealthX và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS thông báo: “Mặc cho kinh tế khó khăn, số người “siêu giàu” ở Việt Nam (có tài sản 30 triệu USD) đã tăng 15%, trong khi đó có 8,1 triệu người nghèo đói”. Có thể nêu tên 2 người nghèo phải tìm cái chết đã được đăng báo là: Chị Lê thị Ngọc Nhãn ở Cà Mau trước khi tự tử đã gửi thư cho Trung tá Diện “Sau khi cháu chết rồi xin chú giúp các con của cháu được vào trại mồ côi. Cháu đội ơn chú đời đời”. Chị Nguyễn thị Mỹ Nhân cũng ở Cà Mau tự tử để được công nhận diện nghèo, đã gửi thư cho Đảng ủy xã: “Xin thấu hiểu hoàn cảnh không lối ra của gia đình tôi, sau khi tôi chết, đồng ý cấp sổ nghèo cho chồng con tôi được sống.”
 + Đạo đức xã hội băng hoại chưa từng thấy. Một dân tộc sống theo phương châm “thương người như thể thương thân”, những năm kháng chiến nhà nhà đêm không gài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Sau 38 năm sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa sao biến đổi ghê gớm như vậy? Con đánh giết cha mẹ, cháu đánh giết ông bà, vợ đốt chồng. Thanh niên ném đá lên ô tô tàu hỏa làm vui. Thợ vá xe rắc đinh bẫy người đi mô tô. Đi lao động nước ngoài thì trộm cắp và bỏ trốn để sống bất hợp pháp. Các báo mới đưa tin thày trò đánh nhau giữa lớp. Chuyện thầy gạ tình cho điểm, ép mua dâm học trò vị thành niên liên tục xảy ra. Điều tra của Trung tâm xã hội học cho hay: Học sinh cấp 1 có tỉ lệ nói dối 22%, cấp 2 tăng lên 50%, cấp 3 64%, đại học 80 %. Chúng ta sắp có lớp trí thức mới nói dối nhất thế giới. Nguyên Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thị Bình nói “Giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào” (Trên báo Giáo Dục).
  Cũng chính vì không chịu đổi mới chính trị, khư khư ý thức hệ giáo điều mà không có một sách lược đối ngoại đúng đắn nhất là đối với Trung Quốc, bị họ lòe bịp “16 chữ vàng” và “4 tốt”. Trung Quốc chưa bao giờ là nước xã hội chủ nghĩa, và ngày càng tỏ ra là một nước phát xít. Sau giải phóng họ bắt đầu thôn tính Tây Tạng, Tân Cương, đàn áp, không ghê tay, sau đó tấn công biên giới Ấn Độ, Liên Xô… Họ dùng 2 thủ đoạn xảo trá để buộc chúng ta khuất phục: Một là kể công ơn đã giúp ta; Hai là đề cao cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, phải cùng “chống âm mưu diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch phương Tây. Họ khuyên ta cử cán bộ sang nghe họ giảng dạy về bảo đảm an ninh chính trị, chống âm mưu diễn biến hòa bình và ta đã làm theo.
  Nên biết, ngày xưa họ giúp ta chỉ vì sách lược dùng máu Việt Nam để mặc cả với Mỹ và phương Tây và để có điều kiện thao túng ta. Năm 1954, họ ép ta nhận sự chia đôi đất nước. Năm 1972 họ bắt tay Nixon bán đứng ta, để chiếm trọn Hoàng Sa. Năm 1975 họ nhờ tướng Pháp Vanuxem khuyên Dương Văn Minh lên tiếng cầu cứu, Bắc Kinh sẽ cứu Việt Nam Cộng hòa, bị tướng Minh từ chối. Năm 1979, họ xui Pôn Pốt đánh ta, rồi cho rằng ta bị kẹt ở Campuchia, họ đưa 600.000 quân xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc, giết hàng vạn dân thường, đập phá từng cái nồi, hãm hiếp, giết chết đàn bà con trẻ ném xuống giếng. Bị thua đau, họ rút quân, nhưng vẫn chiếm giữ nhiều vùng núi hiểm trở. Năm 1988 họ tấn công đảo Gạc Ma và các đảo ở Trường Sa, xả súng giết 74 hải quân ta. Mỗi dịp kỷ niệm ngày hải quân họ đưa phim này ra chiếu. Hiện nay họ vẫn tuyên bố toàn bộ Trường Sa và 80% Biển Đông là của họ, việc đánh chiếm chỉ là chờ thời cơ.
Nhiều đảng viên cộng sản dẫn đầu biểu tình phản đối tội ác của chúng đã bị đuổi bắt. Nhà văn Nguyên Ngọc đi biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn đã bị Đài truyền hình Hà Nội gọi là bọn phản động, ông kiện, tòa trả lại hồ sơ không xử. Tôi và đồng chí giáo sư Tương Lai trên đường đi dự cuộc mít tinh phản đối Trung Quốc xâm lược tại Nhà hát Thành phố (ngày hôm trước đã báo với ông Lê Minh Trí Phó chủ tịch UBND TP HCM) đã bị hơn chục xe cảnh sát bao vây buộc phải vào đồn.
Quá bức xúc trước tình trạng khốn khổ của ngư dân, anh André Menras tên Việt Nam là Hồ Cương Quyết, người từng treo cờ Mặt trận giải phóng trước Nghị viện Sài Gòn, bị Chính quyền Sài Gòn bỏ tù, đã xin Chủ tịch Nguyễn Minh Triết cho phép làm bộ phim “Hoàng Sa- Việt Nam, nỗi đau mất mát”. Anh bỏ tiền dành dụm nghỉ hưu đem làm phim. Phim làm xong được duyệt, nhưng cho tới nay vẫn cấm chiếu. Một lần họp mặt với bạn tù thời chống Mỹ ông đem phim ra chiếu đã bị cảnh sát giải tán. Hồ Cương Quyết búc xúc kêu ”Bác Hồ ơi, Bác sống lại mà coi!”
Nhân đây tôi muốn nhắc lại trong cuộc kiểm điểm tôi về bài viết ”Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ”, có chi ủy viên đã nói ”Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa. Ta nói của ta. Trung Quốc nói của Trung Quốc. Đồng chí Công nói vậy là gây chia rẻ hai Đảng và hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Lãnh đạo các cấp ủy không ai có ý kiến gì. Tôi không chê trách các đồng chí mà chỉ băn khoăn lo lắng, vì sao Đảng lãnh đạo không quan tâm giáo dục cho đảng viên và nhân dân hiểu lời của đức Trần Nhân Tông “Các ngươi phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay giặc”. Tháng trước, Thủ tướng chỉ đạo phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa, báo vừa đăng lên đã bị gở xuống. Quan hệ với Trung Quốc gây thiệt hại về phía Việt Nam chưa thể lường hết. Qua 20 năm, FDI từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% nhưng Trung Quốc lại trúng thầu hơn 90% các công trình điện, khai khoáng, luyện kim, hóa chất. Họ đưa cho ta thiết bị lỗi thời. Mấy năm qua ngành mía đường cứ kêu bị đường nhập lậu đánh bại là do thiết bị Trung Quốc cũ kĩ, tiêu hao năng lượng, lao động nhiều, giá thành cao, chất lượng kém. Sau đường là xi măng và nhiều thứ khác. Các công trình trúng thầu, họ đưa lao động cơ bắp người Trung Quốc sang xây nhà ở, lập nhà hàng, lấy vợ sinh con, mua đất đứng tên vợ. Các làng Trung Quốc hình thành khắp nơi từ Mông Cái, đến Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tỉnh, Khánh Hòa…. Thương lái Trung Quốc gây khó từ Lạng Sơn tới tận Cà Mau, họ hợp đồng mua rể hồi, móng trâu, khoai lang, đỉa, ốc bưu vàng, lá vải… ít lâu thì họ biến mất.
   Chúng ta đã lập quan hệ hữu nghị hợp tác với những “kẻ thù cũ” Pháp, Mỹ, đặc biệt đã đưa Tổng thống Pháp Mitterand đi thăm chiến trường xưa Điện Biên Phủ nơi họ bị bắt sống 17.000 quân nhục nhã. Suốt hơn nửa thế kỷ chúng ta vẫn long trọng tổ chức những ngày kỷ niệm chiến thắng. Thậm chí hàng ngày báo chí, đài tuyền hình phát thanh còn ra rả chửi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nhưng không vì thế mà họ gây khó khăn cho ta, thậm chí họ vẫn viện trợ, tạo điều kiện cho ta phát triển. Cuộc chiến chống xâm lược biên giới phía Bắc từng được báo Nhân Dân bình luận với tựa đề “Chiến công hiển hách ghi vào lịch sử chống xâm lược của dân tộc”, thế nhưng sau khi lập lại quan hệ bình thường với Trung Quốc thì dường như bị buộc phải quên chiến công hiển hách ấy đi? Tại sao với Trung Quốc chúng ta không dám đòi bình đẳng như các quốc gia khác? Rất tệ hại là chủ trương đục bỏ bia chiến thắng ở Cầu Chánh Khê, bôi xóa tên liệt sĩ Hoàng thị Hồng Chiêm trên tượng đài của chị và đổi tên trường trung học mang tên chị thành trường Bình Ngọc (thuộc Mông Cái). Ở tận núi Quyết, thành phố Vinh Nghệ An, người ta còn đập bỏ tấm bia của Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi Quang Trung vì có hai chữ “giặc tầu”. Bài thơ như sau:
 “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
 “Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.
 “Ông đà chí cả, mưu cao,
 “ Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
 “Cho nên Tàu dẫu làm hung,
 “Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà”.

