Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Bùi Tín: Tan hỏa mù

“Họ phân công đóng kịch, tung hỏa mù, làm như có một thiểu số trong Bộ Chính trị có quan điểm dân chủ, làm cho dư luận lầm tưởng rằng có phe này phái nọ đối lập nhau, phe thân Tàu, phái thân Mỹ. Do đó có kẻ sang Bắc Kinh nói toàn lời hữu hảo, bị Tàu coi là đứa con hư hãy trở về gia đình vẫn cứ ‘hảo, hảo’, mới đây còn lập đường dây điện thọai nóng giữa 2 Bộ Quốc phòng, rồi cử 13 viên tướng sang chầu Thiên triều. Đồng thời lại cử người sang Washington nở nụ cười tươi, tặng quà độc đáo, dọa kiện TQ ra trước tòa án quốc tế, hứa kết bạn với Philippines, rồi huênh hoang tuyên bố ‘dân chủ và nhà nước pháp quyền là 2 thành quả song sinh của nền chính trị hiện đại’ – nhưng không hề khởi động theo những lời hứa ấy”.

Bùi Tín


27-10-2014

Ít lâu nay, trong giới bình luận thời sự trong và ngoài nước đã có không ít người lạc quan cho rằng trong lãnh đạo đảng CS có một sự phân hóa, bên cạnh xu hướng thân Tàu, dựa vào Tàu, đã có một bộ phận muốn cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ và phương Tây.

Khi ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị được cử sang Hoa Kỳ trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sẵn sàng khăn gói theo lời mời của Ngoại trưởng Hoa Kỳ vẫn chưa được lệnh xuất phát, có dư luận cho rằng nhóm thân Mỹ trong Bộ Chính trị đã chiếm ưu thế, mở ra triển vọng mới cho vị thế quốc tế của Việt Nam, thoát khỏi sự khống chế của người khổng lồ phương Bắc. Xu hướng lạc quan này xét ra là có lý, thuận theo suy luận lô-gíc của các sự kiện.

Vụ Bắc Kinh ngang nhiên đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển Đông nước ta là một hành động ngạo mạn gây nên sự căm phẫn mạnh mẽ của toàn dân cũng như sự lên án của công luận quốc tế. Bộ Chính trị không thể làm ngơ trước thái độ giận dữ ấy. Thêm nữa, Bộ Chính trị cảm thấy rõ sức ép quốc tế từ Liên Hiệp Quốc, từ Quốc hội Hoa Kỳ, từ Liên Âu … yêu cầu nghiêm cách VN phải tôn trọng nhân quyền, trả tự do cho tù chính trị, tôn giáo, cho phép lập công đoàn tự do, để củng cố thế đứng của VN trong Hội đồng Nhân quyền của LHQ, gia nhập vào khối TPP nhiều lợi lộc.

Cho nên lãnh đạo đảng CS buộc phải tìm cách xoa dịu nỗi căm phẫn của nhân dân đối với hành động hung hăng ngạo mạn của Bắc Kinh, đồng thời họ cũng cố làm động tác chìa bàn tay thân hữu với Hoa Kỳ và phương Tây để hòng trục lợi, những món lợi không nhỏ.

Thế là các tù nhân Cù Huy Hà Vũ, Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Tiến Trung và một số sỹ quan và viên chức Việt Nam Cộng hòa ở tù lâu năm được trả tự do.

Từ sau tháng 9/1990, với cuộc mật đàm và Thỏa thuận ngầm ở Thành Đô, Bộ Chính trị bị ngấm đòn do roi vọt của Đặng Tiểu Bình, hoảng sợ khi hàng lọat nước CS Đông âu tan vỡ, người anh Cả CS Liên Xô trên bờ vực, liền lao vào bẫy của Bắc Kinh để kiếm chỗ dựa trước khả năng bùng nổ của ngọn triều dân chủ của nhân dân mình như ở Rumani, Bungari.… Họ sẵn sàng chuyển kẻ thù thành người Anh lớn, cùng chung học thuyết, cùng chung chế độ xã hội, chung lý tưởng CS, sống chết có nhau. Họ cho đó là cao kiến, là thượng sách, cứu đảng đặt cao hơn cứu dân.

Đây là cuộc câu kết mang bản chất phản bội nhân dân 2 nước, phản bội tình hữu nghị chân chính giữa 2 dân tộc Việt – Trung, chống lại nhân dân toàn thế giới khi toàn thể lòai người tiến bộ đã kết luận chủ nghĩa CS hiện thực là tội ác gây nên cái chết của hơn 100 triệu nhân mạng, trong đó có hơn 40 triệu dân Trung Quốc và hơn 4 triệu dân VN. Thỏa thuận Thành Đô là văn kiện tuy có thể không có thỏa thuận nào phía VN đồng ý trong 30 năm trở thành khu tự trị của TQ, nhưng chắc chắn nó là văn kiện nhục nhã bất bình đẳng, mở đường cho phía TQ lấn hàng trăm cây số vuông trên bộ, hàng vạn cây số vuông trên biển, chiếm hàng lọat đảo của VN, còn thâm nhập khai thác hàng vạn héc ta rừng biên giới, thâm nhập sâu cả vùng chiến lược Tây Nguyên để khai thác bô-xít, chiếm các gói thầu lớn nhất trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, còn mở đường cho hàng mấy chục vạn người TQ xâm nhập sinh cơ lập nghiệp với những bản làng Trung Hoa trên đất nước ta. Thiệt hại, mất mát đó là vô giá, không thể tính hết.

Mất mát về chủ quyền, về lãnh thổ, về biển đảo, về tài nguyên, về môi trường, về dân sinh, về kinh tế, tài chính, về quốc thể, không sao tính hết.

Có thể khẳng định chưa có một mảy may dấu hiệu nào là lãnh đạo VN tỉnh ngộ, nhận ra sai lầm kinh khủng của Thỏa thuận Thành Đô, công khai nhận sai lầm với toàn dân, toàn quân đội, phủ định những hớ hênh đã cam kết, trả hẳn lại cho phía TQ “4 tốt” và “16 chữ vàng” do chính phía TQ cố tình chà đạp, để khẳng định quyền thay đổi đường lối đối ngọai, quyền ‘ xoay trục’ của mình.

Vậy những chuyện tạo nên ảo vọng, hồi hộp, phán đoán lạc quan vừa qua là gì? Là động tác chiến thuật, là thuộc chiến tranh tâm lý, là thủ đọan thâm hiểm, là tạo nên màn khói giả tạo, thiện chí giả tạo. Bởi vì cả 16 người trong Bộ Chính trị hiện vẫn là một đồng một cốt, tuy có thể có những mâu thuẫn kèn cựa cá nhân, nhưng đều thuộc về phái thân Tàu, coi Tàu là chỗ dựa toàn diện, chỗ dựa chiến lược lâu dài. Họ yêu đảng CS để vụ lợi riêng, bảo vệ đảng để kiếm chác tận trong tim óc, chỉ yêu nước ở đầu lưỡi, chỉ phục vụ nhân dân ở 2 môi.

Họ phân công đóng kịch, tung hỏa mù, làm như có một thiểu số trong Bộ Chính trị có quan điểm dân chủ, làm cho dư luận lầm tưởng rằng có phe này phái nọ đối lập nhau, phe thân Tàu, phái thân Mỹ. Do đó có kẻ sang Bắc Kinh nói toàn lời hữu hảo, bị Tàu coi là đứa con hư hãy trở về gia đình vẫn cứ ‘hảo, hảo’, mới đây còn lập đường dây điện thọai nóng giữa 2 Bộ Quốc phòng, rồi cử 13 viên tướng sang chầu Thiên triều. Đồng thời lại cử người sang Washington nở nụ cười tươi, tặng quà độc đáo, dọa kiện TQ ra trước tòa án quốc tế, hứa kết bạn với Philippines, rồi huênh hoang tuyên bố «dân chủ và nhà nước pháp quyền là 2 thành quả song sinh của nền chính trị hiện đại» – nhưng không hề khởi động theo những lời hứa ấy.

Do đó mà cầm chắc rằng việc gia nhập TPP sẽ còn vời vợi, việc mua vũ khí sát thương của Hoa Kỳ còn khá xa xăm, và hạnh kiểm Nhân quyền của Bộ Chính trị Hà Nội sẽ tiếp tục bị điểm xấu dài dài.

Blogger Điếu Cày: Nhà tù Cà Mau như ‘trại súc vật’



Nam Phương & Thiện Giao

27-10-2014



LTS – Sáu ngày sau khi được đưa thẳng từ nhà tù ở Nghệ An lên máy bay sang thẳng Hoa Kỳ và đặt chân xuống phi trường Los Angeles, ngày 27 tháng 10, blogger Điếu Cày dành cho Người Việt cuộc phỏng vấn qua điện thoại từ chỗ ở tạm của ông. Trong cuộc phỏng vấn này, ông chia sẻ nhiều điều liên quan đến việc được thả trước thời hạn và những trải nghiệm của ông ở trong tù. Cuộc phỏng vấn do Nam Phương và Thiện Giao thực hiện.


Người Việt: Khi được thả ra khỏi nhà tù ở Thanh Chương, Nghệ An, sao người ta không thả anh ở Việt Nam mà lại đi thẳng sang Hoa Kỳ?

Điếu Cày: Trước hết, tôi xin nói rõ: Tôi không xin tha tù, và nhà cầm quyền Cộng Sản cũng không tha tôi. Họ đưa tôi ra khỏi trại giam và áp giải tới sân bay. Bộ Ngoại Giao Việt Nam tuyên bố, Việt Nam đã quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

Người Việt: Vậy anh có biết trước việc ra đi? Hay anh có biết là liệu có những cuộc nói chuyện giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ?

Điếu Cày: Hai bên chính phủ làm việc với nhau thì chúng tôi hoàn toàn không biết. Chúng tôi ở trong tù. Thông tin rất hạn hẹp.

Người Việt: Có nghĩa là anh bị trục xuất?

Điếu Cày: Cũng không hẳn như vậy. Chính phủ Việt Nam yêu cầu tôi viết đơn xin tha tù và nhập cảnh vào Mỹ để học tập về báo chí. Nhưng họ cũng không đưa ra điều kiện tôi được ra tù và được ở lại Việt Nam. Còn khi tôi gặp đại diện Bộ Ngoại Giao Mỹ, thì họ nói chính phủ Mỹ yêu cầu chính phủ Việt Nam phải thả tôi vô điều kiện dù tôi ở lại Việt Nam hay sang Hoa Kỳ, thì hai bên mới đạt thỏa thuận tôi ra tù sẽ sang Mỹ.

Người Việt: Vào ngày anh lên đường sang Hoa Kỳ, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói rằng anh tự quyết định xin sang Mỹ. Như thế có đúng không ạ?

Điếu Cày: Câu hỏi của anh có phải là: Anh không có quyền lựa chọn ở lại Việt Nam và đi sang Mỹ, hay đúng như Bộ Ngoại Giao Mỹ nói anh quyết định sang Mỹ để được thả sớm?

Người Việt: Đúng vậy.

Điếu Cày: Cả hai điều trên đều đúng.

Người Việt: Anh từng qua nhiều nhà tù khác nhau ở Việt Nam. Nơi nào cai tù độc ác nhất với tù nhân? Cách khác, nhà tù Việt Nam có tôn trọng khía cạnh con người của người bị giam cầm không?

Điếu Cày: Tôi đã đi qua 11 nhà tù của Việt Nam, từ Cà Mau ra tới Nghệ An. Trại nào cũng ác. Nhưng trại giam Cái Tàu, Cà Mau, thì đúng là Trại Súc Vật. Năm 2009, nghị định 113 quy định chỗ nằm mỗi người là 2 mét vuông, nhưng thực tế mỗi người khi chia gạch thì chỉ được rộng bằng (nghe không rõ). Cứ 2 người một cái mùng nhỏ, hai đầu có lỗ thủng để xuyên cái võng qua, kẻ nằm trên, người nằm dưới. Các lối đi trong phòng giam cũng kín người nằm, dù người ta đi lại ướt nhẹp và hôi thối. Nước tắm rất ít và yếu. Tù nhân phải ngậm miệng vào đường ống để hút nước ra, hứng từng ca đổ vào thùng để sử dụng. Nhưng không phải ai cũng dễ dàng đến gần vòi nước được, nếu không muốn bị một cái ca vào đầu. Một phòng, họ nhốt hơn 100 người mà chỉ có 2 chỗ đi cầu. Lại không có nước dội. Hai đống phân như hai cái thúng úp. Mùi nước tiểu và mùi phân nồng nặc, cộng với hơi người hầm hập. Và muỗi thì nhiều vô kể. Những ngày triều cường lên cao, nước trong cống và hố phân không thoát ra được, dâng lên, ngập đầy sân trại, thúi hoắc. Còn cơm với canh thì suốt đời là canh rau muống, mà canh rau muống thì dài nửa mét. Những người bị kỷ luật mới khổ.

Người Việt: Có sự khác biệt nào giữa chính sách đối xử của cai tù với tù chính trị và tù hình sự?

Điếu Cày: Tôi muốn nói về chuyện quản giáo đánh tù ngay giữa sân trại, có hàng ngàn tù nhân chứng kiến. Đó là vụ của đại úy tên là “Phú Ma” đánh tù nhân tên là “Minh Ngọng” người Cà Mau. Lúc đầu thì anh ta quất bằng mã trắc, sau đó bỏ mã trắc sang một bên, lấy gốc tràm đánh tiếp. Rồi lại thay bằng một chân niễng. Minh Ngọng chỉ lấy hai tay ôm lấy đầu, nằm quằn quại giữa sân. Đánh mỏi tay rồi Phú Ma bắt Minh Ngọng bò vào nhà tự quản, như một con vật. Phú Ma là người ở Vinh, quê Nghệ An. Còn rất nhiều vụ nữa mà tôi không tiện kể hết ra đây. Chính tôi đấu tranh hơn 2 tháng trời thì họ mới khoan thêm một cái giếng cho tù nhân ở trại giam Cái Tàu, Cà Mau.

Nếu Viện Kiểm Sát mà muốn điều tra, cứ lấy tổng số tù nhân nam ở trại Cái Tàu, chia cho diện tích số phòng giam vào thời điểm đó thì sẽ biết mỗi người nằm một đoạn gạch là bao nhiêu. Tôi ở đội 28 nhưng mà 2 lần Viện Kiểm Sát vào trại kiểm tra là 2 lần quản giáo đưa cả đội chúng tôi ra ngoài đồng ngồi cho đến khi Viện Kiểm Sát đi về thì mới được cho vào trại. Sống như thế thì làm sao gọi được là người?

Người Việt: Anh đã từng tuyệt thực nhiều lần, trong đó có 2 lần tuyệt thực dài, gần một tháng và hơn một tháng. Nếu lần sau cùng, khi anh ở Thanh Chương, không có anh Nguyễn Xuân Nghĩa tiết lộ chuyện anh tuyệt thực, anh có thể nguy đến tính mạng không?

Điếu Cày: Lần tuyệt thực 28 ngày, đến ngày thứ 28 họ phải đưa cấp cứu tại bệnh viện 30 tháng Tư. Lần thứ hai tại trại giam số 6, tôi tuyệt thực 33 ngày. Tôi không ăn, chỉ uống nước. Ở trại B34, tôi tuyệt thực nhưng không có ai đưa tin ra ngoài. Vì vậy, khi tôi sắp chết họ mới đưa tôi đi cấp cứu. Ở trại giam số 6, nếu không có anh Nguyễn Xuân Nghĩa thì tôi cũng phải đi tới cùng như lần trước thôi. Nhưng lần này may có anh Nghĩa đi ra thăm gặp, anh đã dũng cảm báo cho chị Nga vợ anh ấy vào ngày 17 tháng Bảy, 2013. Khi gia đình tôi biết tin, đi thăm tôi lần thứ hai vào ngày 20 tháng Bảy, mặc dầu tin tôi tuyệt thực đã được cả thế giới biết tới, từ ngày 17 tháng Bảy, đến 20 tháng Bảy, Viện Kiểm Sát mới vào làm việc.

Người Việt: Trở lại việc gần đây. Thấy mấy bức hình liên quan đến kỷ vật anh mang ra bên ngoài, trong đó có bức thư của anh Trương Duy Nhất do anh mang ra. Khi anh đi ra, những bạn tù còn lại gồm những ai, họ ký thác, kỳ vọng điều gì nơi anh? Anh có thể làm gì để giúp họ?

Điếu Cày: Ngoài anh Trương Duy Nhất, còn có anh Trần Anh Kim, anh Nguyễn Kim Nhàn và 3 anh Tây Nguyên nữa. Khi chúng tôi thảo luận với nhau, anh em nhắn gởi và ủy thác cho tôi thay mặt anh em đấu tranh cho quyền lợi của tất cả tù chính trị, vạch trần những văn bản luật rừng. Anh em tin rằng tôi đủ trải nghiệm để thực hiện nghĩa vụ này. Điều đó cũng tác động đến quyết định của cá nhân tôi. Các bạn có thể thấy điều ấy ngay trên lá thư của anh Trương Duy Nhất. Tôi mong được mọi người chung tay giúp đỡ tôi để tôi hoàn thành những điều mà anh em đã tin tưởng ký thác.

Người Việt: Khi ở nhà tù số 6 Huyện Thanh Chương, anh bị giam chung với tù làm gián điệp với Trung Quốc. Những người đó được sử dụng để theo dõi các anh và báo cáo lại với cai tù? Những người đó có làm phiền các anh nhiều không?

Điếu Cày: Đúng vậy. Trại Nam Hà, hễ có 2 đơn tố cáo là bị giam riêng, không cần biết đơn tố cáo có phải là sự thật không. Trại giam chỉ sử dụng đơn tố cáo của mấy tên gián điệp làm cái cớ để đàn áp anh em tù chính trị mà không cần điều tra, xác minh. Cụ thể nhất là vụ của tôi. Khi họ ngang nhiên và quyết định giam riêng tôi, không hề có một biên bản vi phạm nào, bất chấp tôi phản đối, họ xốc nách tôi, đưa ngay vào trong buồng giam. Khi anh Nghĩa đưa được tin ra ngoài, vào ngày 23 tháng Bảy, trại giam đưa tôi ra, tuyên đọc đơn tố cáo của 2 thằng gián điệp, lập “biên bản nguội” nhằm hợp thức hóa quyết định họ đã ra từ ngày 22 tháng Sáu, 2013, tức là trước đó hơn 1 tháng. Tôi đã ngay lập tức vạch trần âm mưu đê hèn này, và yêu cầu những người ký vào biên bản đó phải ghi đúng ngày tháng rồi mới ký.

Người Việt: Bây giờ đã sang Hoa Kỳ, chỉ mới là những ngày đầu tiên. Con đường dự định đấu tranh sẽ tiếp tục ra sao? Dự định cuộc sống riêng sẽ ra sao?

Điếu Cày: Về cuộc sống riêng, gia đình tôi và gia đình bên vợ hầu hết ở Vancouver và Toronto, Canada. Hiện nay tôi cũng chưa muốn chia sẻ nhiều về cuộc sống riêng.

Về dự tính tranh đấu trong tương lai, tôi muốn nói như thế này: Các chế độ độc tài thường tạo ra một không gian khép kín và bưng bít thông tin. Chúng nắm tất cả mọi phương tiện truyền thông và dùng nó để chi phối dư luận xã hội, phục vụ cho mục đích cầm quyền. Còn người dân trong những đất nước đó thì được nghe, được biết những gì nhà cầm quyền muốn. Người dân không có phương tiện cất lên tiếng nói, thể hiện ý nguyện của mình. Bọn độc tài thì sống phè phỡn trên những vùng tối u mê đó. Cho đến khi bức tường bưng bít thông tin bị phá vỡ bởi người dân đã có trong tay công cụ để chia sẻ để cất lên tiếng nói, để tự do biểu đạt ý nguyện của mình, lúc đó sự dối trá mới bị phơi bày. Người dân sẽ mất niềm tin, và đến một ngày, khi họ rút lại sự tuân phục, quyền lực khi đó chỉ còn là thứ cường quyền. Truyền thông không còn bất cân xứng, tự do nhiều chiều sẽ đem lại sự cảm thông và sự thấu hiểu giữa các dân tộc, giữa các quốc gia, và góp phần củng cố hòa bình. Chúng tôi đã bắt đầu bằng truyền thông, chúng tôi sẽ tiếp tục đi theo con đường đã chọn. Nếu bạn đồng ý với tôi, hãy chung tay tạo ra càng nhiều kết nối để loan tải thông tin, để cân bằng và để phá vỡ bức tường bưng bít thông tin và định hướng.

Người Việt: Người cùng xử chung vụ với anh, là chị Tạ Phong Tần và blogger Phan Thanh Hải. Anh và anh Hải đã ra tù, còn lại chị Tần. Anh nghĩ gì về trường hợp chị Tạ Phong Tần.

Điếu Cày: Chị Tạ Phong Tần là người đấu tranh rất kiên cường, là một cây bút chủ lực. Trong suốt nhiều năm qua, chúng tôi tuy bị chia cắt ra nhiều nơi, chúng tôi vẫn luôn nhớ về nhau, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh này, Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do đã chịu mất mất rất lớn. Đặc biệt là trong việc mẹ cô Tần tự thiêu để phản đối chế độ hà khắc này. Vì vậy, chúng tôi, dù đã được ra ngoài, vẫn sẽ tìm mọi cách, sẽ đấu tranh bằng mọi giá để kéo Tần ra ngoài, bởi vì Tần không có tội gì cả. Chúng tôi chỉ là những người dân biểu đạt quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận một cách ôn hòa, mà đã bị chính quyền Cộng Sản này đàn áp một cách ghê rợn như vậy.

Người Việt: Xin cám ơn thời gian anh dành cho độc giả của chúng tôi.

Sân golf đuổi sân bay!


Nguyễn Đình Ấm

Khi người cầm quyền cộng sản giành được Sài Gòn, đến đâu cũng sáng mắt lên không thể hình dung nổi, vì đối diện với một thành phố kinh tế thị trường về phương diện nào cũng có quy mô vượt xa cái lèo tèo của một thành phố đã triệt tiêu buôn bán, bị làng thôn hóa đến như Hà Nội. Vì thế, các ông chủ mới đã thi nhau hành xử theo kiểu những bác nhà quê thấy cái gì cũng quá to lớn, quá thừa thãi, “eo ôi, hoài của”, và cứ nơi nào có thể cắt bớt, lấn chiếm được để chia nhau mỗi người một vài miếng là làm tắp lự, không cần biết đến quy hoạch đô thị của những thành phố hiện đại phải có tầm nhìn xa như thế nào. Sân bay Tân Sơn Nhất, theo chúng tôi được biết, vốn được chế độ VNCH chừa nhiều không gian rộng rãi ở cả ngoài phạm vi sân bay, để máy bay lên xuống không bị vướng tầm nhìn, và cũng để dự trữ cho tương lai có thể mở rộng thành một sân bay hiện đại. Thế nhưng quân đội đã được bật đèn xanh biến những khoảng không “eo ôi, hoài của” đó thành đất ở, để rồi từ sau 1975, vô số nhà lúp xúp liên tiếp mọc lên thành những dãy phố chen chúc, đứng hai bên các làn đường chật hẹp, có nơi hẹp hơn con hẻm, hệt theo kiểu mẫu XHCN ở ngoài Bắc vốn được coi là thiên đường. Đường cho ô tô ra vào sân bay đến nay có những đoạn trở nên chật cứng mỗi khi có nhiều chuyến bay cất cánh hạ cánh vào giờ cao điểm, cũng chính vì lẽ đó. Và mỗi khi máy bay lên xuống thì có những người nào đấy kêu lên là “nhà dân suýt tốc mái” cũng chính lẽ đó. Đó mới là lý do của mọi lý do để người ta có cơ hội đưa ra dự án sân bay Long Thành – như những thoi vàng lấp lánh chóa mắt đang vẫy gọi – ngày hôm nay. Vậy thì CNXH là gì? Thấy đâu phá được là phá, rồi sẽ tính sau? Thấy đâu có lợi là viện đủ lý do “chính đáng” “vì những kế hoạch lâu dài cho dân cho nước” để dốc sạch túi dân làm ảnh hưởng đến tận đời con đời cháu? Xin nói với các vị, làm kiểu này các vị và nhóm lợi ích của các vị có thể phút chốc giàu to đấy, nhưng đất nước sẽ mãi mãi vắt mũi không đủ bỏ miệng. Ai cho phép xây sân golf trong một sân bay là cửa ngõ lớn của thủ phủ phía Nam? Và có luật pháp nào cho phép người nắm quyền quyết định những việc lạ kỳ như vậy? Quyết định đó đem lại lợi ích cho ai mà nay phải đánh đổi hơn 18 tỷ đô la là cái gánh lớn hơn một quả núi trên lưng dân chúng, trong khi nền kinh tế nước nhà đang hồi lụn bại, ngân hàng có thể vỡ, nợ xấu, nợ công là mối nguy kề cận, và người cai trị đủ các cấp thì nhởn nhơ bán hết rừng, hết biển, bán cả những địa điểm trọng yếu cho những đối tác không đáng tin cậy như Vũng Áng, nay lại đang bán đường di? Các vị có cảm thấy dưới mông mình đang nhột hay không?

Bauxite Việt Nam






Mặc dù đã có rất nhiều ý kiến phản đối dự án xây dựng sân bay Long Thành thay cho sân bay Tân Sơn Nhất (TSN) trong thời kỳ nền kinh tế đất nước đang rất khó khăn nhưng đến nay dự án tốn kém và vô lý này vẫn đang được xúc tiến. Vô lý vì kêu TSN chật chội nhưng có 157,6 ha được lấy làm sân golf! Tới đây Chính phủ sẽ trình dự án ra Quốc hội và liệu mọi việc có thể sẽ an bài với những lý do “thuyết phục” như: TSN quá tải, chật chội, ô nhiễm môi trường, không an toàn… Vậy những lý do đó thuyết phục đến đâu?





Khu nhà chính đang được thi công trong công trình sân golf tại sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh: Bạch Dương (TN)



Về TSN quá tải: Đó là lý do luôn được đưa ra mỗi khi trình bày dự án phải xây Long Thành thay TSN.

Phát ngôn như thế là không chính xác, nếu không nói là bịp bợm. Bởi vì, ở một sân bay, không bao giờ người ta xây ngay từ đầu công suất tối đa mà phải xây cơ sở hạ tầng theo từng giai đoạn thị trường yêu cầu. Hiện tại TSN quá tải trước mắt là sân đỗ và vài năm nữa là nhà ga, đường băng. Những năm gần đây cảng hàng không (HK) TSN, hãng HK quốc gia VNA phải thuê sân đỗ, nhà xưởng bên quân sự để hoạt động. Việc TSN xây dựng thêm các cơ sở này không khó, vì theo đo đạc, thống kê của Cục HKVN năm 2010, quỹ đất vẫn còn 1.150 ha (kể cả sân golf của đại gia quân đội 157 ha) đủ diện tích để xây sân bay có công suất tới 80 triệu khách/năm, ngang với cảng HK Check Lap Kok của Hongkong (Check Lap Kok rộng 1.200 ha nay đang khai thác 45 triệu khách/năm và có thể tăng lên 80-100 triệu).



Hiện nay TSN có hai đường băng nhưng do quá gần nhau nên khi khai thác chỉ tính như một với công suất tối đa 30 lần chuyến/giờ (720 chuyến/ngày - tiêu chuẩn ICAO). Hiện nay mật độ khai thác tối đa TSN mới chỉ khoảng 400 chuyến/ngày. Nếu chỉnh trang đường lăn, tăng sân đỗ, xây thêm nhà ga thì TSN có thể tăng gấp hai lần hiện tại (40 triệu khách/năm).

Sau khi TSN đến sản lượng khách 35-40 triệu khách/năm thì phải làm thêm một đường băng nữa cách đường băng cũ tối thiểu 1.035 m để có công suất 50-80 triệu khách/năm.

Nếu do bị lấn chiếm đất, TSN méo mó, thì với diện tích 1.150 ha, cắt chỗ này, bù chỗ kia cho nhà dân di chuyển thì vẫn có thể làm được hai đường băng đúng tiêu chuẩn ICAO mà không phải bồi thường đất, mà chỉ bồi thường tiền xây nhà nên số tiền sẽ không lớn. Đến đây thì tất nhiên sân golf của đại gia quân đội sẽ phải làm đúng khẩu hiệu “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh…”. Ý kiến của Cục trưởng Cục HKVN Lại Xuân Thanh “Việc xây sân golf hay không xây sân golf đều không giúp nâng công suất của TSN lên” là không khách quan.

Theo các chuyên gia HKVN, khi TSN đã lên 60-70 triệu khách/năm là có thể bão hòa, khó có thể tăng nữa do nhiều chuyến bay nước ngoài sẽ bay thẳng đến các sân bay quốc tế khác ở VN như Cần Thơ, Phú Quốc, Cam Ranh… mà không cần phải transit ở TSN như bây giờ. Hiện nay nhiều sân bay các nước phát triển trước kia đông đúc nay bị giảm khách do máy bay tăng cự ly bay và có thêm nhiều sân bay mới. Mười sân bay nhộn nhịp nhất thế giới ở những nước kinh tế phát triển hàng đầu thế giới có thời gian phát triển hàng trăm năm qua đến nay cũng chưa có sân bay nào đạt 100 triệu khách/năm như người ta gán cho sân bay Long Thành đến năm 2050 (Cảng HKQT nhộn nhịp nhất thế giới Hartsfield-Jackson ở Atlanta - Mỹ là 89,3 triệu khách/năm, thứ hai sân bay Bắc Kinh - TQ là 73,8 triệu khách/năm (nhưng nhiều năm nay hầu như không tăng nữa).

- Về ô nhiễm: Hầu hết hoạt động sân bay là gây ô nhiễm và TSN cũng vậy. Sân bay quốc tế Tokyo (Haneda) bận rộn nhất Nhật Bản, tấp nập thứ tư thế giới “nằm trong nội thành Tokyo” (ai không tin vào Google: “Sân bay Narita” sẽ nói rõ về sân bay Tokyo) và không thiếu gì các sân bay chỉ cách thành phố 10 - 20 km hoặc sát thành phố như TSN, mặc dù cự ly đó là không lý tưởng (là khoảng 30 - 35 km). Nay nếu nói TSN phải dời đi để chống ô nhiễm là không công bằng, bởi vì máy bay quân sự, sân golf còn ô nhiễm, nguy hiểm hơn máy bay dân dụng nhiều lần thì vẫn ở đó! Hơn nữa nếu TSN về Long Thành ta sẽ giảm phần ô nhiễm cho thành phố do máy bay dân dụng nhưng hàng nghìn xe cộ chở khách đi máy bay trên con đường 40 km Long Thành - TP HCM sẽ thải ra lượng ô nhiễm gấp nhiều lần nếu hàng nghìn phương tiện đó từ TSN ra, vào thành phố, tức chi phí đi lại và lượng ô nhiễm chung sẽ tăng lên. Chính một phần vì lý do này, và vì khí thải, tiếng ồn máy bay chở khách hiện nay đã giảm đáng kể, cộng với hiệu quả kinh tế, nên người Nhật mới để tồn tại các sân bay nằm trong nội thành như vậy. Dù thế, không thể phủ nhận nếu khi nước ta đã giàu có, sân bay nằm ở vị trí Long Thành và quỹ đất TSN chuyển làm các công trình phúc lợi công cộng mà TP HCM còn rất thiếu như công viên, quảng trường, sân bay thể thao, cấp cứu HK… (không gây ô nhiễm) là rất lý tưởng. Thế nhưng nếu chuyển TSN đi với cái giá cả gần vài chục tỷ đô trong khi TP vẫn bị máy bay quân sự, sân golf hành hạ về tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước, lượng khí thải khổng lồ từ hàng nghìn xe cộ đi lại từ Long Thành - TP HCM hơn 40 km… là thất sách không thể chấp nhận.