Cách xử lý như trên cùng với việc cho cảnh sát đuổi bắt, ném lên xe những đảng viên và nhân dân đi biểu tình mỗi lần Trung Quốc gây hấn vô lý, có phải là sách lược sáng suốt hay không?  Một Đảng trong sạch không tham nhũng, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân, đồng thời không khuất phục trước kẻ thù hung bạo là hai điều kiện quyết định để có thể đứng vững và tồn tại.
    Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài nói sau ngày chiến thắng biên giới phía Bắc năm 1979 có đại ý: Trung Quốc từ lâu có âm mưu bành trướng xuống phía Nam. Khi chúng có điều kiện thực hiện thì đầu tiên sẽ là xâm lược Việt Nam. Muốn không bị xâm lược chúng ta phải mạnh lên, cả nước đoàn kết một lòng. Chúng ta không thù hằn Trung Quốc, coi nhân dân Trung Quốc là anh em. Bọn phản động cầm quyền chỉ là một bè lũ. Ý kiến của ông vẫn còn nguyên giá trị thời sự!
    Nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây khủng hoảng và hèn yếu trước ngoại bang là do Đảng không đổi mới chính trị tương ứng với đổi mới kinh tế. Thế nào là đổi mới chính trị? Nội dung chủ yếu đã có trong hai câu mở đầu Tuyên ngôn độc lập năm 1945 trích từ Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn nhân quyền 1791 của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hơn 60 năm qua Liên Hiệp Quốc đã lần lượt ban hành nhiều Tuyên ngôn, Công ước cụ thể hóa các quyền tự do của con người. Nhà nước Việt Nam cũng đã ký cam kêt thực hiện nhiều công ước quan trọng.
Các quyền tự do gồm có: Quyền sở hữu tài sản riêng, quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do đi lại và cư trú, quyền tham gia quản lý đất nước trực tiếp, hoặc thông qua lựa chọn người đại diện bằng cuộc tự do bầu cử thường kỳ, chân thực, bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Các quyền tự do nói trên đều được ghi vào Hiến pháp, nhưng suốt 70 năm chưa được thực hiện hoặc thực hiện một cách hình thức. Cho nên nhân dân có câu “Đảng cử dân bầu”. Quyền lập hội chỉ là vào các hội, đoàn do Đảng lập ra. Quyền tự do báo chí là viết báo của Đảng, nhà nước. Hồ Chủ tịch từng nói, báo nhà nước lập ra không phải là báo chí tự do (sách Hồ Chủ tịch với báo chí, do Hội nhà báo TP HCM xuất bản 1980, trang 9). Đó là trái với các Công ước mà nhà nước ta đã ký kết.
Để các quyền tự do của con người trở thành hiện thực thì phải có một chế độ dân chủ để thực thi. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do của con người bằng một bản hiến pháp đảm bảo pháp quyền, thể hiện trung thực ý chí chính trị của nhân dân.Theo bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã nói ở trên, điêù 16 có nội dung như sau: ”Một xã hội mà trong đó các quyền con người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng, thì hiến pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Tức là phải có nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập thì mới có thể đảm bảo quyền tự do của con người. ( Nga và các nước Đông Âu ngày nay đều ghi “tam quyền phân lập” trong hiến pháp của họ). Thông điệp đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: “Dân chủ và nhà nước pháp quyền là cặp song sinh trong thể chế chính trị hiện đại” là có ý nghĩa như vậy. Nhà nước dân chủ phải là nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập. Nhà nước dân chủ phải tôn trọng đời sống của một xã hội dân sự, nội dung phong phú của nó đã được ghi đầy đủ trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” mà nhà nước Việt Nam đã ký cam kết thực hiện từ ngày 24 -9-1982, nhưng sau 30 năm hầu như chưa thực hiện được gì đáng kể!

TẠI SAO TỰ DIỄN BIẾN ?
Cuộc sống luôn luôn biến động. Cái hôm qua cho là đúng hôm nay không còn thích hợp. Cho nên chống “tự diễn biến”, chống “diễn biến hòa bình” tức là chống lại sự thay đổi, chống tinh thần sáng tạo tìm những điều thích hợp trong hoàn cảnh mới, chống trào lưu tiến bộ, cố ôm giữ mớ giáo điều mà ngay những nhà mác xít trước đây cũng không chấp nhận. Phép biện chứng cho rằng, mọi sự vật đều tiệm tiến dần dần đi tới đột biến. Tôi xin ôn lại về sự “tự diễn biến” của chính hai ông tổ khai sáng chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx và F. Engels. 
Năm 1848 Marx và Engels công bố Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, cơ sở lý luận của Quốc tế cộng sản thứ nhất. Trong đó có những luận điểm về đấu tranh giai cấp, cho rằng giai cấp tư sản tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó, cách mạng vô sản sẽ lật đổ nhà nước tư sản, thực hiện chuyên chính vô sản, xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ thị trường, xóa bỏ cả tôn giáo… Từ thập niên 60 thế kỷ 19 hai ông bắt đầu thấy có sự biến đổi trong chủ nghĩa tư bản và chủ trương đấu tranh hợp pháp, không làm cách mạng để lật đổ nhà nước tư bản. Sau khủng hoảng kinh tế năm 1866, Các công ty cổ phần và các ngân hàng đầu tư quy mô lớn ra đời làm thay đổi cơ cấu xã hội của chủ nghĩa tư bản. Marx nhận xét, vậy là nhà tư bản “đã từ bỏ sản nghiệp tư hữu của chủ nghĩa tư bản họ chỉ còn là chủ cổ phần của xí nghiệp”. Do đó, phát biểu với quần chúng ngày 8-9-1872 ở Amsterdam (Hà Lan) Marx công nhận các nước như Mỹ, Anh, Hà Lan… công nhân có thể đạt được mục đích của mình bằng biện pháp hòa bình.. Hai ông tán thành quan điểm của Ferdinand Lassalle lãnh tụ Đảng Xã hội – Dân chủ Đức chủ trương hòa bình đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tan rã quốc tế thứ nhất năm 1876, hai ông không tìm cách khôi phục lại mà bắt đầu soạn thảo Cương lĩnh chuẩn bị ra đời Quốc tế thứ 2. Năm 1883 Marx qua đời, do đó Engels là người chủ trì Đại hội quốc tế của những người lao động xã hội chủ nghĩa tại Pari từ 14 đến 21 tháng 7 năm 1889 thành lập Quốc tế thứ 2 mà nội dung của nó hoàn toàn khác với Tuyên ngôn cộng sản năm 1948 ở những điểm lớn sau đây:  
-  Đảng và công đoàn đấu tranh bênh vực,bảo vệ quyền lợi mọi mặt của công nhân lao động.
-  Không dùng bạo lực cách mạng lật đổ nhà nước tư sản mà đấu tranh nghị trường đa nguyên đa đảng, chấp nhận thể chế đại nghị, cử đại diện tham gia bầu cử, nếu thắng cử thì nắm quyền chính trị thực hiện chế độ xã hội - dân chủ.
- Trong Đảng không lấy lập trường, quan điểm ý thức hệ sát phạt nhau mà tự do tư tưởng, và tất cả thượng tôn pháp luật.
 Ngày 6-3-1895, Engels viết lời tựa cho quyển sách “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, trong đó có đoạn như sau: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều hơn, không những xóa bỏ những mê muội của chúng ta mà còn thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm 1848 đã lỗi thời về mọi mặt”.
 Lê nin không chấp nhận đường lối của Quốc tế thứ 2. Do đó không thể xem ông là người kế tục Marx và Engels. Ông kế thừa chủ nghĩa Blanqui, phái bạo lực trong Quốc tế thứ 1, cho rằng, chỉ cần dựa vào cách mạng bạo lực là có thể sáng tạo được một thế giới mới không có bóc lột và áp bức.
Do Lê nin chống Quốc tế 2, Đảng Xã hội Dân chủ Nga chia ra thành 2 phái đối lập nhau, phái theo Lê nin chiếm đa số nên gọi là bonsevich. Trái với dự đoán của Marx – Engels là cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ thành công ở nước tư bản phát triển nhất như Đức, Lê nin lãnh đạo Cách mạng tháng mười thành công ở nước Nga nông nghiệp lạc hậu. Điều này đã làm cho ông tự tin rằng mình không kém Marx, mà còn đúng hơn Marx! Ông đề ra các nguyên lý về chuyên chính vô sản không phải là chuyên chính của cả giai cấp mà là chuyên chính của Đảng độc quyền, không còn bảo đảm “sự tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng cộng sản), ông đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ, …
Ngay sau cách mạng Tháng 10 thắng lợi đã có nhiều nhà cách mạng Nga và thế giới không đồng ý với các quan điểm của Lê nin như Plekhanov, Kausky, Rosa Luxemburg … Trong đó, bà Luxemburg được Franz Mehring người viết tiểu sử của Marx cho là “khối óc tốt nhất đứng sau Marx”, bà nhân định “chuyên chính vô sản của Lê nin đối lập với dân chủ”.
Các ý kiến phản đối cho rằng Lê nin sẽ làm chế độ cách mạng Liên Xô đi tới chỗ sụp đổ đã được nhà nghiên cứu xã hội John Reed ghi lại trong quyển “Mười ngày rung chuyển thế giới” (Việt Nam đã dịch và xuất bản 2 lần năm 1960 và 1977). Lê nin đọc sách này một cách hứng thú, ông đã viết thư cỗ vũ nhà xuất bản in sách, chấp nhận công khai các lời chỉ trích nói trên đối với ông. Do đó, sau khi Liên Xô sụp đổ nhiều nhà bình luận cho rằng chính Lê nin mới là người gieo mầm cho Liên Xô bị tan rả 70 năm sau.
 Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu có uy tín đều cho rằng chính các Đảng xã hội - dân chủ mới là những Đảng thừa kế đúng đắn tư tưởng của Marx và Engel. Nhiều nước Bắc Âu vận dụng tư tưởng này đã giành thắng lợi lớn, thực hiện đa nguyên, đa đảng, nhưng luôn giành thắng lợi trên nghị trường, xây dựng nhà nước phúc lợi, nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là công nhân lao động, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, tham nhũng hầu như không có.
Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, chấp nhận đa nguyên, dựa vào người lao động, đấu tranh nghị trường;. Có thời gian rất dài Đảng liên tục cầm quyền 44 năm, đưa nước Thụy Điển nghèo nàn, lạc hậu trở thành nước giàu bật nhất, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, hầu như không có tham nhũng, ổn định nhất thế giới. Năm 2013 Cộng hòa Liên Bang Đức nước giàu mạnh nhất Châu Âu kỷ niệm 150 năm Đảng dân chủ - xã hội Đức, một Đảng theo đường lối của Quốc tế 2 lâu đời và vững mạnh vào bậc nhất. Nhân dịp này Tổng thống Joachim Gauck có bài diễn văn ca ngợi Đảng có lịch sử lâu dài dám xả thân vì niềm tin của mình: “Đó là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt xã hội của những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc lập”. Quan điểm đúng đắn đã thắng thế trong Đảng, đó là: Không thiết lập một đặc quyền giai cấp mới nào”, “dân chủ phải vừa là phương tiện vừa là mục tiêu”, “đấu tranh cho cải cách chứ không phải cho việc làm cách mạng”, ” can đảm phấn đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái tư sản”; “cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những mục tiêu xa vời không tưởng”. Do đó, Đảng kế thừa tư tưởng của Marx, Engels, Lassalle vững mạnh suốt 150 năm làm choTây Đức có thu nhập cao gấp 4 lần Đông Đức xã hội chủ nghĩa theo chuyên chính vô sản của Lê nin khi thống nhất!
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam cũng tỏ rõ một quá trình tự diễn biến rất gian nan, có lúc nhanh, lúc chậm, có lúc đúng, lúc sai và nhiều lần sai rất nghiêm trọng và kéo dài.  Khoảng 1930- 1931 khẩu hiệu vang dội của Đảng là “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rể”. Năm 1945 đảo ngược lại hoàn toàn: Đoàn kết mọi người yêu nước, không phân biệt, đảng phái, giai cấp… Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Khoảng năm 1950 bắt đầu nói “Đoàn kết công, nông, binh”. Còn hiện nay thì nói “ Liên minh công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng”.
Sau năm 1975, Đại hội 4, Đại hội 5 đều đặt nhiệm vụ lớn nhất là “Thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước” và “Nắm vững chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng”. Nội dung của nó là tiếp tục đấu tranh giai cấp, tiêu diệt mầm móng bóc lột, giải quyết triệt để “vấn đề ai thắng ai”. Ngày nay hầu như những chữ “chuyên chính vô sản” và “ai thắng ai” đã biến mất mà Nghị quyết bắt đầu nói “ con người là trung tâm”, và “phải thực hiện quyền con người”. Nghị quyết Đại hội 4 và 5 đều có chủ trương lớn là cải tạo xã hội chủ nghĩa về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Về công nghiệp không để một xí nghiệp tư nhân nào. Nông dân phải vào hợp tác xã. Cửa hàng tạp hóa của tiểu thương cũng không còn. Nghị quyết Đại hội 4 ghi “Sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thành công thông qua xây dựng có ý thức, có kế hoạch. Vì vậy kế hoạch là công cụ chính để quản lý và điều khiển quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.” Hiện nay, nghị quyết bảo phải vận dụng đầy đủ quy luật thị trường. Đại hội 4 và Đại hội 5 đều quyết định “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Năm 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn nói “thời kỳ quá độ kéo dài khoảng 20 năm”. Năm 2013, tại Quốc hội Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chưa biết đến hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay chưa. Đại hội 6 nhận định nền kinh tế đạt kết quả không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra. Nguyên nhân là do “Mười năm qua đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về cải tạo xã hội chủ nghĩa và về quản lý kinh tế”. Đại hội 6 cho sai lầm là do “duy ý chí” không nhìn đúng sự thật và đưa ra khẩu hiệu “Nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội quyết định Đổi mới toàn diện, bắt đầu là đổi mới kinh tế. Đại hội 9 cho phép doanh nhân (tên mới của nhà tư sản) được thuê công nhân với số lượng không hạn chế. Đại hội 11 chủ trương kết nạp doanh nhân vào Đảng cộng sản, tức là nhà tư sản được đứng vào đội tham mưu của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. (Điều này ông Nguyễn Đức Bình nguyên ủy viên Bộ chính trị, giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc kiên trì cực lực phản đối vì cho rằng như vậy không còn gì là chủ nghĩa xã hội!).
    Lược qua ở trên đã cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn tự diễn biến hòa bình. Nhờ đó mà Đảng thoát khỏi những tai ương cho mình và tai họa cho dân tộc như: cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, bỏ tù hàng loạt cán bộ cao cấp gọi là “ nhóm chống Đảng”. Diễn biến hòa bình lớn nhất là Đổi mới của Đại hội 6, quyết định bỏ một nửa, nhưng là một nửa quan trọng nhất lý thuyết xã hội chủ nghĩa của Lê nin, Stalin. Quan trọng nhất là nói theo Marx: cơ sở kinh tế quyết định đối với thượng tầng kiến trúc. Nhờ đó mà dư luận quốc tế hi vọng sẽ sớm xuất hiện “ Con rồng Việt Nam”. Nhưng sau gần 30 năm đã làm người ta thất vọng. Thành tích đổi mới kinh tế đã làm cho những người lãnh đạo chủ quan cho rằng có thể không cần đổi mới chính trị. Thực ra những người lãnh đạo sợ rằng đổi mới chính trị sẽ đe dọa sự tồn tại vị trí cầm quyền của Đảng. Những người sáng suốt nhất, dũng cảm nhất của Đảng như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ …đề nghị đổi mới chính trị đều bị sa thảỉ.