- Vấn đề an toàn: An toàn HK là việc đầu tiên ở bất cứ sân bay nào, ICAO đều có tiêu chuẩn rõ ràng, khi nhà chức trách HK chưa ngăn cấm, hãng HK vẫn hoạt động bình thường… thì khỏi nói. Cuối năm 2013 một số nhà dân kêu tốc mái, TV đến quay, phát tưng bừng ra vẻ máy bay bay sát sạt làm tốc mái nhà… Ai tin máy bay làm tốc mái nhà là mù tịt về HK!

Hôm đi ô tô của hãng Hải Âu từ Hà Nội về Hải Phòng, tôi tình cờ nghe được câu chuyện của hai cán bộ có vẻ là cơ quan đầu tư Hải Phòng lên trung ương họp về:

- À, thế dự án sân bay Tiên Lãng đến đâu rồi, nhiều việc không?

- Tiên với bụt gì, bãi rồi… Ngày ấy giá đất trên trời, các sếp, đại gia định đẩy Cát Bi về Tiên Lãng để lấy đất làm sân golf, khu đô thị… gì đó nên mới “gà” sếp trên duyệt dự án, bây giờ giá đất “đao” (tiếng Anh, nghĩa là xuống) nên “bai, bai”, lại tiếp tục nâng cấp Cát Bi 3.600 tỷ rồi…

Tôi giật mình, thế mà trong mọi cuộc họp bàn đến dự án Tiên Lãng, họ luôn đưa ra lý do Cát Bi quá tải, chật hẹp, ô nhiễm, không an toàn… chẳng khác gì các luận cứ cho dự án Long Thành bây giờ. Hóa ra, anh em nhà Đoàn Văn Vươn gia đình tan tác, gia sản điêu linh, bị ngồi tù, cũng chỉ vì cái giá đất, cái sân golf…



Việc mọi ý kiến nói TSN chật, ô nhiễm trong khi lại làm sân golf 157,6 ha có lẽ chỉ thuyết phục được những nhóm lợi ích sân golf, những quan chức “ngậm miệng ăn an toàn”. Hãy gõ vào chữ Long Thành, màn hình sẽ hiện ra cơ man quảng cáo: Bán đất khu đô thị dịch vụ sân bay Long Thành, Bán đất khu đô thị SBLT đợt 2, 3, Bán đất gần SBLT… Đất gần SBLT nóng lên… Nay nghe câu chuyện hai cán bộ kia tôi có cảm giác mọi chuyện về TSN, Long Thành… đã an bài, không có gì cưỡng lại được! Bởi vì nếu duy trì sân bay TSN thì không còn sân golf, đồng thời nhiều dự án vàng BĐS của đại gia, nhóm lợi ích “ở gần sân bay quốc tế Long Thành” đã duyệt, đầu tư, đã, đang bán rồi. Đặc biệt, TSN, Gia Lâm quá gần nội thành dù giá đất có “đao” thì vẫn cứ 50-60 triệu đ/m2 (Riêng sân golf TSN 157 ha trị giá 78.500 tỷ VND). Như vậy, chỉ có sân golf mới chiếm được những khối vàng 157; 117 ha...

Nói thẳng ra: Sân golf đuổi sân bay!

N.Đ.A.

Vấn đề Chấn hưng dân trí



Dân trí: Cách nào đo? Cách nào nâng?

Nguyễn Ngọc Lanh


Mấy lời phi lộ “Chấn hưng dân trí”

Vũ Cao Đàm

Các anh Nguyễn Trung và Nguyễn Huệ Chi khởi xướng lập chuyên mục “Chấn hưng dân trí” trên trang Bauxite Việt Nam và giao tôi góp mấy lời phi lộ.

Tôi vui vẻ nhận lời, vì thấy việc Bauxite Việt Nam cho ra chuyên mục này thực sự thêm một lần khẳng định ý thức xây dựng của trang báo đại diện tiếng nói của cộng đồng trí thức Việt Nam, quốc nội và hải ngoại, đang ngày ngày nóng lòng vì sự phục hưng Tổ quốc.

Tôi nói phục hưng Tổ quốc của chúng ta với tất cả sự đắn đo, thận trọng và mang đầy tinh thần trách nhiệm. Chúng ta có thể vào mạng bất cứ lúc nào, gõ những từ “nhạy cảm”, như lưu manh, trộm cắp, cướp của, con giết cha, ông hiếp cháu, trò chém thầy, công chức thuê côn đồ đâm chém đồng liêu, ... Trời ơi, những sự kiện đau lòng ấy hiện ra nhan nhản, khiến tim ta đau nhói.

Chúng ta chưa nói đến, những sự kiện bận lòng khác, đáng ra Chính quyền là nơi dân chúng nương tựa, thì nay bị dân chúng quay lưng lại, vì dân chúng không coi họ là của Dân và vì Dân nữa, mà vì quyền lực những “nhóm lợi ích” nào đấy, một cách gọi tế nhị thay cho những thứ đáng ra phải được gọi bằng những tên gọi đúng của nó, là “băng đảng”, là “ma-phia” đang bán rẻ đất, rừng, biển, tài nguyên... và những tài sản tinh thần vô giá của dân tộc, đang phá nát mọi gia phong của các dòng họ, và tệ hơn, là đang lát những con đường vàng rước quân xâm lăng giày xéo mồ mả cha ông.

Nói ra những sự thật ấy mà lòng ta vô hạn xót xa.

Không, dân tộc này không thể chết. Dân tộc này chắc chắn phải trường tồn.

Dân tộc này không thể chết, phải trường tồn, vì nó đã từng bị bức tử suốt mấy ngàn năm bởi một kẻ thù truyền kiếp. Nó đã quật cường, và đang trỗi dậy và đang chứng minh sức sống bất diệt của mình.

Viết đến đây, tôi sực nhớ đến người chí sỹ Phan Châu Trinh, một nhà cách mạng thời Việt Nam cận đại. Mang nặng trong lòng tinh thần "Tự lực khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng với các nhà cách mạng khác, như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp Quảng Nam và các vùng lân cận để vận động công cuộc duy tân đất nước. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” với tinh thần đấu tranh bất bạo động trước mọi thế lực cường quyền.

Hơn lúc nào hết, giờ đây chúng ta ôn lại và cổ xúy tư tưởng bất hủ này của Phan Châu Trinh là một việc làm vô cùng có ý nghĩa trước một nền văn hóa đang tụt dốc, nếu không muốn nói quá một chút, là nó đang tiến dần tới bờ vực của sự suy tàn.

Nói về “Chấn hưng dân trí”, chúng ta đang sưởi lại hơi ấm những tư tưởng sáng ngời của người chí sỹ Phan Châu Trinh.

Chấn hưng dân trí, trước hết để dân trí mở mang, để Trí của Dân ý thức được Dân là Ai, và Dân được quyền Trí cái gì.

Đơn giản chỉ có Trí của Dân, nhưng là một sự nghiệp đầy gian nan. Nhà Chí sỹ Phan Châu Trinh đã dành cả cuộc đời, nhưng đã không thành tựu, và ông đã gửi gắm lại nơi chúng ta, lớp con cháu hậu duệ của ông.

Tôi viết những dòng này, như để nhắn nhủ mình, hãy tiếp nối con đường mà Phan Châu Trinh đã bắt đầu phát quang, để hé lộ một tia le lói, như một đốm lửa đang làm bừng lên những ánh đuốc soi tỏ con đường chúng ta di.

Và xin mở đầu mục “Chấn hưng dân trí” trên BVN bằng bài viết tâm huyết của GS Nguyễn Ngọc Lanh đi vào vấn đề có thể nói là nòng cốt của chuyên mục: lý giải cách hiểu thước đo dân trí, và từ đó gợi ý những biện pháp nâng cao dân trí thế nào cho thực chất.

Hà Nội, Tháng Mười 2014.




Bước sang thế kỷ XXI, dân trí Việt Nam cao hay thấp?

Câu trả lời còn tùy hoàn cảnh. Khi cần nêu thành tựụ (ví dụ, trong Chiến Lược GD 2011-2020) thì dân trí ta rất cao. Nhưng khi cần giải thích về "những hạn chế quyền dân" thì dân trí còn thấp - chưa thể ban phát dân chủ rộng rãi.

Một bài viết trên tạp chí của Mặt trận Tổ quốc (nhan đề Vấn đề Dân trí và Dân chủ) tác giả mở đầu bằng câu: Chúng ta thường nói "dân trí đến đâu dân chủ đến đấy". Tuy chủ ngữ của câu là "chúng ta", nhưng nội dung bài cho thấy tác giả không nằm trong đó. Thật đáng kính nể.

Truy tìm, dường như danh ngôn trên được phát ra lần đầu tiên (2008) – với cả nước, cả thế giới – là từ cụ Lê Doãn Hợp – với tư cách UVTƯ đảng, Bộ trưởng TTTT – khi cụ trả lời trực tuyến trong một lần giao lưu với dân (2008). Lẽ ra, cụ chẳng cần nói "dân trí đến đâu, dân chủ đến đấy", vì nó rất ít hoặc chẳng liên quan gì tới nội dung buổi giao lưu. Hơn nữa, đây là câu quá lộ liễu, về: a) não trạng khinh dân; b) lạm quyền ban phát dân chủ. Cụ Lê Doãn Hợp còn kiêm cả đại biểu Quốc hội (đại diện dân). Chẳng lẽ, một mình cụ đóng vai cả 3 chủ thể vận hành bộ máy chính trị nước ta (đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, dân làm chủ)? Kiểu này, tất nhiên tam quyền không phân lập.

Dân làm chủ... 70 năm lận đận

Kể từ năm 1945, từ dân chủ đã là thành tố trong quốc hiệu nước ta. Cụ Hồ đã cắt nghĩa: Dân chủ nghĩa là "dân là chủ"; vậy thì chính phủ là đầy tớ. Khi chính phủ làm hại dân, dân có quyên đuổi chính phủ. Nếu (chỉ là giả sử) có cơ chế thực thi để quyền "đuổi đầy tớ" trở thành thực quyền, lập tức dân trí sẽ tăng, dân chủ sẽ càng thực chất. Chúng sẽ hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Khi đất nước thống nhất, cụ Lê Duẩn sáng tạo lý luận mới và ban cho dân quyền "làm chủ tập thể", gồm làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân... nhưng, nghe ra nó cứ mơ hồ thế nào ấy. Cụ Trường Chinh đã cụ thể hóa thành: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Trên thực tế, chúng chỉ là những hư quyền, tuy quá đẹp. Thậm chí, ngay những vị kế tục chức vụ cụ Trường Chinh cũng không thèm nhắc lại ý cụ.

Trong dịp du học, tôi rơi vào hoàn cảnh phải dịch cái từ "làm chủ tập thể" (mà chính tôi không hiểu nội hàm) sang tiếng Pháp, Anh... khi mấy thằng tây tò mò tìm hiểu. Quả thật, "bố thằng tây" nào hiểu nổi être maitre collectif và to be collectif boss là cái quái gì.

Năm 2014, nhiều bài viết vĩ mô, ít nhiều vẫn đề cập cần cụ thể hóa cơ chế đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, dân làm chủ. Nghĩa là nó vẫn khó "vận dụng". Chỉ xin đơn cử những bài ở vài tờ báo nặng cân nhất. Mời các quí bạn tham khảo:

- Báo điện tử đảng CSVN, ngày 11/10/2014

- Tạp Chí Cộng Sản, ngày 18/6/2014

- Báo QĐND, ngày 26/02/2014

- Tạp chí Tuyên giáo, ngày 29/10/2014

Thật khó hình dung, ông chủ cứ tha hồ "làm chủ", nhưng làm chủ dưới sự lãnh đạo và dưới sự quản lý. Thật thảm hại. Ông chủ nào cũng có đầy tớ. Tai họa là ở VN, đầy tớ lại "quản lý" ông chủ. Hễ cái gì chúng không quản nổi, chúng có quyền... cấm (!).

Chả lẽ đổi thành: Ông chủ lo kiếm sống cho cả nhà, nên giao cho đảng nhiệm vụ tham mưu và giao cho đầy tớ nhiệm vụ quản gia?... Quả thật, khó ai đủ hào hứng bàn tiếp những chuyện viển vông.

Dân trí đo bằng gì?

Nói đơn giản, dân trí là trình độ hiểu biết chung của một cộng đồng. Nhưng đo bằng gì, lại không đơn giản.

- Liệu có thể dựa vào số bằng cấp? Ví dụ, chỉ riêng bằng TS đã có tới 24 ngàn. Khốn, chưa nói về chất lượng, mà tỷ lệ quá cao (2/3) TS thời nay không làm nghiên cứu khoa học, nhiều người còn có mục đích làm quan (như TS thời Nho giáo) đã đủ thấy "hỏng".

- Hay là soạn ra bộ câu hỏi khảo sát sự hiểu biết phổ cập về khoa học, văn nghệ, pháp luật, thể thao, tôn giáo…. Tuy nhiên – tùy hoàn cảnh cá nhân – có người trả lời dễ dàng các câu về internet, luật kinh doanh, nhưng lại lúng túng về nông nghiệp, dân ca...

- Vậy, cần hỏi những gì mà bất cứ ai cũng từng được dạy trước khi trưởng thành – để làm Người và làm Công Dân. Đó là:

1) quyền con người;

2) quyền và nghĩa vụ công dân; và

3) sự vận dụng (đúng và sai) trong các hoàn cảnh.

Nếu một tỷ lệ áp đảo (2/3 hoặc 3/4) những người trong diện khảo sát (18-23 tuổi – nghĩa là đã một lần đi bầu Quốc hội) – mà trả lời được mình có quyền gì, nghĩa vụ gì... đó là dân trí cao. Thành tích giáo dục là rất lớn. Dân sẽ biết ơn đảng và tín nhiệm nhà nước. Ngược lại, là dân trí chưa cao. Dân trí sẽ bị coi là cực thấp, nếu một vị cử nhân không phân biệt nổi quyền con người với quyền công dân. Đây là nói chuyện năm 2014, chứ năm 1992 thì ngay Hiến pháp (trí tuệ) nước ta cũng chưa phân biệt nổi 2 quyền này.





Điều 50 (Hiến pháp 1992):

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.

Ðiều 51:

Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước...
Nâng dân trí lên bằng gì?

Bằng giác ngộ mọi người về quyền mà họ phải được hưởng. Đừng đợi dân đấu tranh mới "nhả ra" các quyền đó, mà nên chủ động thực thi chúng.

- Thời nay, các thế lực thù địch không dễ sử dụng bạo lực để xâm chiếm nước ta. Một biện pháp hàng đầu của chúng là thực hiện ngu dân. Trước đây, tôi tin vào những mỹ từ hữu nghị; nay, tôi nghi ngờ thế lực thù địch đã tác động vào nhiều chính sách của ta (ví dụ Luật Chống Tham Nhũng đã coi đưa hối lộ và nhận hối lộ đều có tội ngang nhau – nghĩa là đánh đồng thủ phạm với nạn nhân). Bởi vậy, nâng cao dân trí phải được đặt lên hàng đầu.

- Cứ nhấn mạnh (cả trong Hiến pháp) "quyền đi đôi với nghĩa vụ" là cách nói hạ sách, thể hiện tâm thức không tin dân, và nói lên sự lo lắng nào đó. Điều 51 có một mệnh đề, đọc lên cứ như hai bên ký giao kèo với nhau; trong đó Chủ - Tớ cứ lộn tùng phèo. Ngược lại, nếu quan niệm rằng một chế độ thật tâm muốn người dân có mọi quyền (ông chủ), người dân sẽ hết lòng vun đắp và bảo vệ chế độ đó – nó sẽ vững như bàn thạch – vì đây là chế độ thật sự tiên tiến, vì dân, phù hợp với thời đại.

- Người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ, nhà nước sẽ khỏi mất công "cải cách hành chính", "cải cách tư pháp"... đang rối như mớ bòng bong. Tham nhũng sẽ giảm đến tối thiểu. Quốc hội sẽ "ra quốc hội", Chính phủ cũng "ra chính phủ"... Quá trình 40 năm Việt Nam chống đỡ với áp lực quốc tế về nhân quyền cũng sẽ chấm dứt tức khắc. Hòa giải nội bộ dân tộc sẽ xong cái "rụp"... Nước mắt mừng rỡ sẽ tuôn gấp ngàn lần nước mắt đau khổ ngày xưa...

N.N.L

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

Phóng sự: “Việt Nam nhìn từ bên trong” của G. Márquez, viết sau chuyến thăm Việt Nam tháng 7-1979


Nhà văn Triệu Xuân: Cách nay bốn năm, khi làm tư liệu để chuẩn bị tái bản một số tiểu thuyết danh tiếng của Gabriel Garcia Marquez, Nobel Văn học 1982, tôi đọc được thông tin sau: "Nhà văn Gabriel Garcia Marquez cùng với vợ và hai người con trai đã đến thăm Việt Nam vào giữa tháng 7/1979. Trong gần một tháng ở Việt Nam, ông đã đi thăm nhiều nơi, gặp gỡ nhiều giới chức và người dân ở các địa phương tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu. Tại Hà Nội ông tiếp xúc với Hội Nhà văn Việt Nam, làm việc với Bộ ngoại giao và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp và nói chuyện thân tình. Sau chuyến đi ấy, trở về Mexico, nơi ông định cư từ đầu những năm 60 thế kỷ trước, Marquez đã viết thiên phóng sự dài "Việt Nam nhìn từ bên trong" (Vietnam por dentro) đăng trên báo Proceso. Bài phóng sự đó của Marquez viết về tình hình Việt Nam thời kỳ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là thời gian mà Việt Nam gặp nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội, chuyện về người ra đi bằng thuyền đang là vấn đề nổi cộm trên truyền thông quốc tế lúc đó. Nhưng Marquez, vốn là một nhà báo bậc thầy giàu kinh nghiệm, nên ông có cách tiếp cận và xử lý thông tin một cách khách quan và cân bằng đối với đề tài nhạy cảm ấy. Sau khi thăm miền Nam, trở về Hà Nội, ông đã có buổi gặp gỡ với đại diện Hội Nhà văn Việt Nam và báo Văn nghệ tại Nhà khách Chính phủ ở số 2, phố Lê Thạch. Nhà văn Đào Vũ, Tổng Biên tập báo Văn nghệ và nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú có mặt trong buổi nói chuyện ấy. Tôi đến đó với tư cách phóng viên của Ban biên tập tin Đối ngoại thuộc TTXVN để đưa tin về hoạt động của ông ở Việt Nam.

Vào thời điểm đó, Marquez đã là nhà văn có tên tuổi với những tác phẩm được thế giới biết đến như "Mùa lá rụng" (La hojarasca-1955), "Ngài đại tá chờ thư" (El coronel no tiene quien le escriba-1957), "Giờ xấu" (La mala hora-1961), "Trăm năm cô đơn" (Cien años de soledad-1967), "Mùa Thu của trưởng lão" (El otoño del partriarca-1975). Tuy vậy ở Việt Nam lúc bấy giờ, hình như ngay cả các nhà văn cũng chưa ai đọc và hiểu được tầm vóc của người sẽ nhận giải Nobel văn chương ba năm sau đó (1982)". Đoạn trích trên đây là của nhà báo Phạm Đình Lợi, nguyên phóng viên đối ngoại của TTX Việt Nam.

Chuyến thăm Việt Nam năm 1979 của một nhà văn lớn, thế mà không lưu lại dấu vết nào trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Việt Nam? Thậm chí, một nhà báo của TTXVN, thạo tiếng Spanish, được dự buổi làm việc tại Hội Nhà văn, cũng không có máy ảnh để ghi lại vài tấm ảnh lưu niệm. Thật tiếc! Đúng là chuyện buồn không thể tin được... như tên một truyện ngắn của G. Márquez!

Tôi đã đăng trên website chuyên về Văn Chương Nghệ thuật www.trieuxuan.info bài: Đi tìm dấu vết chuyến thăm Việt Nam tháng 7-1979 của G. Marquez; đồng thời, tôi gửi email cho bạn bè đang sống, làm việc ở các nước như Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Tâybannha, Hàlan, Bỉ, Đức, Italia… ra sức tìm bài Vietnam por dentro: "Việt Nam nhìn từ bên trong", phóng sự của G. Marquez viết sau khi đi Việt Nam về. Nhưng… vô vọng! Tôi chỉ tìm được đoạn giới thiệu trên báo bằng tiếng Spanish: Vietnam por dentro. La Redacción. 1979-12-22 01:00:00· COMENTARIOS DESACTIVADOS. Edicion Mexico.

Mãi đến khi tôi thực hiện chuyến du khảo Anh Quốc và Scotland tháng 6-2014, tôi mới được Trần Lê Quỳnh ở BBC London cung cấp cho bài báo nói trên in trên tờ Rolling Stone của Anh ngày 29-05-1980 dưới tựa đề: The Vietnam Wars. Bản tiếng Anh dịch từ tiếng Spanish của Gregory Rabassa. Về nước, tôi đã cho dịch ngay bài báo này. Dù chỉ là một phóng sự viết sau một tháng ở Việt Nam, G.Marquéz đã chứng tỏ ông là một nhà văn lớn, tầm cỡ thế giới khi nhận ra bản chất của tình hình Việt Nam sau chiến tranh, đặc biệt là sau cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc tháng 2-1979. Đây là toàn văn phóng sự: Việt Nam nhìn từ bên trong của G.Márquez. Bản dịch của Phạm Mạnh Hào.

Chân thành cám ơn nhà báo, nhạc sỹ Trần Lê Quỳnh đã giúp tôi tìm được thiên phóng sự Việt Nam nhìn từ bên trong của nhà tiểu thuyết lừng danh mà tôi rất yêu thích!

Nhà văn Triệu Xuân sưu tầm, giới thiệu



Việt Nam nhìn từ bên trong


García Márquez

Đấu tranh để giành lại đất nước bị tàn phá, Việt Nam lại phải đối mặt với một Trung Quốc thù địch và sự đe dọa từ kẻ thù ở bên trong.

Loại thuốc đắt nhất ở Việt Nam hồi tháng 8 năm ngoái là thuốc chống say sóng. Các hiệu thuốc bình thường bán hơn 1 USD cho vỉ 12 viên đã hết sạch loại thuốc này và chúng bắt đầu xuất hiện trên thị trường chợ đen với giá 5 USD một vỉ. Mặc dù thế, chúng vẫn không phải là thứ thiết yếu đắt nhất hay khó tìm được nhất để bỏ trốn khỏi Việt Nam trên một chiếc tàu bất hợp pháp. Tại thành phố Hồ Chí Minh – hay Sài Gòn trước đây – bất cứ ai muốn đi vào bất cứ lúc nào chỉ cần có đủ tiền để mua suất và sẵn sàng đối mặt với rủi ro lớn.

Phần dễ nhất trong kế hoạch là liên hệ với những người tổ chức. Trong nhiều ngõ hẻm của khu Chợ Lớn, nơi mà bất cứ thứ gì trên thế giới đều có thể mua bán được bằng tiền, thứ duy nhất miễn phí là thông tin về các thuyền bí mật. Tiền phải được thanh toán ngay, bằng vàng và tỷ lệ quy đổi dựa theo độ tuổi, thời gian và nơi đến. Trẻ em dưới 5 tuổi không phải trả gì cả. Đối với trẻ từ 6 đến 16 tuổi, để bắt đầu chuyến đi, giá là 3,5 ounce vàng. Đối với người từ 19 tuổi đến 99 tuổi, giá là 6 ounce vàng. Ngoài ra họ còn phải hối lộ 5 ounce vàng cho các quan chức cung cấp giấy thông hành giả di chuyển trong nước.

Tình hình ở thành phố Hồ Chí Minh lúc đó, cũng như trên toàn miền Nam sau thống nhất, là hỗn loạn. Số Hoa kiều, con số khoảng trên 1 triệu người, đều trong tâm trạng hoảng sợ bởi vì mối đe dọa về một cuộc chiến tranh với Trung Quốc. Những người thuộc chế độ cũ và giai cấp tư sản từng mất hết mọi đặc quyền vì thay đổi xã hội chẳng còn muốn gì hơn là trốn đi với bất cứ giá nào. Chỉ những ai có bản lĩnh chính trị vững vàng và số này là không nhiều trong một thành phố đã bị Mỹ chiếm đóng nhiều năm, là ở lại. Còn đa phần sẵn sàng trốn đi ngay cả khi không biết số phận của họ ra sao.

Dĩ nhiên thì một cuộc tháo chạy quy mô như vậy không thể diễn ra nếu không có một tổ chức lớn với những mối liên hệ từ bên ngoài. Và dĩ nhiên, không thiếu sự đồng lõa của nhiều quan chức. Cả hai điều này ở miền Nam là dễ dàng, nơi cánh tay quyền lực của nhân dân chưa thể ngăn chặn thành công những tàn dư từ chế độ cũ. Những người giỏi nhất thì đã bị giết hại trong Chiến dịch Phượng Hoàng và miền Bắc lúc đó chưa đủ điều kiện để bổ sung lượng nhân lực đang rất thiếu này.

Tuyến đường trong các cuộc di tản, càng xa càng tốt, ban đầu được 5 tổ chức chính tiến hành ở những cảng cá phía cực nam và Đồng bằng sông Cửu Long, nơi công an rất khó kiểm soát. Những tay môi giới liên hệ với khách đi trước đó đưa họ lên những bãi biển có tàu neo đâu. Ngoài giấy thông hành giả, nhiều người không mang theo hành lý gì ngoài quần áo đang mặc và ít thuốc chống say sóng. Nhưng phần lớn họ đều đi theo gia đình và tài sản của họ là những thỏi vàng, viên đá quý.

Chuyến đi tới các cảng cá bí mật đều xa và nguy hiểm, đặc biệt cho trẻ em, và chẳng có gì là đảm bảo thành công nếu như họ bị quân đội bắt giữ hoặc tệ hơn cả là những tên cướp đường.

Nhìn chung, tàu di tản đều là những thuyền đánh cá (bằng gỗ) chỉ dài khoảng 24m. Sức chứa tối đa của chúng là 100 người nhưng các thuyền đều có trên 300 người, giống như con cá sardine bị lèn trong hộp. Phần lớn là trẻ em em dưới 12 tuổi. Nhiều người may mắn tránh được lực lượng tuần tra, thời tiết xấu và thậm chí là bão, nhưng không một ai có thể thoát khỏi các vụ tấn công của cướp biển ở biển Đông.

Đó là một thực tế tàn khốc và cấp bách, và nó không chỉ nhận được sự quan tâm của các tổ chức nhân quyền mà còn cả thế giới. Nhưng những vấn đề chính trị do Mỹ tạo ra càng làm vấn đề thêm rối rắm và việc tìm giải pháp cho thuyền nhân Việt Nam lúc đó là không thể.

Làn sóng di tản bắt đầu vào tháng 4 năm 1975 khi Mỹ kết thúc sự hiện diện tại Việt Nam và bỏ mặc đồng minh không còn được che chở - bất chấp lời hứa sẽ đưa đi gần 250.000 người. Quân đội và lực lượng cảnh sát chế độ cũ, những điệp viên và đao phủ, cũng như những kẻ giết người trong chiến dịch Phượng Hoàng, đã chạy khỏi đất nước.

Tuy nhiên, vấn đề nghiêm trọng nhất mà Việt Nam đối mặt sau giải phỏng không phải những tội phạm chiến tranh mà là lực lượng tư sản của miền Nam. Phần lớn lực lượng này là Hoa kiều. Trong số 1,5 triệu người Hoa sinh sống ở Việt Nam trong chiến tranh, hơn 1 triệu người tập trung ở Chợ Lớn. Chợ Lớn có nghĩa là chợ to và vì thế, cái tên này không có gì là ngẫu nhiên cả. Đó là một vùng riêng của chủ nghĩa tư bản giàu có giữa một trong những đất nước nghèo khổ nhất thế giới, với mọi hoạt động tiêu pha chỉ diễn ra về đêm và ở mọi trò giải trí. Tại đây có những sòng bài, ổ thuốc phiện, các nhà thổ - sau giải phóng thì tất cả đều bị cấm.

Nhiều thương nhân giàu có cố thoát đi cùng với số tài sản của họ trong những ngày đầu giải phóng hỗn loạn nhưng đa phần vẫn ở lại Chợ Lớn, làm giàu bằng cách buôn bán những hàng thiết yếu. Tại khu vực này gần như độc quyền về vàng, kim cương và ngoại tệ, và hầu hết những mặt hàng nhập khẩu mà người Mỹ để lại đã biến mất khỏi Chợ Lớn. Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi thu mua toàn bộ lúa thu hoạch. Lương thực về sau xuất hiện trên chợ đen, giá cao như kim cương. Trong khi những người Việt Nam còn lại trải qua tình trạng thiếu lương thực, ở khu vực của người Hoa, mọi người có thể kiếm bất cứ thứ gì cho cuộc sống dễ chịu và biến Sài Gòn giống như một thiên đường nhân tạo trong thời kỳ chiến tranh.

Đến tháng 3 năm 1978, gần như mọi trao đổi vàng và ngoại tệ ở Việt Nam đều nằm ở quận Babylonic -tức vùng Chợ Lớn, và chính phủ cuối cùng quyết định chấm dứt sự vô lý này. Đầu năm 1978, quân đội và công an đã phá hủy một số lượng lớn mạng lưới đầu cơ tích trữ và nhà nước nắm giữ buôn bán lương thực. Không quyết định khởi tố nào được đưa ra nhằm chống lại những kẻ đầu cơ, thay vào đó chính quyền trả tiền cho số hàng của họ.