TẠI SAO TÁN THÀNH TAM QUYỀN PHÂN LẬP?

Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lê nin đều không có nhà nước pháp quyền mà chỉ có nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập là của nền dân chủ phương Tây. Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1946 là nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập. Các Hiến pháp sau này khác Hiến pháp 1946 chính là ở đó. Sau Đổi mới, đến Đại Hội 7 TBT Đỗ Mười là người có sáng kiến đưa ra khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, có định nghĩa như hiện nay.
 Các nhà tuyên huấn của Đảng giải thích: Quyền lực nhà nước là thống nhất. Bởi vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân thì không thể chia cắt ( chuyên viên cao cấp của Ban tuyên giáo Trung ương giảng về Hiến pháp 2013 ở đảng bộ phường Tân Kiểng). Lý lẽ đó không chính xác. Nhà nước là công cụ của nhân dân. Nhân dân có quyền phân chia các quyền tư pháp, hành pháp, tư pháp như thế nào để có hiệu quả nhất cho phát triển và chống tham nhũng. Phân quyền của nhà nước pháp quyền, chứ đâu phải là phân chia nhân dân! Còn có lý lẽ thứ 2, “tam quyền phân lập” là của phương Tây của tư sản không thích hợp cho phương Đông và nước xã hội chủ nghĩa. Về điều này có thể lấy ý kiến của Tôn Trung Sơn nhà cách mạng vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đề cao. Ông nói trong bài phát biểu năm 1927 trước quốc dân: “Dân chủ dân quyền thì phải học Phương Tây. Bởi vì Phương Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền”. Việt Nam ta cũng theo “quân quyền” cho đến 1945.
Xin trích hai ý kiến cách nhau hơn 2000 năm về ‘tam quyền phân lập” mà cho đến nay vẫn được cả nhân loại truyền tụng làm theo.
Triết gia vĩ đại thời cổ đại, Aristote nói “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy sự cứu thoát của nhà nước”.
Một triết gia Pháp vĩ đại của thế kỷ 19 là Montesquieu nói: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão thì không còn gì là tự do nữa. Người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy, chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền hành pháp và lập pháp. Nếu như quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do cuả công dân. Quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thì quan tòa có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức nắm cả ba quyền thì tất cả đều mất hết”.
Ngày nay các nước dân chủ đều thực hiện nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập để: Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ quyền con người. Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có câu “Người dân có quyền làm tất cả những điều gì luật pháp không cấm và sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.”
Đó là những ý kiến rất đúng đắn nhưng không thể thực hiện được nếu như không có nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập! Vì sao? Bởi vì ở Điều 2 của Hiến pháp ghi ”Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện cá quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quốc hội là cơ quan lập pháp, nhưng thực ra gồm có đủ mặt những người của hành pháp và tư pháp. Điều đó gây hậu quả đúng như Montesquieu cảnh báo như trên. Quyền tư pháp độc lập không thể thực hiện theo “sự phân công phối hợp” được. Do đó nó đẻ ra điều người gọi là “án bỏ túi”. Án oan sai nhiều không kể xiết, rất đáng lo là nhiếu oan sai tới mức án tử hình. Rất nhiều vụ án xét xử kéo dài hàng chục năm như vụ án “vườn đào”, vụ án “ăn trộm dê”… Nghị quyết 49/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 không có đề ra việc thực hiện quyền Tư pháp độc lập. Do đó, mỗi năm đều họp bàn mà suốt 10 năm vẫn không có nền Tư pháp trong sạch vững mạnh như mục tiêu đề ra!
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến quyền tư pháp không thể độc lập là do Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy “quyền lực nhà nước là thống nhất…” nhưng cuối cùng cả 3 quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tức là Đảng có quyền đứng trên quyền tư pháp, đứng trên pháp luật.
Một số nhà nghiên cứu pháp luật là đảng viên đã hơn chục năm nay kiên trì góp ý rằng: Đảng đã lãnh đạo xây dựng Hiến pháp cụ thể hóa Cương lĩnh của Đảng rồi thì không nên trực tiếp lãnh đạo quyền tư pháp. Phải để quyền tư pháp đứng trên thì mới ngăn chặn được tham nhũng. Đảng đang lâm vào tình trạng tham nhũng suốt hơn 30 năm, càng ngày càng nghiêm trọng, nếu không dũng cảm chấp nhận tư pháp độc lập thì không khác nào người bị bệnh nặng mà cứ giành quyền chỉ đạo thầy thuốc!

TẠI SAO ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN LẠI TÁN THÀNH ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG?
 Như vậy là tạo điều kiện cho các đảng đối lập giành quyền lãnh đạo của Đảng mình? Hậu thuẩn cho câu hỏi này là lập luận: Trong thời kháng chiến gian khổ, tại sao các đảng đối lập không nhảy ra tranh với Đảng cộng sản về sự hi sinh, nay sau khi đất nước hòa bình phát triển lại muốn nhảy ra tranh phần? Cách nghĩ như vậy giống như đòi chia “quả thực” trong cải cách ruộng đất, ai “đấu tố” mạnh thì phải được chia phần nhiều hơn; hoặc giống như một Công ty cổ phần bàn chuyện chia lãi, chứ không giống một Đảng cách mạng từng tuyên bố “Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân” (giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ Giáo dục - Đào tạo). Trong hạnh phúc của nhân dân có quyền tự do, mà chủ tịch Hồ Chí Minh có câu thơ rất hay “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự do”. Trong các quyền tự do có quyền tự do chính trị. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Nhà nước Việt Nam ký kết từ 24-9-1982 ở Lời nói đầu có ghi “Chỉ có thể đạt được lý tưởng của con người tự do được tận hưởng tự do về dân sự và chính trị không bị sợ hãi…” và ở Điều 1 ghi nhận “quyền quyết định thể chế chính trị”. Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền:” Tự do tổ chức và hội họp”. Các Hiến Pháp sau này đều có ghi nhận tất cả các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, nhưng đã mắc nợ nhân dân suốt 70 năm không được thực hiện. Mặc dù Hiến pháp và Luật đều không điều nào cấm lập đảng, lập hội, nhưng thực tế thì không cho phép. Và như phần trên đã nói, từ 1866 Marx và Engels đã chấp nhận đa đảng. Thật ra ngay từ 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản ở chương 4 về “Thái độ đối với các đảng đối lập” (trang 99) hai ông đã dạy những người cộng sản cách sống chung với các đảng tư sản. Không chấp nhận đa nguyên chính trị, cứ tưởng sẽ tốt, có lợi cho Đảng cầm quyền, bởi vì không sợ ai tranh giành với mình. Nhưng theo bài học rất sơ đẳng thì chính đó lại là tự giết mình. Đó là bài học từ sự sụp đổ của các Đảng cộng sản Liên Xô, Đông Âu. Bởi vì độc quyền thì sinh ra quan liêu, quan liêu sinh tham nhũng, tham nhũng lũng đoạn mọi mặt sẽ làm bại hoại mục ruỗng cả Đảng và cả dân tộc. Chấp nhận đa nguyên đa đảng là học bài học trường tồn một cách đường đường chính chính của các Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, Na Uy, Đức …Nguyên ủy viên Bộ chính trị, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An trong bài nói ngày 7-12-2010 trên Tuần Việt Nam, cho rằng tình trạng suy thoái của Đảng như hiện nay, “không phải là do bị diễn biến hòa bình … Chính những đảng viên cộng sản chân chính, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức cách mạng, cũng không muốn bảo vệ sự độc quyền của một Đảng biến chất, thoái hóa, tham nhũng. Đảng đã thành vua tập thể”. Ông vua phong kiến thì chẳng sao, dù cho ông ta có 3000 cung nữ, dù cho đất đai cả nước là của vua. Nhưng Đảng thì lại khác, bởi Đảng phải nói và làm theo chủ tịch Hồ Chí Minh “ Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là nhân dân, vì dân là chủ”. Và người dân luôn luôn so sánh lời nói với việc làm của đảng viên có đi đôi hay không.

TẠI SAO VI PHẠM 19 ĐIỀU CẤM THEO QUYẾT ĐỊNH 47/QĐ/TW?
 Mấy mươi năm trước đảng viên chỉ thực hịên Điều lệ, Nghị quyết Đảng và pháp luật mà nói chung rất tốt. Hơn 10 năm qua có thêm quy định các điều cấm không được làm, nhưng tình hình cứ xấu đi. Quyết định 47/ QĐ/TW ghi là “Căn cứ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”. Nhưng Hiến pháp Việt Nam có ghi các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội, biểu tình thì Quyết định 47/QĐ/TW ở Điều 6 cấm “biểu tình tập trung đông người gây mất an ninh trật tự”. Quy định này không rõ, bao nhiêu người thì gọi là đông người, và nếu đông người mà không gây mất trật tự thì có được phép hay không? Như trên tôi đã kể, chúng tôi mới trên đường đi thì đã bị vây bắt rồi, làm gì đã gây ra mất an ninh!
Và nói trái nghị quyết cũng là một khái niệm rất khó xác định. Mọi đảng viên đều phải bình đẳng, vậy Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói ở Vĩnh Phú, phê phán các đảng viên đi biểu tình phản đối Trung Quốc là suy thoái chính trị có đúng Nghị quyết Đảng và Hiến pháp không? Ông nói “hết thế kỷ này cũng chưa chắc có chủ nghĩa xã hội” có đúng Nghị quyết không? Ông nói Hồ Chủ tịch viết trong Di chúc “Đảng ta là Đảng cầm quyền là hơi hẹp, đúng ra phải nói Đảng ta là Đảng lãnh đạo có đúng nghị quyết không? Có xúc phạm lãnh tụ không?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nhiều phát biểu rất đúng, nhưng tôi e rằng nếu là người khác nói thì rất có thể sẽ bị quy là trái Nghị quyết: Ví như ông lên tiếng giữa Quốc hội đòi Hoàng Sa, phê phán Trung Quốc ở Shangri-la làm cho họ cáu giận, và Thông điệp đầu năm 2014 của ông đưa ra nhiều khái niệm đúng đắn về dân chủ giống như của phương Tây mà các Nghị quyết của Đảng đều chưa hề ghi nhận? Chẳng lẽ trong Đảng không có bình đẳng về phát ngôn? Cấp trên muốn nói gì cũng được còn cấp dưới thì không?
 Tôi cho rằng Quyết định 47/QĐ/TW hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rổi kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. “Nghị quyết gì mà người dân nói là không đúng thì để họ để nghị sửa lại”
 “Quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do phục tùng chân lý” và “Dân chủ là người dân được mở mồm ra nói”. Chẳng lẽ đảng viên cũng là công dân lại không được mở mồm như người dân? Cách quy định những điều cấm như thế qua hơn 10 năm đã chứng tỏ nó không làm Đảng mạnh và tốt lên, trái lại, bêu riếu sự lạc hậu trong thời đại bùng nổ thông tin. Thời đại ngày nay các đảng chính trị đều thực hiện dân chủ nội bộ và thực hiện công khai minh bạch không chỉ trong nội bộ mà trước toàn dân. Chỉ có như vậy mới không tái diễn chuyện “khoán chui” và “xé rào”. Tuy vậy, tôi cũng đã nhiều lần định không đưa bài góp ý lên mạng mà chỉ gửi cho Đảng và các báo, các mạng của Đảng, nhưng các báo đều không đăng, Đảng thì không bao giờ hồi âm!
 Thưa các đồng chí nhiều khi tôi quá bức xúc, đau lòng, cảm thấý dường như Đảng ngày nay không phải là Đảng mà ngày xưa mà tôi giơ tay thề hi sinh đến giọt máu cuối cùng vì Đảng ấy “không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm trọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc làm cho Tổ quốc giàu mạnh đồng bào sung sướng.” Hình như có những kẻ muốn biến Đảng thành công cụ của các “nhóm lợi ích” giúp họ giữ ghế và làm giàu! Là một nhà báo có 35 năm theo dõi phong trào công nhân lao động, cho nên bức xúc nhất của tôi là nhìn thân phận khốn cùng của giai cấp công nhân hôm nay.Tôi vô cùng bức xúc khi cảm nhận rằng hai giai cấp lớn nhất, có công đóng góp lớn nhất cho thắng lợi của cách mạng và kháng chiến là công nhân và nông dân đã bị phản bội bằng nhiều chính sách quá bất công đối với họ. 
 Có lẽ bản kiểm điểm của tôi không đáp ứng được yêu cầu của các đồng chí chỉ đạo cuộc kiểm điểm. Nhưng biết làm sao, khi đó là nhận thức thành thật của tôi, một đảng viên sau hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ Đảng, sống thanh bạch, ngoài 80 tuổi còn ký kết hợp đồng viết bài cho báo Lao Động và lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, lại là kẻ suy thoái chính trị ư? Không! Tôi cho rằng chính những người bảo thủ, giáo điều, không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh hùng, trở thành một Đảng suy thoái tham nhũng, họ mới chính là kẻ suy thoái chính trị. Do đó, tôi không nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên gọi là suy thoái tư tưởng chính trị. Nhưng tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì như vậy, tôi sẽ được yên lòng rằng, Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó từ ngày mai tôi sẽ không còn quá băn khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn bức xúc cứ muốn viết bài góp ý, xây dựng Đảng.
                                                                Ngày 22 - 2-2014
                                                                Tống Văn Công

Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Nghiên cứu so sánh các cuộc cách mạng

Ai nhân danh cách mạng để bắt giữ pháp luật, tự do và nhân tính?
Đinh Phàm
Trần Đình Sử dịch từ “多维新闻”本文网址

Mặc dù tôi không thích Arendt, bởi vì bà có quan hệ mờ ám, vừa học trò vừa tình nhân với Heidegger, một người có quan hệ với Đức Quốc xã, nhưng ý kiến của bà trong bài Bàn về cách mạng mang đầy tính chất lí tính, sâu sắc khiến tôi đồng tình.

Cái kết luận mà bà rút ra sau khi so sánh hai cuộc cách mạng chẳng qua là: Bạo lực cách mạng chỉ được sử dụng một lần, nếu sau cách mạng mà không xây dựng được một chế độ dân chủ và pháp luật có hiệu lực thì sẽ không có tự do đích thực, sẽ rơi vào một vòng luẩn quẩn của đấu tranh giai cấp bạo lực, của việc tiếp tục cách mạng lặp đi lặp lại không thể đảo ngược.

Arendt khi truy tìm từ nguyên của từ “cách mạng” đã chỉ ra, “Từ cách mạng vốn là một thuật ngữ thiên văn học, nhờ công trình Bàn về sự vận hành thiên thể của Kopernic mà nó ngày càng được coi trọng trong khoa học tự nhiên. Trong thiên văn học nó vẫn bảo lưu ý nghĩa khoa học của thuật ngữ Latinh, chỉ sự vận động có quy luật của các thiên thể…. Giống như một sức mạnh khiến cho các thiên thể vận hành theo một quy luật nhất định [1]. Không có quan niệm nào tương tự như tất cả các hành động khiến mọi người mê hoặc lại đi xa hơn hai chữ cách mạng ấy. Nói một cách khác, các nhà cách mạng cho rằng, trong quá trình tuyên cáo một trật tự cũ phải diệt vong và đón chào sự ra đời một trật tự mới, thì họ chính là nhà đương cục”. Đúng vậy, để đón chào cái thành quả to lớn của cách mạng kia, sự ra đời một thế giới mới, chúng ta đã không ngừng tô vẽ cho cách mạng, đồng thời, che đậy cái mặt tàn nhẫn, phản động của cách mạng.

Tất cả mọi cuộc cách mạng, nếu không có kết quả cuối cùng là một pháp luật và một chế độ, thì cái cách mạng ấy rốt cuộc sẽ trở thành hòn đá ngáng đường tiến lên của lịch sử. Đây chính là điều mà Arendt rút ra sau khi so sánh cuộc cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ, rồi phơi bày tất cả các thứ tệ đoan của cuộc cách mạng tháng Mười Nga.