Mặc dù thế, nhiều người vẫn muốn trốn đi và việc người Hoa bị xem là tư sản, là Trung Quốc, càng dễ tạo điều kiện thuận lợi cho những kẻ thù của Việt Nam xuyên tạc hiểm độc, nguyên nhân là vì vấn đề giai cấp và không cùng giống nòi. Cho đến thời điểm này, con số trung bình các chuyến vượt biên bất hợp pháp là 5000 người mỗi tháng, trong đó có nhiều người Việt Nam và người gốc Trung Quốc. Sau khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, quốc hữu hóa, số người di tản bắt đầu tăng. Cùng thời, số người Hoa trốn đi cũng tăng. Đến cuối năm 1978, 20.000 người đã di tản. Cuối cùng, chiến tranh với Trung Quốc vào tháng 2 năm 1979 nổ ra, sự thôi thúc ra đi đã trở thành cơn hoảng sợ.

Trong mớ hỗn độn đó, số cuộc ra đi trái phép bằng thuyền từ Việt Nam đã đạt tới con số 13.400 người vào tháng 3, 26.600 trong tháng 4, 51.100 người trong tháng 5 và 54.900 người trong tháng 6. Đến tháng 7-1979 thì thuốc chống say sóng hết sạch. Vào thời điểm đó, 164.550 người đã đến những nước láng giềng, chủ yếu Thái Lan, Hong Kong và Indonesia. Có bao nhiêu người chết trên biển không ai biết rõ, một phần vì cũng chẳng ai biết được đã có bao nhiêu người rời Việt Nam.

Trong khoảng thời gian này, chiến dịch truyền thông chống lại Việt Nam đã đạt tới tầm cỡ một scandal thế giới, dựa trên giả thuyết rằng chính phủ đã trục xuất kẻ thù của họ và buộc họ lên những chiếc thuyền đánh cá nguy hiểm. Thực ra, Việt Nam đã đạt được một thỏa thuận với Cao ủy Liên hiệp quốc về những cuộc ra đi có sắp xếp. Một trong những điều kiện của Liên hiệp quốc là yêu cầu visa cư trú ở nước nhập cảnh và đây là một giải pháp quan liêu trong tình thế cấp bách vào lúc đó. Bởi vậy, khi những yêu cầu này là vô vọng, cách tốt nhất để ra đi là ra đi bất hợp pháp.

Tôi đã qua Hong Kong vào cuối tháng 6. Tình hình Biển Đông lúc này đang sôi sục. Chính phủ Malaysia thông báo ý định của họ là sử dụng vũ lực ngăn cản tàu thuyền xâm phạm lãnh hải của nước này. Vùng biển của Singapore cũng được tuần tra gắt gao. Một khách du lịch trên chiếc phà tới Macao chỉ để ngắm nhìn đường phố cho nguôi nỗi nhớ Bồ Đào Nha có đi ngang qua những con đường ở chỗ nước đọng của vịnh và đã nhìn thấy nhiều con tàu đầy người hấp hối mà hải quân Anh lai dắt về Hong Kong. Chính quyền Thái Lan thì tuyên bố nước này tràn ngập làn sóng người di tản từ khắp nơi vượt qua biên giới. Bangkok trở thành trung tâm tin tức của thế giới và hành lang của các khách sạn chật cứng phóng viên cùng máy ảnh và thiết bị truyền hình.

Theo thống kê của Liên hiệp quốc, có 140.297 người di tản ở đó: 116.422 từ Lào, 12.595 từ Campuchia và chỉ có 11.277 từ Việt Nam. Tuy nhiên, báo chí Thái Lan đã đưa tin không chính xác khi cho rằng số người di tản này đều từ Việt Nam và rằng, chính phủ Việt Nam nhận khoản phí chính thức vào khoảng 4.000 USD để người di tản được phép ra đi. Sau tháng 2-1979, khi làn sóng di tản lên đến đỉnh điểm, báo giới đưa tin Hoa kiều bị ngược đãi tồi tệ nhằm trả đũa cho sự xâm lược của Trung Quốc. Những bức ảnh kinh hoàng được công bố; những người bị đắm tàu trôi dạt vào bờ giống như những người di tản từ một trại tập trung. Chúng đều thật: sau nhiều tuần trôi dạt, đói khát, bị cướp biển cướp bóc, những triệu phú của Chợ Lớn đã trở nên nghèo đói như bất cứ người Trung Quốc nào.

Tôi đến Việt Nam chỉ với mục đích là mắt thấy tai nghe, ngay cả vậy thì bản thân tôi cũng thấy rằng, sự thật nằm giữa những thông tin trái ngược nhau. Tuy nhiên thì câu chuyện của người di tản, gần gũi đến thế và thương tâm đến thế, đã trở thành mối quan tâm thứ hai bởi mối quan tâm hàng đầu của tôi là thực tế đáng sợ của đất nước này.

Điều làm tôi ấn tượng nhất ngay từ đầu là sự tàn phá vẫn còn hiện hữu dù cuộc chiến tranh chống Mỹ đã kết thúc cách đó 4 năm. Người Việt Nam không có cả thời gian để quét nhà của họ. Những sân bay dân dụng ngập đầy xác máy bay ném bom và trực thăng. Tất cả những cỗ máy chết người đó đều bị bỏ lại trong cuộc tháo chạy cuối cùng. Từ những con đường cao tốc vắng lặng, người ta có thể nhìn thấy tro tàn của các thị trấn bị bom napalm tàn phá và vùng đất không một bóng người trước đây từng là một cánh rừng, giờ đã trở nên cằn cỗi vì chất độc hóa học. Những con kênh tưới tiêu đan xen tạo nên hình ảnh của một chiếc bàn cờ nhìn từ trên cao giờ không còn tác dụng nữa. Những con sông hiền hòa, bao la mà từ tháng 7 đã đón nhiều cơn mưa lớn giờ chỉ có thể băng qua bằng cầu phà hay những thân cây lớn ghép lại khi toàn bộ các cây cầu lịch sử từ thời Pháp bị phá hủy. Có lẽ, cầu Long Biên là chứng tích duy nhất còn sót lại. Nó đã hứng chịu một số trận bom và được tu sửa lại ngay vì là con đường duy nhất tới Hà Nội từ cửa ngõ phía bắc. Cầu làm bằng thép nên có thể phục hồi và sửa chữa, mang lại cho người ta cảm giác đây là tháp Eiffel nằm bắc ngang qua dòng sông Hồng.

Một cách nào đó thì chiến tranh chưa chấm dứt. Hàng tấn mìn và bom không nổ vẫn còn nằm rải rác khắp đất nước. Không lời cảnh báo, một quả mìn sau bốn năm nằm lại sẽ để lại nhiều hậu quả thương tâm cho những người phụ nữ đang làm đồng khi nước ngập đến hông họ. Trong một trường học, một quả bom dưới lòng đất có thể mang đến cái chết cho nhiều trẻ em ở giờ ra chơi. Một con trâu chạy lung tung và động vào bãi bom, bãi mìn có thể tạo ra những vụ nổ thổi bay cả một ngôi làng. Chỉ tính trong một tỉnh đã có hàng nghìn người thiệt mạng theo cách này sau khi chiến tranh kết thúc.

Người Việt Nam ước tính Mỹ đã thả xuống 14,5 triệu tấn bom trên đất nước của họ, một con số cao gấp nhiều lần số bom thả xuống trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là đòn trừng phạt tàn bạo nhất mà một đất nước phải chịu đựng trong lịch sử loài người. Để ngăn chặn quân du kích Việt Nam trốn trong rừng sâu, máy bay Mỹ đã thả xuống hàng nghìn tấn chất độc da cam và bom cháy khiến 3,33 triệu ha đất cằn cỗi, có lẽ là mãi mãi, và phá hủy hoặc làm hỏng hàng nghìn ngôi làng. Mạng lưới đường sắt quốc gia bị phá hủy, hệ thống tưới tiêu và thoát nước vô hiệu, 1,5 triệu con bò và trâu bị giết, hàng trăm nghìn ha đất nông nghiệp bị tàn phá. Không ngôi trường và bệnh viện nào còn nguyên vẹn.

Không bao lâu sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam còn phải nhận thêm hai tai họa khác: nạn hạn hán năm 1977 khiến mùa màng mất mùa, sau đó là lũ lụt và bão. Nói một cách văn chương thì Chúa đã hoàn tất cơn hủy diệt mà người Mỹ chưa hoàn thành. Hậu quả khiến đất nước kiệt quệ và 53 triệu người sống trong cảnh nghèo khổ.

Nhìn bề ngoài thì ai cũng có thể thấy được biến động lớn đó. Tuy vậy thì những thiệt hại về vật chất không lớn hay không thể khắc phục được lại là sự rối loạn về tinh thần. Có lẽ đây là khác biệt lớn nhất giữa các tỉnh thành phía bắc, theo chủ nghĩa xã hội hơn 20 năm và miền nam mới được giải phóng được một vài năm. Mặc dù thống nhất nhưng thực tế miền bắc và miền nam giống như hai quốc gia hoàn toàn khác nhau.

Hà Nội dường như chẳng thay đổi gì nhiều kể từ thời Pháp thuộc. Trong tháng 7 oi bức khi tôi còn ở đây, thủ đô của Việt Nam là một thành phố hòa bình và khiến tất cả có cảm giác thời gian luôn dừng ở con số bốn giờ chiều. Mặc dù độ ẩm và không khí ngột ngạt, người ta không cảm thấy họ ở một đất nước nhiệt đới. Ngồi bên những hồ nước thơ mộng, dưới những hàng cây cổ thụ, cuộc sống tại Hà Nội trôi qua lặng lẽ như cuộc sống ở một vùng nông thôn của Pháp. Từ sáng sớm, một nửa trong số gần 2 triệu người dân ra đường bằng xe đạp, vội vã theo một trật tự tự nhiên và không gian chỉ bị khuấy động bởi những chiếc ô tô khiến tất cả phải chú ý mang biển ngoại giao. Xe công vụ có rất ít và quan chức chính phủ, thậm chí một số bộ trưởng, cũng phải đi trên những chiếc xe đạp với một sự khiêm tốn và cảm giác về bình đẳng xã hội khó mà tưởng tượng được.

Sau 6 giờ chiều, thành phố sẽ chìm vào một không gian yên tĩnh. Các gia đình đi ngủ sau những ô cửa tối tăm, một số bởi vì họ đã chạy trốn khỏi đất nước vì lo sợ một cuộc chiến tranh với Trung Quốc và không có nhà, số khác bởi vì họ không thể chịu được cái nóng bên trong những ngôi nhà chật ních người. Truyền hình bắt đầu vào lúc 7 giờ: 4 giờ cho các chương trình chính thức, phim tài liệu yêu nước và phim truyện từ các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy thì chỉ có những trận đấu bóng đá mới thay đổi được tính thản nhiên của người Việt Nam và khuấy động đam mê ở họ.

Vào lúc 8 giờ, trong sự im lặng hoàn toàn, người ta có thể nghe thấy tiếng đàn tranh xa xôi đầy bồi hồi. Chỉ có những địa điểm còn mở cửa là các khách sạn cũ từ thời Pháp và một số cửa hàng ăn uống kê được bốn cái bàn nhỏ xíu, nơi chủ quán ngồi chồm chỗm chuẩn bị một ly café lạ với muối và vài quả trứng luộc.

Cách 1126km về phía nam, thành phố Hồ Chí Minh không ngủ cả đêm, giống như sấm rền liên tục. Đó là một thành phố lớn, năng động và nguy hiểm, với gần 4 triệu dân, những người lang thang trên phố nhiều giờ liền bởi vì họ chẳng có gì để làm. Trái với Hà Nội, đây là một cảng miền nam, nơi cuộc sống luôn trong tình trạng hốt hoảng vì người đi xe đạp vô ý trên phố, tiếng động cơ xe máy không thể chịu nổi và tiếng còi ô tô đang cố len lỏi trên con đường đầy người. Chính cảm giác này đã khiến nhà văn Graham Greene tự hỏi Chúa ở đâu trong thành phố quỷ quái này, còn tôi tự hỏi chính phủ có vai trò gì. Thị trường chợ đen bùng phát khắp mọi nơi. Thuốc lá Mỹ, sôcôla Anh và nước hoa Pháp được bày bán đầy trên những chiếc bàn nhỏ khập khiễng ven đường.

Vào chiều tối, thanh niên Sài Gòn tập trung ở quảng trường, ăn mặc theo phong cách Mỹ, nghe nhạc rock và mơ về một thời quá khứ đã trôi qua mãi mãi. Không như các cô gái miền bắc giản dị, nhiều cô gái miền nam biết làm đẹp cho mình bằng phong cách châu Âu. Họ thích nước da sáng, ngay cả khi ăn vận theo phương Đông, và họ biết tán tỉnh là như thế nào. Dưới thời Mỹ chiếm đóng, thành phố không còn giữ được bản sắc văn hóa của mình, trở thành một thiên đường nhân tạo được bao bọc bởi quân đội và sự trợ giúp của Mỹ, của hàng tấn đồ tiếp tế. Người dân cuối cùng tin rằng đây là cuộc sống. Vì thế, chiến tranh kết thúc khiến họ trở nên lạc lõng và xa rời thực tế, để rồi 4 năm sau khi người Mỹ cuối cùng rút đi, họ không thể gượng dậy được.

Cái giá cho sự cuồng nhiệt này là hết sức kinh ngạc: 360.000 người tàn tật, 1 triệu quả phụ, 500.000 gái điếm, 500.000 con nghiện ma túy, 1 triệu người mắc bệnh lao và hơn 1 triệu lính thuộc chế độ cũ, tất cả đều không thể phục hồi trong xã hội mới. Khoảng 10% dân số thành phố Hồ Chí Minh bị mắc bệnh hoa liễu nặng khi chiến tranh kết thúc và có 4 triệu người mù chữ khắp miền nam.

Vì thế, không có gì lạ nếu tìm thấy trên những con phố nhiều trẻ em lang thang phạm tội. Chúng tự gọi chúng là Hạt bụi cuộc đời (Bụi đời), và xăm những biểu tượng khó hiểu trên cánh tay, ngực và bàn tay: MAMA IS SUFFERING A LOT FOR ME, PAPA COME HOME, THE ONES WHO LOVE ME CAN'T FIND ME (Mẹ đang chịu nhiều khổ đau vì con, bố về nhà, những người yêu con không thể tìm thấy con).

Và cũng không lạ nếu thấy giữa một nhóm người phương Đông xuất hiện những trẻ em với mái tóc nâu vàng, mắt xanh, mũi lõ, da đen, những đứa trẻ sinh ra từ chiến tranh.

Những nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh của Việt Nam bắt đầu ngay sau ngày giải phóng. Ngay khi đất nước thống nhất, việc cải cách hành chính, chính trị và xã hội miền nam bắt đầu được tiến hành. Hệ thống nông nghiệp và giao thông được xây dựng lại nhanh nhất có thể, và nỗ lực cao nhất nhằm đưa miền nam ổn định trật tự.

Một hệ thống trường cấp tốc được thành lập. Y tế xã hội hóa phòng bệnh được tổ chức và quá trình giáo dục gái mại dâm hoàn lương (phục hồi nhân phẩm), trẻ mồ côi và người nghiện bắt đầu diễn ra. Những tội phạm chiến tranh được thử thách và nhiều người đã bị tử hình. Số khác được đưa vào trại cải tạo hoặc ngồi tù. Không có cuộc tắm máu nào cả như phía Mỹ dự đoán. Trái lại, Việt Nam đã nỗ lực giúp quân nhân chế độ cũ và giới tư sản không kinh doanh hòa nhập với xã hội mới. Nhiều việc làm mới được tạo ra để giải quyết công việc cho hơn 3 triệu người thất nghiệp.