Nhìn lại một trăm năm “cách mạng” Trung Quốc, đúng như bà Arendt có nói, “Nhìn từ phương diện lịch sử, chăm chú vào khoảnh khắc cách mạng thì thấy, đại cách mạng đã biến chất thành chiến tranh, biến chất thành nội chiến và ngoại chiến, quyền lợi của nhân dân vừa mới giành được, chưa kịp xây dựng chính thức, liền biến chất thành tao loạn liên miên”. Trung Quốc 20 năm đầu thế kỉ XX đã trải qua các cuộc chiến tranh quân phiệt, chiến tranh kháng Nhật rồi nội chiến Quốc Cộng, tưởng rằng giành được những năm tháng hòa bình, nhưng vị chúa tể của thế giới mới liền tiến hành cuộc thanh toán dị đoan, đó chính là cái phương thức tư duy của kẻ giành chiến thắng trong cách mạng Pháp mà Arendt đã tổng kết, “bởi vì, tiếp theo là kẻ hành động vì cách mạng tự cho phép mình muốn làm gì thì làm,” cho nên, “Làm thế nào để đề phòng kẻ cùng khổ ngày hôm qua, hôm nay thành cự phú liền phát huy các quy tắc hành động của mình, đem áp đặt chúng cho chính thể mới, các mối lo này của hôm nay chưa từng có từ thế kỉ XVIII.” Giải thích theo lí thuyết của Arendt, mấu chốt để phát động một cuộc “cách mạng” nhằm tiến tới xây dựng một nền dân chủ và pháp chế thì phải sử dụng phương thức lập quốc theo cuộc “cách mạng” pháp lí kiểu Mĩ, chư không đi theo con đường chỉ dựa vào cảm xúc và tình cảm. “Phương hướng của cuộc cách mạng Mĩ trước sau đều nhằm dốc sức xây dựng một nước tự do, một chế độ lâu dài. Đối với người hành động vì mục tiêu đó, không cho phép bất cứ hành động nào ngoài phạm vi pháp luật dân sự được thực hiện. Vì sự khổ đau nhất thời, phương hướng của cuộc đại cách mạng Pháp ngay từ đầu đã xa rời quá trình lập quốc, nó được quyết định bởi tính tất yếu, chứ không phải bắt nguồn từ nhu cầu bức thiết giải thoát khỏi chính trị bạo lực, nó bị thúc đẩy bởi nổi thống khổ quá ư nặng nề của nhân dân, và sự đồng cảm với nổi thống khổ vô bờ bến ấy. Ở đây, cái tính chất tùy tiện vô phép tắc vốn bắt nguồn từ tình cảm trong tâm hồn, tính vô hạn của tình cảm xúi giục thúc đẩy, đã phóng thích cả chuỗi bạo lực liên tục.” Câu nói này mới sâu sắc biết bao!

Nước Trung Quốc thế kỉ XX đã đi qua trong cuộc chiến tranh của phong trào văn hóa “ sau cách mạng” và “hậu cách mạng”, từ sự kiện Phúc Điền [2], chỉnh phong Diên An, nội chiến, lại trấn áp phản cách mạng, chống phái hữu rồi cách mạng văn hóa, không có sự kiện nào mà không phải là diễn ra dưới quyền lực tập trung của cá nhân, không đếm xỉa đến nỗi thống khổ của nhân dân, quyền lực của nhân dân bị biến thành kẻ hành động vì cách mạng, biến thành tiếng kèn chiến đấu tiếp tục “cách mạng”. Loại “cách mạng” này rõ ràng đã phải trả giá bằng sự hy sinh nhân tính và hy sinh tự do. Do đó lí luận “Cách mạng không phải là được mời đi dự tiệc” của lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đã trở thành chân lí tối cao và danh ngôn chí lí, mà đến nay vẫn còn thấm sâu trong quan niệm của bao người chấp chính mà hoàn toàn không tự giác.

Cái quan niệm hạt nhân mà Arendt muốn bày tỏ qua sự so sánh hai cuộc cách mang – cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ thật là rõ rệt – cuộc cách mạng đại chúng chỉ dựa vào lòng đồng tình và thương xót đối với người nghèo khổ là không đáng tin cậy, đồng thời cũng không cứu được người nghèo khổ, bởi vì cái “cách mạng” này không lấy nhân tính làm cơ sở: “Từ ngày có cuộc đại cách mạng Pháp cũng chính là ngày mà tính vô hạn trong tình cảm của các nhà cách mạng đã khiến cho họ vô cảm trước hiện thực, vô cảm đối với số phận của những cá nhân. Tất cả những điều đó thật khó tin. Vì các “nguyên tắc” của mình, vì “tiến trình lịch sử”, vì “sự nghiệp cách mạng”, các nhà cách mạng sẵn sàng hy sinh mọi cá nhân mà không hề hối tiếc. Tình trạng vô cảm đối với hiện thực tràn đầy tình cảm này cũng đã thể hiện khá rõ rệt trong hành động của bản thân Rousseau, trong biểu hiện thiếu trách nhiệm, tùy tiện lặp đi lặp lại của ông, nhưng chỉ khi Robespierre đưa nó vào trong cuộc xung đột phe phái của cuộc đại cách mạng Pháp nó mới trở thành một nhân tố chính trị quan trọng đáng kể.” Rõ ràng Arendt không hề khẳng định hoàn toàn vai trò của Rousseau và Robespierre trong cuộc đại cách mạng và chủ nghĩa khai sáng, ngược lại, bà phủ định những tệ hại mà thứ “cách mạng” này đem lại cho xã hội, cho các cuộc “cách mạng” kế tục sau đó. Nói thật lòng, đối với nhà khai sáng vĩ đại Rousseau tôi không hề muốn phủ nhận lí luận và tư tưởng khai sáng do ông tạo nên, nhưng trong việc lựa chọn hai chế độ xây dựng quốc gia thì tôi hình như lại thiên về phía Arendt, bởi vì lịch sử đã cho chúng ta biết, “khai sáng” một khi đã bị “cách mạng” lợi dụng, thì rất có thể nảy sinh “tha hóa”, từ đó mà phản bội nhân tính và tự do.

Lời dự báo sau cùng của Robespierre đã chứng minh nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa khai sáng: “Chúng ta sẽ chết đi mà không để lại dấu vết gì, bởi vì trong dòng sông lịch sử của nhân loại, chúng ta đã bỏ lỡ thời cơ thành lập một quốc gia tự do.” Cái nghịch lí này chứng minh một sự thật lịch sử rằng công cuộc khai sáng sau khi bị cuộc cách mạng mù quáng bắt cóc đưa lên cỗ xe chiến tranh đã gây nên biết bao hậu quả thảm họa.

Khi người vô sản mất đi xiềng xích, trở thành nguyên động lực của cách mạng, cách mạng dựa vào sức mạnh tình cảm mà giành chính quyền, nhưng khi chiếc gông cùm của nghèo khổ ngày xưa đã tháo ra, phải chăng người vô sản lại không khoác lên mình một chiếc gông cùm mới? Nếu nói Mác đã kế thừa ý tưởng cách mạng của Roberspierre, phát triển thành học thuyết đấu tranh giai cấp, thì Lenin trong lúc vội vàng đã quay lại con đường cũ, thì Stalin đã tạo ra một mô hình cách mạng đấu tranh giai cấp cực đoan nhất, mà Trung Quốc trong những năm 50 – 70 lại chạy theo mô hình cực đoan ấy của Stalin, lại tạo ra vô vàn hậu quả thảm họa. Trong cái chuỗi dây chuyền thế giới “vô sản toàn thế giới liện hiệp lại”, kẻ chịu thảm họa sâu nặng nhất là nhân dân Liên Xô và nhân dân Trung Quốc. Đương nhiên thảm họa nặng nể nhất là nhân dân Cămpuchia trong cuộc diệt chủng của bọn Khơme đỏ của Cămpuchia dân chủ dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ cách mạng Polpot, nó chứng minh cho hậu quả về mặt luân lí của “cách mạng”.