Mặc dù thế, nhiều khó khăn lớn và cấp bách vẫn tồn tại với người Việt Nam, bất chấp mọi nỗ lực, sự kiên nhẫn và hy sinh của họ. Sự thật là đất nước thiếu nguồn lực để có thể giải quyết một thảm họa lớn và nhiều vấn đề như vậy. Chiến dịch Phượng Hoàng đã lấy đi của miền nam nhiều nhân tài và thay thế bằng một bộ máy tham nhũng của chế độ cũ. Hơn nữa, tổng thống lúc đó, Gerald Ford, đã không thực hiện lời hứa của nước Mỹ đưa ra trong các thỏa thuận Paris năm 1973 là bồi thường chiến tranh cho Việt Nam hơn 3 tỷ USD trong vòng hơn 5 năm. Chưa kể chính quyền Carter cản trở những nỗ lực của Việt Nam nhằm nhận được cứu trợ của quốc tế.

Đó là thực tế thường ngày mà Việt Nam phải đối mặt vào tháng 8 năm 1979, trong khi báo chí phương Tây kêu ca về số phận của người di tản. Mặc dù thế, ấn tượng tôi có được sau một chuyến đi chu đáo và cẩn thận trong gần một tháng trong nước về nỗi lo lớn nhất của người Việt Nam không phải là các vấn đề về kinh tế và xã hội mà là nguy cơ một cuộc chiến tranh mới với Trung Quốc. Đó là nỗi ám ảnh quốc gia, đến mức thấm nhiễm vào cuộc sống hằng ngày của người dân. Tại sân bay ở Hà Nội, nhiều chuyến bay thường lệ đã bị hoãn lại vài giờ vì bầu trời tràn ngập máy bay MIG diễn tập. Xe đạp và trâu phải nhường đường cho xe tăng. Ở những khu vui chơi vào ngày chủ nhật, giữa đám trẻ con, chim sơn ca và mùi hương hoa, một thế hệ thanh niên đã cảm nhận được tình trạng báo động chiến tranh khẩn cấp. Còn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nông dân đi ngủ với vũ khí để bên cạnh người.

Ở biên giới, tình hình còn căng thẳng hơn. Người Việt Nam cho rằng 160.000 người Trung Quốc sống tại đây đã băng qua biên giới trước cuộc xâm lăng và rằng nhiều người đã xâm nhập trở lại Việt Nam nhằm lấy tin tức. Lo sợ mỗi người Hoa là một gián điệp, người Việt Nam đẩy họ ra xa mình. Khi cuộc chiến kết thúc, họ buộc họ phải quyết định giữa việc chọn Việt Nam, sống xa biên giới hoặc rời đất nước.

Nguy cơ về một cuộc chiến tranh với Trung Quốc đã ăn sâu vào nhận thức xã hội của người Việt Nam đến mức như thể những năm kháng chiến đã tạo nên cho họ một thứ văn hóa chiến tranh. Nó có thể được thấy ở mọi khía cạnh của cuộc sống thường ngày, thậm chí trong nghệ thuật và tình yêu. Ở những trại trẻ mồ côi tại miền nam, trẻ em chào đón khách đến thăm bằng những kiểu chào quân đội, hát những bài ca yêu nước…. Trong các viện bảo tàng, nhiều tác phẩm ra đời từ nguồn cảm hứng chiến tranh, ca ngợi sự dũng cảm và hy sinh. Trong những lễ hội văn hóa, các cô gái xinh đẹp chơi đàn tranh hát những bài hát nói về người lính hy sinh cho tự do. Tiểu thuyết và thơ cũng được viết ra từ những người đã từng đi qua chiến tranh.

Mặc dù vậy, điều làm tôi ngạc nhiên nhất ở người Việt Nam là sự bình thản. Họ luôn có vẻ hạnh phúc, lạc quan và hài hước. "Chúng tôi là những người Latin của châu Á”, một quan chức đã nói như vậy với tôi. Có một lần, một người phiên dịch dịch một câu chuyện kinh sợ cho tôi, trong khi khuôn mặt người đàn ông kể chuyện luôn hiện lên một nụ cười. Tôi phản đối người phiên dịch: "Không thể có chuyện anh ấy nói ra những điều kinh khủng như thế với một khuôn mặt hạnh phúc được”. Thực tế là như vậy và thực tế đã xảy ra như thế. Thậm chí mối quan hệ với Trung Quốc cũng không làm thay đổi được sự bình thản của người Việt Nam. Nhưng sự thực thì họ cũng chẳng nghĩ về một điều gì khác.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng căng thẳng xã hội có một lý lẽ lịch sử. Nhà lãnh đạo già, thật khó tin là ở tuổi 74 ông vẫn mạnh khỏe và minh mẫn như vậy, tiếp đón tôi và gia đình tôi vào lúc 6 giờ sáng, một cái giờ mà phần lớn các nguyên thủ đều chưa dậy. Đó là một cuộc trò chuyện dài, theo phong cách Việt Nam, vừa khiêm tốn, vừa trang trọng và rồi cuối cùng chúng tôi bàn về chủ đề một cuộc chiến tranh mới với Trung Quốc. Tôi hỏi thủ tướng một cách thành thật liệu căng thẳng khó cưỡng lại về một cuộc chiến sắp xảy ra đã được chính phủ phát động nhằm giữ vững tinh thần dân tộc ở trong trạng thái đề cao lâu dài hay liệu nguy cơ về một cuộc xâm lược khác của Trung Quốc thực sự đã tồn tại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời tôi: "Đấy là một mối lo đã tồn tại từ hàng nghìn năm”. Và ông kết thúc bằng một câu tiếng Pháp uy nghiêm: "C'est un rêve imperial fou”. - "Đó là một giấc mơ đế quốc điên rồ”.

Xuân Thủy, chủ tịch ủy ban các vấn đề đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam nói rõ hơn về khía cạnh lịch sử. Trong căn nhà của ông ở Hà Nội vào một buổi chiều mưa gió, ông giải thích cho tôi rằng, Trung Quốc đã xâm chiếm Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước và mâu thuẫn mới nảy sinh trong thập niên 60. Trong giai đoạn đó, Xuân Thủy nói với tôi, "Trung Quốc có đề nghị Việt Nam về một cuộc họp với các đảng Cộng sản khác nhằm tạo ra một liên minh chống Liên Xô”. Xuân Thủy cho rằng, lời từ chối khi đấy của Việt Nam là mâu thuẫn nghiêm trọng đầu tiên trong mối quan hệ hiện tại giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Tôi hỏi Xuân Thủy giải thích tại sao Trung Quốc lại giúp Việt Nam chống Mỹ. "Trung Quốc đã giúp đỡ chúng tôi”, ông nói, "bởi vì đó là cách bảo vệ biên giới của họ cũng đang bị Mỹ đe dọa. Nhưng ngay khi hai nước này (Trung – Mỹ) đạt được một thỏa thuận, thái độ của Trung Quốc với Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn”.

Sau chuyến thăm của Nixon tới Bắc Kinh vào tháng 2 năm 1972, Hà Nội trở thành mục tiêu của những đợt ném bom tàn khốc. Xuân Thủy tin rằng chiến dịch ném bom này là kết quả của một thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc.

Thậm chí hành động quân sự của Việt Nam tại Campuchia chỉ là một phần trong chiến tranh ngàn xưa. Xuân Thủy cho là quân đội Trung Quốc đã chiếm giữ một số tỉnh của Campuchia với sự cho phép của chính quyền Pol Pot nhằm tấn công Việt Nam ở bên sườn. "Họ sẽ không từ bỏ tham vọng cho đến khi họ đánh được chúng tôi”, ông nói. "Nếu ông không tin, hãy ra biên giới và ông sẽ thấy họ có thể làm được gì”.

Một ngày trước, tôi lên Lạng Sơn, cách biên giới Trung Quốc vài kilômet. Thành phố bị phá hủy hoàn toàn, không phải từ các cuộc giao tranh mà bằng thuốc nổ. Người Trung Quốc được thành phố trong một ngày và phá hủy tất cả một cách có hệ thống. Họ cho nổ tung các trụ sở, thư viện, trạm y tế, các trung tâm công nghiệp. Quanh chợ, nơi người dân tập trung buôn bán, tất cả đã bị san phẳng.

Tất cả những người Việt Nam mà tôi nói chuyện đều đồng ý rằng, một cuộc tấn công khác là không thể tránh khỏi. "Chúng tôi chờ họ”, Phạm Văn Đồng nói với tôi. "Lần này họ sẽ thấy chúng tôi chuẩn bị tốt hơn”, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch nói với tôi. "Họ sẽ tấn công chúng tôi thêm hai lần nữa”, Xuân Thủy nói, như thể một nhà tiên tri dự báo. Và ông kết luận cùng với nụ cười không thể bị khuất phục: "Chỉ khi chúng tôi đánh bại họ ba lần, họ sẽ hiểu được họ không thể đánh thắng chúng tôi và có thể họ sẽ quyết định đi tới một hiệp ước hòa bình lâu dài”.

Chuyến thăm Việt Nam của tôi kết thúc vào buổi chiều hôm đó, mặc dù tôi đã phải chờ 3 ngày cho cơn bão đi qua.

Một ủy ban từ Thượng nghị viện Mỹ xuất hiện ở khách sạn của chúng tôi. Sứ mệnh của họ là gặp gỡ các quan chức chính phủ để bàn về vấn đề người di tản và họ đã được đón tiếp trang trọng. Nhưng họ cũng đến để chuẩn bị cho một hành trình tìm kiếm Tarzan. Họ mang theo những thùng nhựa đựng đầy nước uống, soda và bia với đủ loại nhãn hiệu, đồ hộp, rau quả, một tủ rượu có thể di chuyển và một bệnh viện dã chiến với một đơn vị đặc biệt dành cho điều trị rắn cắn. Họ mang theo tất cả các loại thuốc trừ sâu bọ và chất tiệt trùng cùng một bộ thiết bị dập lửa. Tất cả được cất trong những hòm thép có đóng dấu của Mỹ, và cùng với thiết bị truyền hình, tất cả chất đầy hành lang của khách sạn.

Một trong những thành viên của đoàn tỏ ra bất ngờ khi thấy một nhà văn phương Tây ở Việt Nam. "Giờ thì mọi người đều chống lại họ”, ông ta nói. Thực tế, những nghệ sĩ và giới trí thức ở Mỹ và châu Âu từng ủng hộ Việt Nam trong chiến tranh giờ quay sang ủng hộ cho những người di tản. Vì thế, kết luận của cá nhân tôi là họ dường như không hiểu rõ thực chất vấn đề.

Việt Nam đã hơn một lần là nạn nhân của những mưu đồ quốc tế thâm độc. Chính phủ Việt Nam không trục xuất ai cả, mặc dù có thể ở thời điểm dó, người ta hiểu khác đi. Nhưng tôi biết rằng trong cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhiều kỹ sư, giáo sư giỏi mà đất nước rất cần cho công cuộc xây dựng đã ra đi.

Chính phủ Việt Nam đã phạm phải những sai lầm không thể sửa chữa được. Trước tiên là việc đánh giá sai hoặc không thấy trước được sự ủng hộ của quốc tế với người di tản. Thứ hai là việc họ tin tưởng mù quáng sự đoàn kết của thế giới và rồi nhận ra thực tế đã bị bóp méo.

Họ không được giúp gì. Sau rất nhiều thế kỷ chiến tranh, Việt Nam đã thất bại trong một trận chiến lớn của một cuộc chiến ít được biết đến nhưng có sức tàn phá như những gì họ phải chịu. Chiến tranh thông tin.

G. Marquez

Phạm Mạnh Hào dịch từ: The Vietnam Wars. Translated from the Spanish by Gregory Rabassa By Gabriel García Márquez. This story is from the May 29th, 1980 issue of Rolling Stone.

http://www.rollingstone.com/culture/news/the-vietnam-wars-19800529#ixzz35EFuzfD9



Triệu Xuân gửi cho viet-studies ngày 22-10-14

Nguồn: http://www.viet-studies.info/TrieuXuan_Marquez.htm

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

Liên minh Việt-Mỹ hay tam giác Trung-Việt-Mỹ?



Trương Minh Vũ & Nguyễn Thành Trung, International Policy Digest
Dịch bởi Yến, CTV Phía Trước

Sau sự kiện Trung Quốc cắm giàn khoan tháng Năm vừa qua, nhiều nhà quan sát thân phương Tây đã có một cảm giác lạc quan về triển vọng tươi sáng của quan hệ Việt-Mỹ. Cơ sở cho quan điểm này là một loạt những cuộc trao đổi thẳng thắn từ hai phía. Vào ngày 21/7, Bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị thăm Hoa Kỳ, gặp gỡ với Chủ tịch Lâm thời của Thượng viện Hoa Kỳ Patrick Leary, mặc dù chuyến đi của ông là một sự kiện không nổi bật. Vào ngày 14/8 tướng quân đội Mỹ Martin Dempsey trở thành chủ tịch đầu tiên của tham mưu trưởng liên quân sang thăm Việt Nam trong hơn bốn thập kỷ. Chuyến đi này phản ánh mong muốn tăng cường sự gần gũi trong quan hệ quân sự hai nước.

Một tuần trước chuyến thăm của Tướng Dempsey là chuyến đi của Thượng nghị sĩ John McCain và Sheldon Whitehouse. Tất cả đều ủng hộ việc bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương của Mỹ tại Việt Nam. Ngày 15 tháng 9, Phó Thủ tướng Việt Nam Vũ Văn Ninh đã bắt đầu chuyến thăm kéo dài năm ngày của ông tới Mỹ để thúc đẩy các cuộc đàm phán đối tác xuyên Thái Bình Dương và tăng cường quan hệ kinh tế giữa hai nước. Qua đó, Việt Nam hy vọng cải thiện khả năng cạnh tranh kinh tế, giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc, và góp phần hiện đại hóa. Những bước phát triển quan trọng cuối cùng lên đỉnh điểm khi thỏa thuận đã được thực hiện trong chuyến thăm của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh sang Mỹ trong tháng này ( 1-2/10/2014). Khi đó Mỹ đã đồng ý giảm bớt lệnh cấm vận vũ khí đối với Việt Nam trong lĩnh vực an ninh tuần tra trên biển. Những chuyến đi nhịp độ nhanh là dấu hiệu Việt Nam và Mỹ đã bước vào một kỷ nguyên mới trong mối quan hệ kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995 mà nguyên nhân chủ yếu do nhân tố Trung Quốc.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng có những giải pháp tinh tế để làm dịu sự bất mãn của Trung Quốc trước chính sách ngoại giao của mình. Tháng tám vừa qua, Bí thư thường trực Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Hồng Anh thăm Trung Quốc như là một đặc phái viên của Đảng. Phương tiện truyền thông chính thống của Việt Nam cho biết động lực chính của chuyến đi là phục hồi và cải thiện mối quan hệ giữa hai đảng Cộng sản và hai quốc gia. Lê Hồng Anh, xếp hạng thứ năm trong Bộ Chính trị, đã gặp nhiều quan chức cấp cao Trung Quốc, trong đó có Chủ tịch Tập Cận Bình. Các cơ quan báo chí Việt Nam và Trung Quốc thông báo rằng một thỏa thuận ba điểm đã đạt được trong chuyến thăm này: 1 – Lãnh đạo hai đảng cộng sản và hai quốc gia sẽ tiếp tục tăng cường chỉ đạo trực tiếp của họ vào sự phát triển của quan hệ song phương; 2 – Truyền thông nội bộ đảng sẽ được tăng cường; 3 – Với sự đồng thuận giữa hai Đảng, hai nước sẽ tiếp tục duy trì tình hình chung của mối quan hệ Trung-Việt hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

Chuyến đi của ông Lê Hồng Anh không phải là lần đầu tiên Hà Nội thể hiện một cử chỉ tôn kính. Trong tháng 10 năm 2011, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam cũng đã đến thăm Trung Quốc để hạ nhiệt những căng thẳng đã bùng lên khoảng năm tháng trước đó. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 2011, tàu Trung Quốc hai lần cắt cáp địa chấn của tàu Dầu khí Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo Công ước Luật Biển UNCLOS 1982. Những sự việc này đã khơi dậy các cuộc biểu tình tại Việt Nam. Trung Quốc và Việt Nam đều cáo buộc lẫn nhau đã vi phạm lãnh hải. Chuyến công du của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam sang Trung Quốc được coi là một cử chỉ hòa dịu và chào đón, kêu gọi Trung Quốc thiết lập một đường dây nóng để giải tỏa tình trạng khẩn cấp giữa hai nước. Ông đã không gặt hái được bất kỳ giải pháp lâu dài cho các tranh chấp, nhưng ít nhất giảm bớt sự sự bế tắc đang diễn ra tại thời điểm đó. Chuyến đi của Lê Hồng Anh cũng được coi là một tín hiệu từ Việt Nam cho thấy họ không muốn đối đầu với Trung Quốc trong bối cảnh Martin Dempsey – Chủ tịch Tham mưu Liên quân đầu tiên của Mỹ từ năm 1971 viếng thăm Việt Nam. Điều này được coi là một thành công ngoại giao của Bắc Kinh trong việc bảo đảm rằng Việt Nam vẫn thực hiện theo cơ chế giải quyết tranh chấp song phương. Trong buổi nói chuyện với Tập Cận Bình, Lê Hồng Anh khẳng định rằng Việt Nam sẽ làm hết sức mình để tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, và củng cố quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc.