Trong giới tư tưởng Âu Mĩ các khái niệm “nhân dân” và “đại chúng” là hoàn toàn khác nhau. Nhân dân là hình ảnh của dân chủ, còn đại chúng là danh từ chỉ bọn người ô hợp. Cho nên Arendt nói: “Về mặt lí luận, điều tai hại nhất là đem đánh đồng nhân dân với đại chúng.” Ở đây nhân dân là những “công dân” có “giác ngộ”, là người dân tự do có quan điểm độc lập; còn “đại chúng” là một đám người nô lệ tinh thần mông muội, là đám AQ bị chấn thương tinh thần dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, là bọn lưu manh dễ bị mê hoặc bởi chiến lợi phẩm của cuộc cách mạng – Hitler đã lợi dụng tình cảm của đại chúng mà dựng nên đảng Quốc xã, Stalin cũng lợi dụng tình cảm đại chúng mà lập nên “Tcheka”, còn “Hồng vệ binh” của Trung Quốc thì vẫn tồn tại trong huyết mạch của rất nhiều người, chỉ cần có người vung tay hô to một khẩu hiệu, thì sẽ có vô vàn “cánh tay đỏ” vung lên như rừng, và tiếng hô “Ura!”, “Vạn tuế!” vang động khắp nơi.

Đ. P.

Ghi chú: Đinh Phàm, đảng viên cộng sản Trung Quốc, hội viên hội nhà văn Trung Quốc, Giáo sư đại học Nam Kinh, Phó Chủ tịch Hội Nghiên cứu Văn học Trung Quốc, Chủ tịch Hội Phê bình Văn học Giang Tô, Phó Tổng biên tập tạp chí Chung Sơn.

[1] Tiếng Latinh, cách mạng là revolvere, nghĩa là quay vong, chuyển động xoay vòng. ND.

[2] Sự kiện Phúc Điền: Đây là sự kiện do Mao Trạch Đông tạo ra để thanh trừng nội bộ vào tháng 12 năm 1930, tại Phúc Điền, tỉnh Giang Tây, giết 120 người thuộc quân đoàn Hồng quân số 20, những người liên lụy bị giết lên đến 70000 người. Năm 1956, Mao đã thừa nhận giết nhầm người, nhưng đến năm 1989 dưới thời Hồ Diệu Bang, Dương Thượng Côn, những nạn nhân mới được tuyên bố vô tội. Đây là vụ thanh trừng đẫm máu đầu tiên trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc. ND.

Chính phủ và sự tín nhiệm

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Bài tham gia Diễn đàn BBC Tiếng Việt

clip_image001

Sáng ngày 21/2/2014 Ủy ban thường vụ Quốc hội họp theo định kỳ, có thông tin đưa ra là Quốc hội sẽ dừng việc lấy phiếu tín nhiệm trong kỳ họp sắp tới.

Một số ý kiến thắc mắc là việc lấy phiếu tín nhiệm thực hiện từ một nghị quyết của Quốc hội thì dừng hay không phải do Quốc hội quyết định, chứ khi Quốc hội chưa họp và chưa quyết thì làm sao đã nói là dừng?

Thắc mắc đó là đúng và nó cho thấy rõ một điều: Quốc hội Việt Nam chỉ là cơ quan thừa hành của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản.

Liên quan đến việc hình thành, triển khai và giờ là hoãn dừng thực hiện Nghị quyết số 35/2012/QH13 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm, đây là một sự việc cụ thể, nhưng nhìn rộng ra đó là ví dụ điển hình cho thấy tình trạng chính sách kém chất lượng, gây tổn hại vô cùng cho đất nước.

'Tín nhiệm thấp'

Nghị quyết 35 có điểm vô lý là ở hoạt động lấy phiếu tín nhiệm có tới 3 mức đánh giá là tín nhiệm thấp, tín nhiệm và tín nhiệm cao.

Trong khi đánh giá tín nhiệm là đánh giá về hoạt động, chủ thể bị lấy phiếu tín nhiệm là những người thực thi công vụ, khi đó hoặc là anh có làm việc và làm tốt, hoặc là anh không làm việc hay làm việc nhưng không đạt kết quả tốt. Từ đó mà chỉ có hai mức đánh giá là tín nhiệm và không tín nhiệm.

Đánh giá tín nhiệm là một loại hình phán xét về hành vi, giống như phán quyết của tòa án về hành vi của bị cáo, khi đó chỉ có thể quyết định là có tội hoặc không có tội, chỉ một trong hai loại thôi chứ không được nửa vời.

clip_image003
Việc "lấy phiếu tín nhiệm" theo Nghị quyết 35 của Quốc hội được thực hiện trong năm 2013

Như thế rõ ràng là bất hợp lý khi để ba mức đánh giá như hiện tại.

Ngoài ra Nghị quyết 35 còn có điểm bất hợp lý là có tới hai hoạt động đánh giá tín nhiệm là “lấy phiếu tín nhiệm” và “bỏ phiếu tín nhiệm”.

Theo đó, để loại bỏ được một cán bộ yếu kém năng lực thì phải qua hai bước đánh giá với điều kiện, tiêu chuẩn và thủ tục khác nhau.

Sau lấy phiếu tín nhiệm rồi lại phải bỏ phiếu tín nhiệm. Điều này gây mất thời gian và làm lợi cho người được đánh giá bởi vì họ sẽ có thời gian và cơ hội để “chạy chữa”. Điều đó sẽ không thể xảy ra khi việc đánh giá được thực hiện bằng chỉ một thủ tục ngắn gọn rõ ràng và minh bạch.

Học hỏi không đến nơi đến chốn

Hoạt động đánh giá tín nhiệm đối với thành viên Chính phủ bộc lộ mối tương quan trách nhiệm giữa hai cơ quan Quốc hội và Chính phủ.

Đây là việc làm đúng đắn để dân kiểm soát chính quyền mà các nước dân chủ tiến bộ đã thực hiện từ lâu. Với bề dày kinh nghiệm các nước đã cho ra đời cách thức đánh giá tín nhiệm mà chúng ta tuy chưa tận mắt chứng kiến nhưng cũng có thể tin là khoa học và hiệu quả.

Vậy tại sao Việt Nam đi sau học hỏi và áp dụng mà sao lại kém thế, để đến nỗi chính sách ban hành sau duy nhất một lần thực hiện đã phải dừng lại thay đổi? Tuổi thọ của chính sách kém thế sao? Chất lượng của chính sách yếu kém thế sao?

Hay phải chăng có những lực cản ngay từ trong khâu ban hành chính sách khiến cho chính sách có chất lượng thấp và khi thực thi không đem lại hiệu quả?

Ở nhiều nước, hoạt động đánh giá tín nhiệm chỉ áp dụng đối với thành viên Chính phủ do Quốc hội bầu; cán bộ Chính phủ không được đồng thời là đại biểu Quốc hội và khi đánh giá họ không được quyền biểu quyết.

Ở Việt Nam, cán bộ Chính phủ chiếm số lượng lớn ở cả Quốc hội, Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương.

Vì chiếm nhiều vị trí nên đương nhiên những người này có ảnh hưởng chi phối tới các quyết sách của cả bên Đảng lẫn Quốc hội.

Mặc dù không rõ thực tế thế nào nhưng có thể hình dung là trong cuộc họp bàn cho ra đời chính sách về lấy phiếu tín nhiệm, thành viên bên Chính phủ đã không đồng ý, quan điểm của họ sẽ là cứ giữ nguyên như lâu nay không đánh giá gì hết.

clip_image005

"Ở nhiều nước, hoạt động đánh giá tín nhiệm chỉ áp dụng đối với thành viên Chính phủ do Quốc hội bầu; cán bộ Chính phủ không được đồng thời là đại biểu Quốc hội và khi đánh giá họ không được quyền biểu quyết."
Luật sư Ngô Ngọc Trai

Hoặc nếu bị ép quá về việc phải có chính sách về đánh giá tín nhiệm thì họ sẽ gây áp lực để việc đánh giá thì đánh giá “cả làng”, không chỉ thành viên Chính phủ mà đánh giá cả cán bộ thuộc Quốc hội và cán bộ tư pháp, tất cả đều đánh giá về chính mình và về người thuộc khối cơ quan mình.

Cũng không loại trừ các thành viên Chính phủ đã tác động ảnh hưởng khiến cho chính sách ra đời nhưng quy định chẳng đâu vào đâu, để tới ba mức đánh giá và qua hai khâu đánh giá mới cho ra kết quả.

Đó là tác hại của việc để cho những người của cơ quan hành pháp chịu sự đánh giá được tham gia vào việc quyết định xem có đánh giá hay không và đánh giá như thế nào?

Đó cũng chính là câu trả lời cho tình trạng chất lượng kém của các chính sách và là nguyên nhân khiến đất nước chậm phát triển.

Quyền chi tiêu ngân sách?

Một điều thực tế ở Việt Nam xuất phát từ tình trạng kiêm nhiệm nên Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương và Quốc hội đều trao quyền quá lớn cho Chính phủ.

Các cơ quan lãnh đạo chỉ giao những mục tiêu nhiệm vụ chung chung trong những nghị quyết, Chính phủ được trao quyền rộng rãi khi thực hiện.

Điều đó dẫn đến kết quả là Chính phủ vừa ban hành chính sách vừa thực thi chính sách, Chính phủ được quyết định phân bổ và sử dụng nguồn lực đất nước.

Tại sao Chính phủ lại được quyền quyết định dành tiền chi tiêu cho việc này mà không phải việc khác? Chính phủ lấy tư cách nào để đánh giá tính chính đáng và cấp thiết trong việc giải quyết những vấn đề của các nhóm cộng đồng dân cư?

Căn cứ vào đâu Chính phủ cho rằng việc dành nguồn lực tài chính để cứu trợ thị trường bất động sản, thu mua nợ xấu ngân hàng là cấp thiết hơn việc đầu tư cung cấp nước sạch cho hàng chục triệu dân nông thôn hay cải thiện nơi ăn chỗ ở cho hàng chục triệu công nhân công nghiệp?

Ở các nước khác họ làm thế nào?

Xuất phát từ yêu cầu về sự công bằng, ở nhiều quốc gia họ quy định chỉ Quốc hội là cơ quan đại diện cho mọi tầng lớp dân chúng mới có tính chính đáng khi xác quyết thứ tự các vấn đề cần ưu tiên cần giải quyết và theo đó là phân bổ nguồn lực đất nước.

Hiến pháp mọi nước đều quy định tinh thần chung là Quốc hội mới là cơ quan quyết định về ngân sách quốc gia chứ không phải Chính phủ.

Hiến pháp Nhật Bản theo đó đã sử dụng câu chữ khiến cho việc hiểu không thể nào lệch lạc đi được khi viết rằng: Không một khoản tiền nào được chi cho dù Chính phủ có yêu cầu trừ khi được Quốc hội cho phép.

clip_image007
"Thực tế hiện tại cả Ngân hàng Nhà nước và Kho bạc Nhà nước đều nằm dưới sự quản lý điều hành của Chính phủ."

Nước Mỹ năm vừa rồi có sự kiện là Chính phủ Mỹ đã đóng cửa dừng hoạt động mà nguyên nhân chính là Quốc hội Mỹ đã không đồng ý cấp khoản chi ngân sách cho một đề án theo yêu cầu của Chính phủ.

Chính phủ Mỹ đã không được tự ý chi tiêu ngân sách. Để thuyết phục Quốc hội đồng ý cho đề án của mình, Chính phủ Mỹ đã phải thuyết phục bằng hàng loạt lý do chính đáng và trong nỗ lực cuối cùng đã phải làm một việc kinh khủng là đóng cửa dừng hoạt động để gây áp lực đòi hỏi Quốc hội phải thông qua.

Kỷ luật ngân sách là yếu tố then chốt để có được những quyết định chi tiêu đúng đắn. Trong khi đó ở Việt Nam không có gì ngăn trở Chính phủ chi tiêu ngân sách. Thực tế hiện tại cả Ngân hàng Nhà nước và Kho bạc Nhà nước đều nằm dưới sự quản lý điều hành của Chính phủ.

Kiểm soát Chính phủ

Nếu như đề xuất chi tiêu của Chính phủ là chính đáng hợp lý thì tại sao lại không thể đưa ra Quốc hội bàn luận để việc thực thi đạt hiệu quả cao nhất? Ví dụ như gói cứu trợ bất động sản 30 nghìn tỷ mà có thông tin tới đây có gói 100 nghìn tỷ?

Quốc hội bận gì mà không bàn luận những vấn đề đó? Chính phủ vội gì khi Quốc hội một năm hai lần họp vào giữa và cuối năm?

Tại sao một chính sách lớn như thế mà Chính phủ thì vội vàng, Quốc hội thì thờ ơ để đến nỗi gói cứu trợ bất động sản thực hiện èo uột mà như nhiều người đánh giá là đã thất bại?

Trong khi đó Chính phủ vẫn chỉ đạo triển khai và mỗi lúc lại nới rộng thêm những tiêu chí mới để có thể giải ngân?

Nếu hiệu quả của chính sách là mục tiêu tối cao thì tại sao lúc đầu không đưa ra được các tiêu chí này, tầm nhìn hạn chế quá chăng?

Tại sao không đưa ra Quốc hội bàn luận để tổng hợp trí tuệ tập thể?

Cũng phải hỏi lại là Quốc hội có đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân không? Nếu có thì Quốc hội chịu trách nhiệm thế nào về sự thành công hay thất bại của gói cứu trợ bất động sản?

Biết bao nhiêu vấn đề đời sống dân sinh cần được giải quyết, Quốc hội có phản ánh ý chí nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động khác không?

Nếu có thì ai đại diện cho những nữ công nhân công nghiệp làm việc đầu tắt mặt tối mà cân nặng chưa tới 45kg? Ai đại diện cho những cặp vợ chồng công nhân có con nhỏ chỉ vài tháng tuổi đã phải gửi đi nhà trẻ để bố mẹ đi làm? Tại sao họ vốn tính chăm chỉ mà mãi sống cuộc đời nhọc nhằn trong những khu xóm trọ tồi tàn như vậy?

Đại biểu nào đại diện cho các bậc phụ huynh và các em học sinh vùng núi khi mỗi lần đến trường là sự đánh đổi nguy hiểm đến tính mạng vì sông lũ?

clip_image009
"Các cơ quan lãnh đạo như Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quốc hội cần xem xét lại tính hợp lý trong tổ chức và hoạt động của mình."

Đại biểu nào đại diện cho các công chức viên chức với mức lương không đủ cho sinh hoạt để rồi phải đánh đổi nhân phẩm bằng những việc làm trái lương tâm? Ai đẩy họ đến nông nỗi ấy? Tại sao họ lại không thể có được một mức lương đủ sống để không phải mất đi nhân phẩm?

Tất cả là do các chính sách phát triển kinh tế xã hội và vấn đề về chất lượng của nó, đằng sau đó là vấn đề về sự bố trí hợp lý các thiết chế và sự vận hành khoa học của hệ thống. Các đại biểu có nhận ra điều đó không và làm gì để thúc đẩy điều đó?

Tinh hoa nhân loại đã đúc kết ra hệ thống tam quyền phân lập, tách bạch nhân sự giữa cơ quan làm chính sách và cơ quan thực thi chính sách, tách bạch nhân sự giữa Quốc hội và Chính phủ.

Ở Việt Nam lâu nay duy trì tình trạng kiêm nhiệm bất hợp lý, khi bộ máy vận hành không khoa học thì sản phẩm ra đời của nó là các chính sách sẽ bị lỗi.

Các cơ quan lãnh đạo như Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quốc hội cần xem xét lại tính hợp lý trong tổ chức và hoạt động của mình.

Nếu không thay đổi rập khuôn ngay mô hình nước ngoài thì cũng phải thay đổi sao cho tiệm cận với các thiết chế dân chủ để tạo động lực cho đất nước phát triển. Như thế mới là vì nước vì dân.

Trước mắt có thể làm ngay là giảm mạnh tình trạng kiêm nhiệm do Luật tổ chức Quốc hội đang được xem xét sửa đổi và kiểm soát việc chi tiêu ngân sách của Chính phủ do Luật đầu tư công đang được trình Quốc hội thông qua (tại sao một hoạt động như đầu tư công được thực hiện từ mấy chục năm nay, bây giờ mới cho ra đời luật về nó?).

Tăng cường đòi hỏi Chính phủ giải trình về các quyết sách, tăng cường hoạt động đánh giá tín nhiệm tạo áp lực loại bỏ chính là cách đốc thúc Chính phủ làm tốt công việc của mình. Khiến cho Chính phủ không dễ dàng trong hoạt động chính là cách khiến cho Chính phủ hoạt động tốt hơn.

Có như thế mới có hy vọng đất nước phát triển lên được.

N. N. T.

Nguồn: bbc.co.uk