Các tín hiệu không nhất quán trên chứng minh sự đa dạng của ý kiến ​​trong “cuộc tranh cãi liên minh” xảy ra ở Việt Nam hiện nay. Mục đích chính là để đặt các chính sách quốc phòng quốc gia “ba không” ở trung tâm của những lời chỉ trích. Chính sách này từ lâu đã khẳng định trên ba nguyên tắc được coi là không thể thay đổi: không liên minh quân sự, không hưởng trợ cấp để cho phép bất kỳ quốc gia nào thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam, và không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào để được giúp đỡ trong cuộc chiến chống các nước khác. Trong nội bộ Việt Nam, có rất nhiều lời chỉ trích rằng chính sách này không đủ để bảo vệ quyền lợi và chủ quyền của quốc gia, đặc biệt là sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu US-981 trong đặc khu kinh tế EEZ của Việt Nam. Dù khác nhau về phương thức tiếp cận và trình độ, những người này đều cố gắng đẩy Việt Nam gần hơn với Hoa Kỳ. Theo họ, chỉ Hoa Kỳ mới có khả năng làm thay đổi tính toán của Trung Quốc đối với Biển Đông, theo những cách thức không cho phép Trung Quốc sử dụng vũ lực quân sự hoặc cưỡng chế để giải quyết tranh chấp. Trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, Việt Nam có thể dựa vào Hoa Kỳ như là một nguồn đảm bảo an ninh.

Mức độ vai trò đảm bảo an ninh của Hoa Kỳ phụ thuộc vào nội dung của hiệp ước. Trong khi đó, sự hậu thuẫn của một cường quốc quân sự sẽ đem đến thay đổi trong cán cân quyền lực (đặc biệt là về sức mạnh quân sự trong tranh chấp Biển Đông). Không giống như Philippines, Việt Nam đang trong cuộc xung đột với Trung Quốc ở cả hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Trong khi quần đảo Trường Sa liên quan đến nhiều quốc gia Đông Nam Á khác và trực tiếp ảnh hưởng đến tự do hàng hải trong khu vực, tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa vẫn chỉ là một vấn đề song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sau sự kiện dàn khoan dầu HD-981, các chiến lược gia Việt Nam đã nhận ra rằng rất khó để gắn liền các cuộc xung đột lãnh thổ đối với tự do hàng hải, nhưng sau cùng đã đạt được mối quan tâm rõ ràng từ Hoa Kỳ. Vì vậy, với một liên minh không phải và cũng không hỗ trợ quân sự, Việt Nam sẽ bị phương hại trong cuộc đối đầu với Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa.

Vào tháng Tư năm 2014, hai tàu hải quân Mỹ đã có đợt tập thường niên thứ 5, kéo dài sáu ngày, với hải quân Việt Nam, tượng trưng cho một hợp tác quốc phòng chặt chẽ hơn giữa hai kẻ thù cũ. Các bài tập cơ sở để xây dựng lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Ví dụ, trong chuyến đi tới Việt Nam cuối tháng mười hai, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry thông báo rằng Cảnh sát biển Việt Nam sẽ nhận được 18 triệu USD viện trợ với năm tàu tuần tra nhanh nâng cao năng lực cảnh sát biển.

Gần đây, đã có nhiều tiếng nói ủng hộ hơn từ các dân biểu Hoa Kỳ cho việc dỡ bỏ lệnh cấm của Mỹ về việc bán vũ khí sát thương cho Hà Nội. Tướng Dempsey cũng nói rằng Lầu Năm Góc có thể bán cho Việt Nam những thiết bị tốt hơn để giám sát hàng hải, bao gồm radar và máy bay giám sát. Khả năng giám sát và bảo vệ hàng hải Việt Nam có thể được tăng cường nhờ mua những hệ thống vũ khí của Mỹ như máy bay trinh sát P-3 Orion. Với khả năng chống tàu ngầm của nó, P-3 Orion là thiết bị đặc biệt quan trọng để phát hiện sớm tàu ngầm ở Biển Đông cũng như phát triển khả năng phòng thủ. Các bước cụ thể là điềm lành cho việc xây dựng một liên minh tương lai. Tuy nhiên, Việt Nam và Mỹ vẫn có ý định riêng về những mục đích khác. Washington sẽ phải đánh giá tư duy của các nhà lãnh đạo Việt Nam một cách cẩn trọng nếu tiếp tục kỳ vọng lạc quan rằng Hà Nội sẽ hội nhập vào hệ thống liên minh của mình.

Thứ nhất, Việt Nam không muốn đổi quan hệ với Trung Quốc lấy sự cải thiện trong quan hệ với Hoa Kỳ. Trong tư duy chiến lược của Việt Nam, sự gần gũi về địa chính trị luôn đóng một vai trò rất quan trọng. Hà Nội sẽ không mạo hiểm làm hỏng mối quan hệ của họ với Trung Quốc để liên minh với Hoa Kỳ. Việt Nam và Trung Quốc đã thành lập một cơ chế để củng cố mối quan hệ song phương với những cuộc viếng thăm chính thức thường niên và các cuộc thảo luận thường xuyên về các vấn đề biên giới, an ninh hàng hải, hợp tác quốc phòng, lãnh hải, và các hoạt động khai thác chung. Mặc dù Trung Quốc đang ngày càng hung hăng trong tranh chấp Biển Đông, Việt Nam vẫn tiếp tục nhắc lại tầm quan trọng của một mối quan hệ thân thiện với Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách Việt Nam không muốn củng cố mối quan hệ với Mỹ một cách không cân đối để xé bỏ quan hệ Việt-Trung trong một trò chơi được ăn cả, ngã về không.

Sẽ tốt hơn cho Việt Nam nếu họ dùng liên minh Việt-Mỹ như một yếu tố gây mất ổn định trong tam giác Washington – Hà Nội – Bắc Kinh. Việt Nam tin rằng đu dây giữa hai bên là một phương án tốt để vừa giữ được quan hệ với cả hai siêu cường, vừa đạt được một thế cân bằng tinh tế. Bên cạnh đó, chiến thuật này không vi phạm nguyên tắc không liên minh của họ. Tính toán thực dụng này đã xác định chính sách đối ngoại của Việt Nam: tăng cường quan hệ quốc phòng và kinh tế với Hoa Kỳ, trong khi vẫn giữ một mối quan hệ tốt với tên không lồ phương Bắc.

Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam dễ chịu tác động xấu từ một cuộc đối đầu với Trung Quốc. Năm 1991, thương mại song phương chỉ có 32 triệu USD. Ngày nay, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với tổng giá trị lên đến 50.21 tỷ USD năm 2013, trong khi thương mại song phương với Hoa Kỳ vào năm 2013 là 30 tỷ USD. Thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam được dự kiến ​​sẽ đạt 60 tỷ USD, tăng hàng năm hai con số. Các nhà lãnh đạo bảo thủ Việt Nam có thể học được một bài học từ châu Âu khi nền kinh tế Ukraine gần như suy sụp vì bị Nga giáng đòn trừng phạt. Một báo cáo của Việt Nam nói rằng tác động của việc triển khai đơn phương của một giàn khoan dầu Trung Quốc ngoài khơi của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có chi phí kinh tế lên tới 1,0-1,5 tỷ USD. Con số này có thể là lớn hơn nếu Trung Quốc không thu hồi các giàn khoan sớm hơn dự kiến​​. Việt Nam có thâm hụt thương mại lớn nhất với Trung Quốc. Cán cân thương mại nghiêng về phía Trung Quốc đã lớn hơn trong những năm qua. Đáng chú ý là những nguyên liệu chưa qua chế biến, chẳng hạn như dầu thô và than đá, chiếm một tỷ lệ đáng kể trong giỏ hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc.

Một vấn đề lớn của ngành công nghiệp sản xuất Việt Nam là ngay cả những doanh nghiệp xuất khẩu trọng tâm cũng đang trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc. Hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam bao gồm các vật liệu cần thiết khác nhau để sản xuất hàng xuất khẩu, bao gồm cả nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, sắt thép, hóa chất, dầu và các loại vải. Lê Đăng Doanh, một nhà kinh tế Việt Nam, đã thường xuyên bày tỏ sự thất vọng của mình về sự mất cân bằng thương mại và sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. Ông nói: “Việt Nam xuất khẩu than và sau đó nhập khẩu điện, xuất khẩu cao su và nhập khẩu lốp xe”. Cụ thể hơn, Việt Nam đang nhập khẩu gần 50% sợi và vải cần thiết cho ngành công nghiệp dệt may từ Trung Quốc. Nếu Trung Quốc làm gián đoạn việc cung cấp sợi, họ sẽ bóp chết ngành công nghiệp dệt may Việt Nam gây ra tình trạng thất nghiệp hàng loạt trong ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động này.

Thứ ba, quyền con người được coi là vấn đề hóc búa nhất, gây tranh cãi trong mối quan hệ song phương. Vấn đề này có thể kìm hãm tiềm năng của mối quan hệ để đạt được sự phát triển đầy đủ, nhưng nó không có nghĩa là mối quan hệ khác sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Mỹ hy vọng rằng mối quan hệ sâu sắc trong các lĩnh vực khác sẽ khuyến khích Hà Nội nhượng bộ về nhân quyền. Một số chính trị gia Mỹ cho rằng Washington có thể sử dụng lệnh cấm vận vũ khí và các cuộc đàm phán TPP như một đòn bẩy chính trị để gây áp lực buộc Hà Nội thả những người bất đồng chính kiến ​​và thúc đẩy cải cách dân chủ. Một số người khác lại cho rằng những điều kiện này sẽ chỉ tạo ra một vòng luẩn quẩn. Để đạt được mục đích của mình, Việt Nam có thể tùy tiện thắt chặt hoặc thả lỏng vấn đề nhân quyền. Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách dân chủ, nhân quyền và lao động, Tom P. Milnowski, nhận xét rằng những thay đổi “tích cực” của Việt Nam về nhân quyền trong nửa năm vừa rồi sẽ tác động tới quyết định cuối cùng trong việc dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí. Họ không chắc chắn Việt Nam sẵn sàng hy sinh bao nhiêu để tham gia vào quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương. TPP yêu cầu các thành viên chấp nhận các quy định mạnh mẽ về lao động, bao gồm cả tự do lập hội, trợ cấp thương lượng tập thể, và Việt Nam cần phải thay đổi để tuân thủ các quy tắc này. Một trong những điểm đáng chú ý nhất là việc thành lập công đoàn độc lập.

Thứ tư, bài học lịch sử cũ có thể lặp lại, chính nó vẫn còn khắc sâu trong tâm trí của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Những ký ức của các nhà lãnh đạo hiện thời vẫn không dễ dàng phai nhạt. Năm 1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Liên Xô dẫn đầu, và sau đó đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô. Do sự rạn nứt Xô-Trung ngày càng lớn, Trung Quốc ngay lập tức giải thích điều ước quốc tế này như là một liên minh quân sự chống lại Trung Quốc. Rõ ràng, sự thân mật gần gũi của Hà Nội với Moscow đã khiến Đặng Tiểu Bình tức giận. Sau này, ông Đặng đã gọi Việt Nam là “một tên du côn”, và thậm chí tệ hơn, Trung Quốc đã không dừng lại ở lời nói. Bắc Kinh đã quyết định dạy “Cuba vô ơn của phương Đông” một bài học, dẫn đến bốn tuần tấn công bất ngờ và đẫm máu vào lãnh thổ của Việt Nam trong tháng Hai năm 1979. Những bài học có giá trị đã được rút ra ở cả hai bên. Đối với Việt Nam, sự thất bại của Liên Xô trong việc bảo vệ Việt Nam trước cuộc tấn công của Trung Quốc đã có tác động hai mặt. Trước tiên là bài học trong câu thành ngữ “bán an hem xa, mua láng giềng gần”. Những mối đe dọa tại biên giới luôn lớn hơn nhiều so với lời hứa hẹn bố thí từ những người bạn xa lắc. Thứ hai, những thế lực chính trị lớn chỉ cho phép các quốc gia nhỏ có rất ít lựa chọn. Xía vào cuộc tranh chấp giữa các cường quốc không phải là một động thái thông minh. Do đó, lãnh đạo Việt Nam chọn không tham gia cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Liên Xô khoảng bốn mươi năm trước đây. Hiểu sâu sắc sức mạnh của Trung Quốc, những nhà hoạch định chính sách Việt Nam hiện nay không tìm thấy bất cứ lợi ích rõ ràng nào từ việc liên minh với Hoa Kỳ.

Những hậu quả từ một mối quan hệ thiếu thân thiên với người láng giềng khổng lồ phương Bắc là không xa lạ gì với người Việt Nam. Bốn mươi năm trước, trong chiến tranh Việt Nam, ông Nguyễn Văn Thiệu. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, cũng đã có kinh nghiệm buồn với Mỹ. Ông cáo buộc rằng Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã lừa ông ký Hiệp ước Paris bằng cách hứa hẹn viện trợ quân sự nhiều hơn, nhưng hóa ra đó chỉ là những lời hứa hão. Ông Thiệu cho rằng đồng minh Mỹ của ông đã phản bội ông ta bằng cách “chơi bài Tàu” để giải quyết cuộc chiến tranh mà không hề có sự chấp thuận của ông, dẫn đến sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975. Những nhà lãnh đạo Việt Nam đương thời hẳn phải biết rất rõ bản chất tạm bợ của liên minh này, khi họ đã khai thác nó để giành chiến thắng trong cuộc chiến. Để cho chắc chắn, họ không muốn ở trong tình huống khó xử tương tự với Mỹ giống như chính phủ Nam Việt Nam đã từng.

Tam giác an ninh Washington – Hà Nội – Bắc Kinh đã nổi lên như là kết quả của sự thay đổi cảnh quan sau chiến tranh lạnh. Sự mập mờ trong chiến lược của cả Mỹ và Trung Quốc đã dẫn đến sự không chắc chắn trong khu vực – một tình trạng mà các quốc gia vừa và nhỏ phải đối mặt. Kết quả là, một “sự mập mờ chiến lược” từ bên dưới đã xuất hiện. Suốt một thập kỷ, Hà Nội đã tìm cách duy trì một “trạng thái cân bằng tinh tế” giữa các cường quốc bằng cách sử dụng một sự kết hợp thận trọng giữa ngoại giao, các biện pháp kinh tế và an ninh để vừa nhẹ nhàng cân bằng sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc, vừa ràng buộc Trung Quốc thông qua sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, hay hiệp định song phương và đa phương .

Sau sự gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, tình thế đã thay đổi, làm đổ vỡ thế “cân bằng tinh tế” này. Tuy nhiên, khả năng hình thành một liên minh Hoa Kỳ – Việt Nam mang lại cho Trung Quốc một mối đe dọa nhãn tiền. Cuộc khủng hoảng ở Ukraine, hiện đang trở thành điểm nóng giữa Washington và Moscow, cũng có thể khiến các nhà lãnh đạo Việt Nam sợ rằng họ sẽ khơi dậy những phản ứng nghiêm trọng từ phía Trung Quốc khi Việt Nam tìm kiếm các mối quan hệ chiến lược sâu sắc hơn với Mỹ và các đồng minh. Tam giác an ninh Washington – Hà Nội – Bắc Kinh vẫn đang thay đổi liên tục, và viễn cảnh về một liên minh Việt Mỹ vẫn còn khá xa so với những gì mà tương lai có thể mang lại.

© 2014 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2014

Trung Quốc lại vỗ về Việt Nam


Trung Quốc lại vừa hứa hẹn thiết lập liên lạc trực tiếp giữa hai Bộ Quốc Phòng để ngăn chặn xung đột trên biển, cam kết sẽ cùng Việt Nam “giải quyết và kiểm soát” tranh chấp.

Trong vài ngày qua, báo giới Việt Nam tỏ ra rất hào hứng trước sự kiện, viên đại tướng, bộ trưởng Quốc Phòng CSVN dẫn 12 viên tướng thuộc quyền sang thăm Trung Quốc. Chuyến thăm diễn ra trong ba ngày, từ 16 đến 18 tháng 10, 2014.



Vết tích để lại sau khi tàu QNg 96074 bị lực lượng hải giám của Trung Quốc đập phá, cưỡng đoạt các thiết bị hỗ trợ hải hành và hải sản hồi tháng 8. (Hình: Pháp Luật TP)

Theo tờ Quân Ðội Nhân Dân của Việt Nam thì mục tiêu mà phái đoàn quân sự cao cấp của Việt Nam nhắm tới trong chuyến thăm Trung Quốc là “tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên.” Ðồng thời “bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân và quân đội hai nước.”

Giới lãnh đạo quân đội CSVN và Trung Quốc dự trù sẽ ký một thỏa thuận về việc thiết lập liên lạc trực tiếp giữa hai Bộ Quốc Phòng.

Trước khi 13 viên tướng Việt Nam sang thăm Trung Cộng để thắt chặt quan hệ “hợp tác quốc phòng” - vốn được khẳng định là một trong những “trụ cột quan trọng đối với quan hệ giữa hai đảng và hai nhà nước cộng sản” một chút, viên đô đốc, tư lệnh Hải Quân Trung Cộng vừa hoàn tất chuyến thị sát quần đảo Trường Sa, thăm những bãi đá mà Trung Cộng từng chiếm của Việt Nam và nay đã biến chúng thành các hòn đảo nhân tạo nhằm củng cố yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Ðông.

Cũng trong vài ngày vừa qua, khi gặp gỡ ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN bên lề Hội Nghị Á-Âu (ASEM), diễn ra tại Ý, ông Lý Khắc Cường, thủ tướng Trung Quốc, chủ động đề nghị, Việt Nam và Trung Quốc “cần giải quyết, kiểm soát những khác biệt trong vấn đề biển nhằm tạo điều kiện cho hợp tác song phương.”

Tân Hoa Xã loan báo, trong cuộc trò chuyện với thủ tướng Hà Nội, thủ tướng Trung Quốc nhận định rằng: “Nhờ nỗ lực từ cả hai phía, quan hệ Trung-Việt đã vượt qua được những khó khăn gần đây và đang tốt dần.” Cũng theo Tân Hoa Xã thì viên thủ tướng CSVN hoàn toàn đồng ý và ủng hộ việc “thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, tài chính và khai thác biển.”

Những hứa hẹn kiểu như vừa kể vốn đã được lập đi, lập lại hàng trăm lần nhưng sau mỗi lần Trung Quốc hứa hẹn như thế, Trung Quốc lại dấn thêm những bước sâu hơn, mạnh mẽ hơn trong việc khẳng định yêu sách về chủ quyền trên biển Ðông. Gần đây nhất, Trung Quốc loan báo đã hoàn thành việc mở rộng phi đạo trên đảo Phú Lâm, một hòn đảo nằm trong quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã cưỡng chiếm của Việt Nam năm 1974.

Trung Quốc cũng đã hoàn tất công việc biến nhiều bãi đá ở quần đảo Trường Sa - trong đó có bãi đá Gạc Ma mà Trung Quốc đã cưỡng chiếm của Việt Nam năm 1988, thành các hòn đảo nhân tạo để thiết lập những căn cứ quận sự mới ở biển Ðông.

Trước đó một chút, hồi trung tuần tháng 9, Tập đoàn dầu khí CNOCC của Trung Quốc loan báo sẽ phát thông báo mời các tập đoàn ngoại quốc dự cuộc đấu thầu 33 lô dầu khí, trong đó có 25 lô ở biển Ðông. Năm 2012, Tập đoàn dầu khí CNOCC của Trung Quốc cũng đã từng làm như thế nhằm củng cố các yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên biển. Vào thời điểm vừa kể, Tập đoàn dầu khí CNOCC mời thầu 9 lô dầu khí ở biển Ðông, cả 9 lô này đều nằm sát bờ biển miền Trung và miền Nam của Việt Nam

Vào thượng tuần tháng 8, Trung Quốc đưa tàu vào vùng biển của Việt Nam để khảo sát địa chất - thăm dò trữ lượng dầu khí và tìm địa điểm dựng năm hải đăng ở năm hòn đảo (Ðá Bắc, Ðá Hải Sâm, Duy Mộng, Cồn Cát Nam và Hòn Tháp) trong quần đảo Hoàng Sa.

Chế độ Hà Nội chỉ trích Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam nhiều hơn và mạnh mẽ hơn so với trước. Những chỉ trích này lắng xuống sau khi chính quyền Trung Quốc vỗ về, trấn an và sau đó, các hành vi xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc lại trắng trợn hơn. (G.Ð)

Nguyễn Trọng Vĩnh: Cầu hòa - Có "hòa" được không?

LIỆU CÓ NGĂN ĐƯỢC ÂM MƯU CỦA TQ CHIẾM BIỂN, ĐẢO CỦA CHÚNG TA VÀ BÁ CHIẾM BIỂN ĐÔNG KHÔNG?





Từ xưa đến nay, chưa bao giờ các thế hệ cầm quyền TQ từ bỏ mưu đồ thôn tính nước ta. Năm 1974, họ đánh chiếm Hoàng Sa của ta.

Năm 1979, họ xua quân xâm lăng, giết hại đồng bào và tàn phá 6 tỉnh biên giới của ta. Năm 1988, họ đánh chiếm bãi đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa của chúng ta, giết hại 64 cán bộ chiến sĩ của ta.
Trong đàm phán biên giới, họ ép và lấn ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, mấy trăm mét từ ải Nam Quan xuống đến xã Tân Thanh và nhiều nơi nữa dọc biên giới, ta mất đất bằng một tỉnh Thái Bình.
Trên biển, TQ lập huyện Tam Sa bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của ta, bắt tàu cá, tịch thu tài sản của ngư dân, bắn giết ngư dân ta, đưa giàn khoan 981HD vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của ta với hàng trăm tàu bảo vệ phun vòi rồng, đâm hỏng tàu chấp pháp, tàu kiểm ngư, đâm chìm tàu cá của ngư dân ta....

Từ khi họ nêu ra phương châm "16 chữ + 4 tốt", chỉ có lãnh đạo phía Việt Nam thực hiện, TQ không những không hề thực hiện, trái lại còn làm những việc lấn chiếm, bắn giết, đe dọa... Phải gọi họ là kẻ cướp, kẻ thù.


 


Thế mà, ông Phùng Quang Thanh dẫn các tướng sang thăm TQ nhằm "củng cố tình hữu nghị". Chắc hẳn đoàn Bộ trưởng được đón tiếp trọng thị, khoản đãi hậu tình, có quà cáp đáng giá và được nghe những lời đường mật giả dối.

Trong khi đó, TQ sắp xây xong sân bay và đường băng trên đảo Phú Lâm, đương gấp rút hoàn thiện căn cứ quân sự có đường băng trên nhóm bãi đá Gạc Ma mà họ xây dựng thành các đảo nhân tạo không ngoài mục đích uy hiếp và chuẩn bị, chờ thời cơ chiếm nốt quần đảo Trường Sa của ta và bá chiếm biển Đông. Giới cầm quyền TQ luôn tuyên bố "Lập trường đối với Nam Hải (biển Đông) quyết không thay đổi."

Liệu chuyến thăm của đoàn Bộ trưởng Phùng Quang Thanh sang cầu hòa có ngăn được âm mưu của họ không?!

Sinh ra bộ Quốc phòng là để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải quốc gia. Lẽ ra ông Bộ trưởng phải phân biệt rõ bạn, thù, ra sức tăng cường lực lượng quốc phòng về mọi mặt, luôn sẵn sàng chuẩn bị đối phó với tình hình xấu nhất theo tinh thần "lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn" như dân tộc ta đã thực hiện. Đằng này, khi TQ đặt gian khoan xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của ta thì ông lại phát biểu "Quan hệ Việt - Trung vẫn phát triển tốt", không có ý kiến gì đối với việc TQ xây dựng công trình trên đảo Phú Lâm và trên cụm Gạc Ma, không quan tâm đến những sự kiện TQ đã đứng chân và nắm được nhiều điểm xung yếu về quân sự trên đất liền, từ rừng biên giới đến ven biển và các hải cảng, cũng như hàng vạn người TQ dải khắp nơi trong nước ta, kể cả cư trú trái phép. Có một ông Bộ trưởng Quốc phòng như thế thì việc mất biển, đảo và mất nước là khó tránh khỏi.

Trong khi cần tỉnh táo, nhận diện bản chất đối phương, chúng sẽ không từ bỏ ý đồ độc chiếm biển Đông và còn chiếm cả Đông Dương, cần nhận rõ bạn-thù, nhưng lại đi cầu hòa! Nói theo kiểu truyện Tam Quốc: Có "Hòa" được không? Hồi sau sẽ rõ!

Nguyễn Trọng Vĩnh
Tác giả gửi BVB

(Blog Bùi Văn Bồng)

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

13 tướng Việt Nam thăm Trung Quốc



16-10-2014

Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam, dẫn đầu là Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thăm Trung Quốc từ 16/10-18/10.

Báo Quân đội Nhân dân đưa tin chuyến thăm này “nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên và bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân và Quân đội hai nước”.

Theo kế hoạch, khi ở Bắc Kinh đoàn của ông Phùng Quang Thanh và phía Trung Quốc sẽ ký tắt bản Ghi nhớ kỹ thuật về thiết lập đường dây liên lạc trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng.

Chuyến thăm được nói sẽ “khẳng định hợp tác quốc phòng là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước”.

Hai bên mong muốn “tạo nhận thức chung” về các vấn đề an ninh quốc tế, khu vực và mỗi nước.

Nhận xét về chuyến đi, chuyên gia Việt Nam – Giáo sư Carl Thayer từ Canberra, Úc châu, nói: “Tôi cho rằng hai bên nay đang tập trung vào các chuyện quan trọng cụ thể nhằm giải đáp cho quan ngại an ninh của mỗi nước”.

“Hai bên cùng sẽ tìm cách trấn an nhau về việc làm sao để quân đội đứng bên ngoài tranh chấp biển đảo.”

Ông cũng cho rằng trước kỳ họp thượng đỉnh Apec sắp tới tại Bắc Kinh, Trung Quốc có thể muốn tỏ ra hòa hoãn hơn.
Giảm căng thẳng

Thành phần đoàn của ông Phùng Quang Thanh bao gồm nhiều tướng lĩnh hàng đầu Việt Nam, như Phó Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Bế Xuân Trường; Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Trung tướng Lương Cường; tư lệnh các quân chủng Phòng không-Không quân, hải quân, Quân khu 2, Quân khu 3…

Không thấy sự có mặt của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, người được cho là đứng đầu ngành đối ngoại quốc phòng.

Chuyến đi của Đại tướng Phùng Quang Thanh và đoàn quân sự cấp cao tiếp sau chuyến thăm Bắc Kinh của Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh.

Theo GS Carl Thayer, quân đội hai nước có thể đang tập trung bàn những dàn xếp cụ thể để giảm thiểu căng thẳng giữa hai bên, nhất là tại Biển Đông.

Tướng Thanh, trong bài phát biểu tại Diễn đàn An ninh Shangri-La hồi cuối tháng Năm nói quân đội Việt Nam và Trung Quốc cần “kiềm chế”, “tăng cường hợp tác” và “kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động” để tránh có “hành động ngoài tầm kiểm soát”.

Tuy nhiên, ông cho rằng quan hệ Việt-Trung vẫn “phát triển tốt đẹp” và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với ‘mâu thuẫn gia đình’.

Ông nói: “Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.”

“Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng”.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh thăm Trung Quốc



Báo QĐND đưa tin, chuyến thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc của đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam do Bộ trưởng, Đại tướng Phùng Quang Thanh dẫn đầu diễn ra theo lời mời của Thượng tướng Thường Vạn Toàn, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc.Tham gia đoàn có Trung tướng Bế Xuân Trường – Phó tổng Tham mưu trưởng; Trung tướng Lương Cường – Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Trung tướng Dương Đức Hòa – Tư lệnh Quân khu 2; Trung tướng Phương Minh Hòa – Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân; Trung tướng Võ Trọng Việt – Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; Trung tướng Phạm Hồng Hương – Tư lệnh Quân khu 3; Chuẩn đô đốc Phạm Hoài Nam – Phó tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; Thiếu tướng Phan Văn Tường – Phó tư lệnh Quân khu 1; Trung tướng Vũ Văn Hiển – Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng; Thiếu tướng Vũ Anh Văn – Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc; Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng – Cục trưởng Cục Đối ngoại – Bộ Quốc phòng và Thiếu tướng Ngô Quang Liên – Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng.

“Chuyến thăm này nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện giữa quân đội hai bên và bàn các biện pháp thúc đẩy quan hệ quốc phòng song phương để duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác hữu nghị giữa nhân dân và Quân đội hai nước” – theo tin của QĐND.

“Chuyến thăm cũng nhằm tạo nhận thức chung về các vấn đề an ninh quốc tế, khu vực và mỗi nước, tiếp tục đóng góp cho sự phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài của quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung cũng như khẳng định hợp tác quốc phòng là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước”.

Trong khuôn khổ chuyến thăm, dự kiến, hai bên sẽ ký tắt bản ghi nhớ kỹ thuật về thiết lập đường dây liên lạc trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng.