Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Vịnh Cam Ranh: rượu mời không uống



Lê Minh Nguyên

30-03-2015



Có một câu chuyện vui: hai người bạn thân rủ nhau đi dạo trong rừng, một người là sinh viên xuất sắc trong trường, môn nào cũng điểm A, người kia không học hành nhưng hết sức khôn ngoan đường phố. Hai người mải mê đi và trò chuyện thì thình lình một con gấu (grizzly) khổng lồ xuất hiện phía truớc, đứng trên hai chân chờ. Anh sinh viên sợ xanh mặt, run bần bật hỏi “Làm sao? Làm sao bây giờ?” Anh đường phố không trả lời mà ngồi xuống cởi giày ống đi rừng ra, lấy giày bata chạy bộ mang vào. Anh sinh viên thấy vậy hỏi “Bộ mày nghĩ mày chạy nhanh hơn con gấu sao?” Anh đường phố trả lời “Tao không nghĩ tao chạy nhanh hơn con gấu, nhưng tao nghĩ tao chạy nhanh hơn mày”.



Nhưng nếu một người vừa có khôn ngoan đường phố vừa có khôn ngoan học đường thì đó không phải là một người dở và ta không nên đánh giá thấp bản lãnh của anh ta. Hai năm còn lại của một tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ thường được xem là vịt què (lame duck), không thể đưa ra được sáng kiến táo bạo hay làm được những việc gì lớn có ý nghĩa. Điều này đúng, nhất là khi cả hai viện quốc hội đều nằm trong tay của đối lập. Cho nên những gì mà TT Obama chưa thông qua được ở quốc hội, nhất là những vấn đề đối nội như di trú, môi trường… hay đối ngoại như Iran, Do Thái, Syria…

Tuy nhiên, trong vấn đề xoay trục về Châu Á-Thái Bình Dương (CA-TBD) thì hoàn toàn khác, vì nó đã được khởi xướng từ lâu và được cả hai đảng nhiệt tình ủng hộ, cho dù sau TT Obama là tổng thống Dân Chủ hay Cộng Hoà. Đơn giản vì tất cả họ coi thế kỷ 21 (TK21) là thế kỷ của CA-TBD và sự giàu thịnh của Hoa Kỳ trong TK21 là ở vùng này. Phần lớn lịch sử của TK 21 được viết ở vùng CA-TBD.

Chính ông Obama cũng nói là ông không ngần ngại để có những quyết định mạnh mẽ trong hai năm còn lại, như ông đã làm với Cuba, đang làm với Iran, và ngay trong vấn đề gai góc của đối nội là di trú với lệnh hành pháp cho phép hằng triệu người di trú bất hợp pháp được ở lại Hoa Kỳ.

Trong vấn đề xoay trục, rõ ràng ông Obama có hai động lực lớn để làm nhanh, làm mạnh cho nó có kết quả cụ thể khi ông bước xuống cuối năm 2016. Đó là (1) ông cần để lại một điểm son, một chỗ đứng tốt/legacy trong lịch sử Hoa Kỳ, và (2) tạo sự dễ dàng cho tổng thống tiếp nối ông triển khai, mà không phải lo ngại mất phiếu cử tri, rồi tránh né những quyết định khôn ngoan nhưng nhạy cảm.

Nhiều người có khuynh hướng đánh giá thấp bản lãnh của ông Obama, một người có sự khôn ngoan đường phố thuở thiếu thời và được giáo dục Harvard khi vào đại học. Ông có cả hai thứ và đã hạ gục Bin Laden, đã xoay chuyển nền kinh tế Hoa Kỳ, đã giảm mức thất nghiệp, đã khôi phục lại cảm tình của thế giới đối với Hoa Kỳ, đã trừng phạt hiệu quả ông Putin và bây giờ đang rất quan tâm đến vấn đề xoay trục, mà có thể dễ dàng nhận ra là: nhu cầu sử dụng vịnh Cam Ranh và cách giải quyết.



Leon Panetta, cựu bộ trưởng quốc phòng HK đi thăm vịnh Cam Ranh hồi đầu tháng 6 năm 2012 không phải để đi chơi. Sách Trắng Quốc Phòng HK đã nêu rõ chủ trương chiến lược cần chỗ không xây tổ (places not bases) để vừa ít tốn kém vừa tránh những nhạy cảm chính trị với quốc gia sở tại. HK có đội máy bay ném bom B-2 hùng mạnh đồn trú ở Whiteman Airforce Base, tiểu bang Missouri trong nội địa HK nhưng có thể xuất hiện “bất cứ lúc nào” và “bất cứ ở đâu” trên toàn thế giới nên khả năng phóng lực vẫn vậy nhưng nhu cầu căn cứ bên ngoài thì ít nặng nề hơn. Tuy nhiên về hải cảng quân sự, ông Panetta đã nói rõ rằng việc sử dụng được các hải cảng ở Thái Bình Dương là chìa khoá trong chiến lược của HK (reut.rs/19oPhYl).

Người viết từng có dịp sinh hoạt với một viện nghiên cứu về an ninh quốc gia của HK (BENS), khi giao tiếp với các giới chức cao cấp chính trị, quân sự và tình báo, trong câu chuyện riêng tư họ thường nói rằng “HK xem thế giới là một bàn cờ vĩ đại và chúng ta phải di chuyển những quân cờ” và “HK là siêu cường lãnh đạo thế giới, do đó chúng ta phải lo việc lãnh đạo, cho dù có nhiều người không thích”.

Khi HK cần “di chuyển quân cờ” và “lo việc lãnh đạo” ở CA-TBD thì trở lực sẽ bị đẩy sang một bên để dọn đường. Các “quân cờ” cần khôn ngoan để lèo lái con thuyền đất nước của mình tiến nhanh khi gió thuận và biết xoay chuyển khi gió ngược để không làm con tốt thí mà làm con tốt qua sông chiếu tướng.

Phi Luật Tân có vịnh Subic Bay và Việt Nam có vịnh Cam Ranh. Nhìn vào vị trí địa chiến lược của cả hai vịnh trong Biển Đông thì nó hết sức có ưu thế tự nhiên, một vịnh ở bìa đông và một vịnh ở bìa tây, và cả hai đều kiểm soát hai đầu nam/bắc. Cam Ranh là một cảng nước sâu thiên nhiên, nằm cạnh các xa lộ hàng hải huyết mạch và quần đảo Trường Sa. Nó được coi như quân cảng số một của Á Châu, kiểm soát vùng nối hai biển Ấn Độ Dương và TBD. Nó có thể chứa vài trăm hàng không mẫu hạm cùng một lúc và nhiều tàu hạng nặng khác. Sau khi HK rút quân và CS chiếm miền Nam, Nga đã thuê nó năm 1979 với thời hạn 25 năm, nhưng đã rút đi năm 2002, sớm hơn 2 năm.



Ông Robert D. Kaplan trong quyển Chảo Nước Sôi Châu Á (Asia’s Cauldron), trang 62 có dẫn lời ông Ian Storey thuộc Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á ở Singapore rằng: mong muốn kín đáo của VN trong việc tân trang Vịnh Cam Ranh là “để tăng cường quan hệ quốc phòng với HK và tạo dễ dàng cho sự hiện diện quân sự của HK ở Đông Nam Á, như một lực thăng bằng sức mạnh đang lên của TQ”. Ông Kaplan nói, Cam Ranh đóng một vai trò hoàn hảo trong chiến lược cần chỗ không xây tổ của Ngũ Giác Đài, nơi mà máy bay và tàu chiến Mỹ có thể thường xuyên viếng các viễn cảng quân sự của nước bạn để bảo trì và nhận tiếp liệu mà không cần phải có căn cứ quân sự chính thức để bị nhức đầu do nhạy cảm chính trị. Theo ông Kaplan, vịnh Cam Ranh của Việt Nam và Subic của Phi là hai cảng mà HK dùng để thay phiên nhau phục vụ các chiến hạm của HK, có nghĩa là cả hai đều không phải là căn cứ của HK, nhưng cả hai cộng lại làm nên một căn cứ của HK (trang 131).

Trên chiến hạm USNS Richard Byrd, ông Panetta nói rằng HK và VN “có một mối quan hệ phức tạp, nhưng chúng ta không để lịch sử trói buộc. Chúng ta muốn tìm những cách để mở rộng mối quan hệ”, “các tàu hải quân HK được sử dụng cảng này là một phần chủ chốt” của những mối quan hệ HK-VN. Ông Panetta cũng cho rằng những tàu tiếp liệu của HK sử dụng Cam Ranh và các cơ sở sửa chữa thì không chỉ quan trọng về mặt tiếp vận (logistic) mà còn quan trọng về các ý nghĩa (implications) chính trị. Nó sẽ cho phép HK đạt được mục đích ở CA-TBD và đưa quan hệ với VN lên một tầm cao mới (1.usa.gov/1HSb1az).

Nếu đầu tháng Sáu 2012 ông Panetta thăm VN với các tín hiệu như vậy thì chỉ một tháng sau, tức tháng Bảy, VN đáp lễ bằng cách phái Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi Nga và cho ra kết quả là Nga được thiết lập cơ sở sửa chữa hải quân ở Cam Ranh. Trong khi TQ cứ lấn sân ở Biển Đông thì Nga ở thế ngư ông, vừa bán hàng cho VN vừa tạo sự hiện diện dù yếu ớt, chẳng giúp gì về an ninh cho VN cả, vì ngu sao mà giúp khi TQ là một khách hàng ngon ăn hơn.



Tháng 3 năm 2013, Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga Sergei Shoigu Shoigu thăm VN, hối thúc đồng nhiệm Phùng Quang Thanh chấp thuận việc xây nhà nghỉ (resort) 5 sao cạnh Cam Ranh cho lính Nga. GS Carl Thayer nhận xét “Trong khi Nga trên danh nghĩa không lập căn cứ vì do nhạy cảm từ phía VN, nhưng thực tế là họ đang tạo sự hiện diện lâu dài – và sự hiện diện này đòi hỏi máy bay và tàu chiến thuờng xuyên lai vãng” (bit.ly/19oNAKp).

Nga đang trong tiến trình xây dựng hạm đội tàu ngầm Kilo-class cho VN, các chuyên viên Nga cần đóng ở Cam Ranh để huấn luyện đội thuỷ thủ tàu ngầm VN. Có lợi thế này, Nga ép VN nhượng quyền đặc biệt tiếp cận Cam Ranh cho họ, trong khi VN cần Nga hơn là Nga cần VN, một sự cần sai chỗ.

Tháng 11 năm 2014, Việt Nam ký với Nga một thoả ước để Nga dễ dàng sử dụng vịnh Cam Ranh. Theo đó, các chiến hạm Nga chỉ cần thông báo trước khi vào, không hạn chế bao nhiêu lần, trong khi HK và các nước khác chỉ được vào mỗi năm một lần (bit.ly/19oOyGK). Hơn nữa, các chiến hạm Mỹ trong thời gian qua chỉ cập được cảng Đà Nẵng. Sắp xếp này rõ ràng là có vấn đề.

Sự kiện hôm 11 tháng 3 năm 2015, HK công khai lên tiếng rằng VN đã cho Nga sử dụng Cam Ranh để máy bay chở xăng Il-78 tanker tiếp xăng trên không trung cho máy bay bomber chiến lược Tu-95MSBear có khả năng mang bom nguyên tử đe doạ đảo Guam của HK, qua sự xác nhận của tướng Bộ binh TBD Vincent Brooks (bit.ly/1yg8l1B), là giọt nước làm tràn ly. Nó làm cho VN, qua Đại Sứ Phạm Quang Vinh trong hội thảo CSIS hôm 24/3/2015, phải thanh minh thanh nga rằng VN không chủ trương cho một nước nào khác sử dụng các căn cứ quân sự của mình để đe doạ một nước thứ ba. Nhưng rõ ràng VN đã vi phạm cái không thứ ba trong chính sách “3 không” mà tướng Nguyễn Chí Vịnh ra rả rao để xoa bóp TQ. Những ứng xử này đi ngược quyền lợi dân tộc, làm chậm tiến trình và phạm vi cộng tác quốc phòng HK-VN.

BT Quốc Phòng Nga xác nhận đã dùng máy bay Il-78 tankers để tiếp xăng cho Tu-95MS Bear bombers, cất cánh ở căn cứ Trung Đông, từ hồi tháng Giêng năm 2014 và sau đó.

Tướng Vịnh từng nói ủng hộ sự hiện diện của quân đội HK trong vùng miễn là nó đóng góp vào sự hoà bình của khu vực. Vậy mà Nga hiện diện không hoà bình ở Cam Ranh thì được, còn HK hiện diện hoà bình thì không được, tại sao?

TQ trong kín đáo có vẻ hỗ trợ Nga vì có cùng chung mục đích là thách thức vai trò lãnh đạo thế giới của HK. TQ càng vui hơn khi thấy chuyện máy bay Nga làm phức tạp thêm mối quan hệ HK-VN. Từ sai lầm này qua sai lầm khác, CSVN đang cắn cái tay đem thức ăn đến cho mình.

Chuyến đi HK của TBT Nguyễn Phú Trọng vào cuối tháng 5 năm 2015 (sau khi đi TQ vào ngày 17-20 tháng 4) là một chuyến đi không dễ dàng của phe bảo thủ thân TQ, phe này như một sinh vật đang bị đe doạ sắp tuyệt chủng. Bởi vì thân TQ và đi chầu TQ trước để nhận sự chỉ giáo, cho nên Trọng đa phần sẽ không chịu uống rượu mời, không mở Cam Ranh cho HK để làm mất lòng TQ, không dám hạn chế máy bay Nga để làm mất lòng Nga và các hợp đồng mua vũ khí bị trở ngại. Hậu quả trong bang giao là việc HK dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương sẽ không xảy ra, mà chỉ xem xét từng trường hợp một, cùng sự mất trớn trong việc hợp tác quốc phòng HK-VN. Hậu quả trong nội bộ đảng CSVN là phe muốn ngả về HK có thể loại hẳn phe thân TQ trong Đại hội 12, hay gay cấn hơn, là một sự thanh trừng lẫn nhau. Liệu có ai nghĩ rằng khi siêu cường lãnh đạo thế giới cần di chuyển một quân cờ chiến lược thì sẽ làm gì khi bị cản trở hay không? – Không có giải pháp dễ dàng cho CSVN.

Tác giả Mu Lao trên báo TQ Huanqia hôm 17/3/15 viết rằng, Hà Nội đang cầm mồi Cam Ranh lắc qua lắc lại trước mặt hai quyền lực đang thèm chảy nước bọt. Lao cho rằng VN vừa khổ vừa sướng, khổ vì không biết phải giải quyết làm sao với HK, sướng vì dùng vịnh Cam Ranh để mặc cả với Nga và HK. Lao nói rằng TQ cần quan tâm theo sát các động thái của HK và VN trong vấn đề Cam Ranh, dù HK-VN thoả thuận công khai hay kín đáo. Điều này cho thấy phe bảo thủ của ông Trọng không có nhiều khoảng trống chung quanh để xoay trở (bit.ly/1E88R8X).

Việt Nam cần xoay 180 độ việc sử dụng vịnh Cam Ranh trong tương quan Nga và Hoa Kỳ. Nga là quyền lực đang suy, vùng cận Nga và biên cương còn không giữ nổi. Hoa Kỳ vẫn là siêu cường số một trong thế kỷ 21 và đã định hình vị thế giàu mạnh của họ ở CA-TBD, đã chấm Subic Bay và vịnh Cam Ranh chung lại là căn cứ quân sự của họ. Điều này có lợi cho Việt Nam trong việc bảo vệ Biển Đông nói riêng và an ninh đất nước nói chung. Một dân tộc thông minh như Việt Nam không thể cho ra những quyết định sẽ gây bất hạnh cho các thế hệ tương lai nòi giống của mình.

L.M.N



Nguồn:https://anhbasam.wordpress.com/2015/03/30/3664-vinh-cam-ranh-ruou-moi-khong-uong/#more-146528

Tiếp tục đình công lớn ở Tp HCM




Hàng ngàn công nhân tiếp tục tuần hành trong khuôn viên của Công ty PouYuen (Khu công nghiệp Tân Tạo, phường Tân Tạo, quận Bình Tân) sang tới ngày thứ năm để phản đối luật bảo hiểm xã hội.

Trước đó báo chí trong nước đưa tin “gần 90.000” công nhân công ty TNHH PouYuen Việt Nam, một công ty 100% vốn nước ngoài của Đài Loan, đã đình công trong hai ngày 26 và 27/3 để phản đối các quy định tại điều 60, Luật Bảo hiểm Xã hội (BHXH) 2014 về việc không cho người tham gia BHXH được hưởng BHXH một lần ngay sau nghỉ việc như trước đây.

Theo luật này công nhân sẽ phải đợi đến tuổi nghỉ hưu, tức nam giới là khi 60 tuổi và phụ nữ là 55 tuổi, mới được nhận trợ cấp.

Được biết sáng 30/3, các công nhân vẫn tới công ty nhưng không làm việc và sau đó đại diện ngành lao động quận Bình Tân cũng đã tới gặp gỡ, giải thích nhưng không được công nhân chấp nhận.

Báo Lao Động, Cơ quan của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đưa tin công nhân sau khi tổ chức tuần hành ngay trong khuôn viên Cty PouYuen đã kéo ra trước cửa công ty khu vực cầu vượt trên quốc lộ 1A để tiếp tục tuần hành, do vậy gây tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng tại đây.

Hình ảnh trên mạng cho thấy cảnh sát giao thông và cơ động đã được điều động tới để giữ trật tự nhưng cho tới trưa công nhân vẫn tiếp tục tuần hành trên các tuyến phố này.

Tại cuộc họp báo chiều thứ Hai, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, ông Doãn Mậu Diệp, được tờ VnExpress trích dẫn nói mục đích việc thay đổi Luật Bảo hiểm xã hội là nhằm khuyến khích người lao động tích lũy, bảo vệ quyền lợi cho người lao động trước mắt và lâu dài.

Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp cũng kêu gọi công nhân trở lại làm việc vì luật chưa có hiệu lực ngay. Vẫn theo tờ VnExpress thì lãnh đạo UBND TP HCM nay đang làm việc với Công ty Pouyuen để tổ chức buổi làm việc giữa Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp với công nhân của công ty.

Trước tình hình công nhân đình công như vậy, báo Lao động đã cho đăng tải một thông báo của Bảo hiểm xã hội Thành phố, công văn số 996/CV-BHXH gửi UBND quận Bình Tân với mục đích giải thích chính sách cho công nhân.

Công văn này được báo Lao động trích dẫn nêu rõ: “Luật BHXH có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2016, từ nay cho đến hết ngày 31.12.2015 cơ quan BHXH vẫn thực hiện giải quyết các chính sách như trước đây".

Được biết Luật này được Quốc hội Việt Nam thông qua hồi cuối năm ngoái.

Một công nhân được trang VTC trích dẫn nói: “Tôi làm việc được 9 năm, năm nay tôi được 35 tuổi, tôi muốn nhận bảo hiểm xã hội một lần sau khi thôi việc, chứ tôi không thể chờ đợi đến khi già 55 tuổi, khi đó có biết tôi còn sống nữa hay không".

Trong khi đó, báo Pháp luật TP. HCM ước tính số người đình công là 83.000.


Nguồn:http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2015/03/150330_workers_strike_insurance_update

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Ngày tàn của Trung Quốc đang đến


David Sambaugh

Người dịch: Huỳnh Phan

***

Lời giới thiệu của ông David Brown

Bài phân tích của GS David Shambaugh đăng ngày 6 tháng 3 trên báo Wall Street Journal, một tờ báo lớn của Mỹ, quan trọng không chỉ về nội dung của nó mà còn ở chỗ tác giả là một ‘ngôi sao nhạc rock’ trong số các học giả Trung Quốc. Được biết, một cuộc thăm dò của các học giả Trung Quốc đánh giá Shambaugh là một chuyên gia nước ngoài về Trung Quốc có tầm ảnh hưởng nhất, được xếp vào hàng thứ hai.

Chuyên ngành của GS Shambaugh là chính sách đối ngoại của Trung Quốc và các vấn đề chính trị nội bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông là người tư vấn thường xuyên cho Bộ Ngoại giao Mỹ và một tác giả có nhiều bài viết.

Tiến sĩ Shambaugh lưu ý rằng các học giả Trung Quốc khác đã từng tiên đoán sự sụp đổ của ĐCS TQ, nhưng điều đó đã không xảy ra, ít nhất là chưa xảy ra. Vì sao bây giờ ông lại nhảy vào chủ đề ‘sự sụp đổ của Trung Quốc’? Rõ ràng là Shambaugh xem sự cải cách chính trị hạn chế của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào là những bước xây dựng có thể giúp “hệ thống này mở ra”. Shambaugh lập luận rằng, bây giờ Tập Cận Bình đã bác bỏ những cải cách và kết quả đó, điều này chỉ có thể dẫn tới sự sụp đổ – có thể rất là hỗn độn – của chế độ Cộng sản Trung Quốc.



***

Ngày tàn của chế độ cộng sản ở Trung Quốc đã bắt đầu, và các biện pháp tàn nhẫn của Tập Cận Bình chỉ đưa nước này tới đổ vỡ sớm hơn


Hôm thứ Năm, Quốc hội Trung Quốc họp tại Bắc Kinh theo nghi thức đã trở nên quen thuộc hàng năm. Khoảng 3.000 đại biểu “được bầu” từ khắp nơi trên đất nước – từ nhóm sắc tộc ít người, ăn mặc sặc sỡ, cho đến các tỉ phú trang nhã – sẽ họp một tuần để thảo luận về tình trạng đất nước và tham gia vào việc làm chính trị giả vờ.

Một số người coi việc tụ tập đầy ấn tượng này là một dấu hiệu về sức mạnh của hệ thống chính trị Trung Quốc – nhưng nó che đậy nhiều điểm yếu nghiêm trọng. Chính trị Trung Quốc luôn khoác vỏ bọc màu mè, với các sự kiện được trình diễn như hội nghị nhằm phô trương uy quyền và sự ổn định của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quan chức cũng như công dân đều biết rằng họ buộc phải tuân theo những nghi thức này, vui vẻ tham gia và lặp lại như vẹt các khẩu hiệu chính thức. Hành vi này trong tiếng Trung được gọi là biaotai (表态: biểu thái), “biểu lộ thái độ/ lập trường”, nhưng nó chỉ hơn hành động tuân theo hình thức một ít.

Mặc dù vẻ bề ngoài, hệ thống chính trị của Trung Quốc đang đổ vỡ tệ hại, và không ai biết điều đó rõ hơn chính Đảng Cộng sản. Người đầy quyền lực của Trung Quốc, Tập Cận Bình, đang hy vọng rằng, việc truy dẹp bất đồng chính kiến và tham nhũng sẽ củng cố sự cai trị của đảng. Ông cương quyết tránh trở thành một Mikhail Gorbachev của Trung Quốc, ngồi điều khiển sự sụp đổ của đảng. Nhưng thay vì là phản đề của Gorbachev, Tập Cận Bình rốt cuộc có thể đi tới cùng hậu quả. Sự chuyên quyền của ông đang đè nén nghiêm trọng hệ thống và xã hội Trung Quốc – và đưa nó tới gần chỗ đổ vỡ hơn.

Dự đoán sự sụp đổ của các chế độ độc tài là một việc đầy rủi ro. Vài chuyên gia phương Tây dự đoán sự sụp đổ của Liên bang Xô viết trước khi nó xảy ra vào năm 1991; CIA hoàn toàn bỏ qua điều đó. Hai năm trước khi nó xảy ra, việc sụp đổ của các nước cộng sản Đông Âu bị miệt thị là mơ tưởng của những người chống Cộng. Các cuộc “cách mạng màu” hậu Xô Viết ở Georgia, Ukraine và Kyrgyzstan từ 2003 đến 2005, cũng như các cuộc nổi dậy mùa xuân Ả Rập năm 2011, đều nổ ra ngoài dự đoán.

Các nhà quan sát tình hình Trung Quốc đã cảnh giác cao đối với những dấu hiệu mục ruỗng và xuống dốc của chế độ từ trải nghiệm kề miệng hố của chế độ tại quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989. Kể từ đó, nhiều nhà Trung Hoa học dày dạn đã đánh cược uy tín nghề nghiệp qua việc khẳng định rằng sự sụp đổ quyền cai trị của ĐCSTQ là không thể tránh khỏi. Những người khác thì thận trọng hơn, trong đó có tôi. Nhưng thời thế ở Trung Quốc thay đổi nên phân tích của chúng ta cũng phải thay đổi theo.

Tôi tin rằng ngày tàn của chế độ cộng sản Trung Quốc đã bắt đầu, và điều đó đã diễn tiến xa hơn nhiều người nghĩ. Tất nhiên chúng ta không biết con đường từ nay cho đến lúc kết thúc sẽ như thế nào. Có lẽ sẽ hết sức bất ổn và lộn xộn. Nhưng cho đến khi hệ thống bắt đầu rã ra theo cách rõ rệt nào đó thì những yếu tố bên trong sẽ diễn trò theo – do đó cùng góp phần làm bộ mặt ổn định.

Việc cai tri của cộng sản ở Trung Quốc khó có vẻ sẽ kết thúc thầm lặng. Một sự kiện đơn lẻ khó có khả năng kích thích làm nổ tan chế độ một cách hoà bình. Sự sụp đổ của nó có khả năng sẽ kéo dài, lộn xộn và bạo lực. Tôi không loại trừ khả năng Tập Cận Bình sẽ bị lật đổ trong một cuộc đấu tranh quyền lực hoặc đảo chính. Với chiến dịch chống tham nhũng hùng hổ – trọng tâm của Quốc hội trong tuần này – ông đang dùng sở đoản của mình quá mức, gây hoang mang cho các cử tri đảng, nhà nước, quân sự và thương mại then chốt.

Người Trung Quốc có một câu tục ngữ, waiying, neiruan (外硬内软: ngoại ngạnh, nội nhuyễn, tức ‘cứng bề ngoài, mềm bên trong’). Tập Cận Bình là một nhà cai trị thực sự cứng rắn, lộ rõ sự tự tin và thuyết phục. Nhưng nhân cách cứng rắn này là biểu hiện trái ngược bề ngoài của hệ thống đảng và chính trị vốn vô cùng mong manh bên trong.

Hãy xét năm chỉ dấu phô lộ về các chỗ nhược của chế độ và những yếu kém mang tính hệ thống của đảng.

Thứ nhất, giới chủ chốt kinh tế của Trung Quốc có một chân thò ra ngoài, và họ sẵn sàng bỏ đi hàng loạt nếu hệ thống thực sự bắt đầu sụp đổ. Năm 2014, Viện nghiên cứu Hồ Nhuận (Hurun), Thượng Hải chuyên nghiên cứu về giới giàu có Trung Quốc, phát hiện ra rằng 64% các “cá nhân có lợi tức ròng cao” mà họ thăm dò – 393 triệu phú và tỉ phú – thì hoặc đang di cư hoặc đang có kế hoạch di cư. Giới nhà giàu Trung Quốc gửi con đi du học với con số kỷ lục (bản thân điều này là một cáo trạng về chất lượng của hệ thống giáo dục đại học Trung Quốc).

Tạp chí này tường thuật ngay trong tuần này rằng các nhân viên liên bang đã lục soát nhiều địa điểm ở Nam California mà chính quyền Mỹ cho là có liên hệ tới “hoạt động kinh doanh du lịch sinh con trị giá nhiều triệu đô la đã đưa hàng ngàn phụ nữ Trung Quốc sang đây du lịch rồi trở về với con vừa mới sinh là công dân Hoa Kỳ”. Giới giàu có Trung Quốc cũng đang mua bất động sản ở nước ngoài ở mức độ và giá cả kỷ lục, và họ cũng đang chuyển tài sản ra nước ngoài, thường ở những nơi dễ trốn thuế và các công ty vỏ bọc.

Trong khi đó, Bắc Kinh đang cố tìm cách giải về nước một số lượng lớn những kẻ trốn chạy đem tiền ra sống ở nước ngoài. Khi giới ưu tú của một đất nước – trong đó nhiều người là đảng viên – trốn chạy với số lượng lớn như vậy, đó là một dấu hiệu rõ ràng của sự thiếu niềm tin vào chế độ và tương lai của đất nước.

Thứ hai, từ khi nắm quyền vào năm 2012, Tập Cận Bình đã tăng cường mạnh mẽ đàn áp chính trị vốn bao trùm khắp Trung Quốc từ năm 2009. Mục tiêu nhắm vào bao gồm báo chí, truyền thông xã hội, phim ảnh, nghệ thuật và văn học, các nhóm tôn giáo, Internet, trí thức, người Tây Tạng và người Duy Ngô Nhĩ, bất đồng chính kiến, luật sư, tổ chức phi chính phủ, sinh viên đại học và sách giáo khoa. Ban Chấp Hành Trung Ương đã ra một chỉ thị hà khắc đưa xuống cấp dưới vào năm 2013 gọi là văn bản số 9, yêu cầu tất cả các đơn vị phải tìm ra mọi biểu hiện có vẻ tán đồng “các giá trị phổ quát” của phương Tây – gồm dân chủ lập hiến, xã hội dân sự, tự do báo chí và kinh tế tân tự do.

Một chính phủ vững vàng và tự tin sẽ không tiến hành đàn áp khốc liệt như vậy. Đó là triệu chứng lo âu và bất an sâu đậm của lãnh đạo đảng.

Thứ ba, ngay cả nhiều người trung thành với chế độ cũng chỉ hành động xu thời. Thật khó có thể bỏ qua những biểu hiện diễn kịch giả tạo đã thấm đẩm khắp bộ máy chính trị Trung Quốc trong vài năm qua. Mùa hè năm ngoái, tôi là một trong số ít người nước ngoài (và là người Mỹ duy nhất) tham dự hội thảo về “Giấc mơ Trung Quốc”, một ý tưởng mang dấu ấn của Tập Cận Bình, tại một nhóm nghiên cứu trực thuộc đảng CS ở Bắc Kinh. Chúng tôi ngồi suốt hai ngày mệt óc, nghe hơn hai chục diễn giả đảng trình bày liên tục – nhưng mặt họ lạnh lùng vô cảm, ngôn ngữ điệu bộ khô cứng, và nỗi chán nản của họ hiển hiện. Họ giả vờ tuân thủ theo đảng và các câu thần chú mới nhất của lãnh đạo đảng. Nhưng rõ ràng là công tác tuyên truyền đã mất đi sức mạnh, và hoàng đế chẳng có quần áo trên người.

Tháng 12, tôi trở lại Bắc Kinh dự hội nghị tại trường Đảng Trung Ương, cơ quan cao nhất lo việc dạy dỗ chủ thuyết của đảng, và một lần nữa, các quan chức chóp bu và chuyên gia chính sách đối ngoại lại đọc thuộc lòng các khẩu hiệu đúng từng lời. Trong giờ ăn trưa một ngày nọ, tôi đến gian hàng sách của trường – luôn luôn là một điểm dừng quan trọng để tôi có thể tự cập nhật những thứ cán bộ lãnh đạo Trung Quốc đang được dạy. Những tập sách trên các kệ của cửa hàng từ “tuyển tập” của Lenin đến hồi ký của Condoleezza Rice, và một cái bàn ở lối vào chất đầy các cuốn sách nhỏ của Tập Cận Bình về chiến dịch đề cao “đường lối quần chúng” của ông – tức về liên hệ giữa đảng với quần chúng. Tôi hỏi nhân viên bán hàng: “Sách này bán thế nào?” Cô trả lời. “Ô, không. Chúng tôi chỉ biếu không”. Chồng sách cao nghệu cho thấy nó khó có thể là sách đắt hàng.

Thứ tư, tệ tham nhũng lan tràn trong nhà nước độc đảng và quân đội cũng thâm nhập vào toàn xã hội Trung Quốc nói chung. Chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình dai dẳng và khốc liệt hơn so với các chiến dịch trước đó, nhưng không có chiến dịch nào có thể khử hết được vấn nạn này. Nó có cội rể sâu trong hệ thống độc đảng, mạng lưới đỡ đầu – đàn em, nền kinh tế hoàn toàn thiếu minh bạch, phương tiện truyền thông nhà nước kiểm soát và sự thiếu vắng của nhà nước pháp quyền.

Hơn nữa, chiến dịch của Tập Cận Bình ít nhất đang biến thành một cuộc thanh trừng chọn lọc không kém gì một chiến dịch bài trừ tham nhũng. Nhiều người trong số các mục tiêu nó nhắm tới cho đến nay là các tay em và các đồng minh chính trị của cựu lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân. Hiện 88 tuổi, ông ta vẫn là một thế lực bảo trợ chính trị ở Trung Quốc. Truy theo mạng lưới bảo trợ của Giang Trạch Dân khi ông vẫn còn đang sống là điều rất nguy hiểm cho Tập Cận Bình, đặc biệt là vì ông có vẻ chưa tập hợp được phe nhóm dưới tay trung thành khi lên vị trí cầm quyền. Một vấn đề khác nữa là Tập Cận Bình, con của thế hệ cách mạng chủ chốt đầu tiên của Trung Quốc, là một trong những “thái tử đảng”, nên các mối quan hệ chính trị của ông chủ yếu chỉ mở rộng đến các thái tử đảng khác. Thế hệ hưởng lộc (silver spoon) này đang bị chửi rủa cùng khắp trong xã hội Trung Quốc.

Cuối cùng, nền kinh tế của Trung Quốc – theo các quan điểm phương Tây, như là một lực kéo áp đảo (juggernaut) không dừng được, bị mắc kẹt trong một loạt các bẫy hệ thống không có lối thoát dễ dàng. Tháng 11 năm 2013, Tập Cận Bình chủ trì Hội Nghị Trung Ương 3 của đảng, công bố một gói đồ sộ các đề xuất cải cách kinh tế, nhưng cho đến nay, vẫn còn trên bệ phóng. Vâng, chi cho tiêu dùng có tăng lên, tệ lót tay cửa quyền có giảm xuống, và một số cải cách tài chính đã được đưa vào, nhưng trên tổng thể, các mục tiêu đầy tham vọng của Tập Cận Bình đã chết yểu. Gói cải cách này thách thức các nhóm lợi ích đầy quyền lực có gốc rể sâu xa trong hệ thống – như các doanh nghiệp nhà nước và các cán bộ đảng địa phương – và họ đang thẳng thừng ngăn chặn việc thực hiện nó.

Năm vết nứt ngày càng hiện rõ này trong việc kiểm soát chế độ chỉ có thể chỉnh sửa thông qua cải cách chính trị. Cho đến khi và trừ khi có sự nới lỏng kiểm soát chính trị hà khắc, Trung Quốc sẽ không bao giờ trở thành một xã hội sáng tạo và một “nền kinh tế tri thức” – một mục tiêu chính của các cải cách của Hội Nghị 3. Hệ thống chính trị đã trở thành những trở ngại chính cho các cải cách kinh tế và xã hội cần thiết của Trung Quốc. Nếu Tập Cận Bình và các lãnh đạo đảng không nới lỏng quyền kiểm soát thì họ có thể phải đối mặt với kết cục định sẵn mà họ muốn tránh.

Trong nhiều thập niên kể từ khi Liên Xô sụp đổ, giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc luôn bị ám ảnh về sự sụp đổ của nước cộng sản anh em khổng lồ này. Hàng trăm phân tích hậu nghiệm ở Trung Quốc đã mổ xẻ những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của Liên Xô.

“Giấc mơ Trung Quốc” thực của Tập Cận Bình phải tránh cơn ác mộng Liên Xô. Chỉ một vài tháng lên cầm quyền, ông ta đã đưa ra một bài phát biểu nội bộ dè biểu sự sụp đổ của Liên Xô và than phiền Gorbachev phản bội, cho rằng Moscow đã thiếu một “người đàn ông đích thực” dám đứng lên chống lại nhà lãnh đạo cải cách cuối cùng. Làn sóng đàn áp hiện nay của Tập Cận Bình làm điều trái ngược với perestroika (cải tổ) và glasnost (cởi mở) của Gorbachev. Thay vì cởi mở, Tập Cận Bình lại tăng sự kiểm soát đối với bất đồng chính kiến, nền kinh tế và thậm chí cả các đối thủ trong đảng lên gấp đôi.

Nhưng phản ứng lại và đàn áp không phải là lựa chọn duy nhất của Tập Cận Bình. Các tiền nhiệm của ông, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, đã rút ra những bài học rất khác từ sự sụp đổ của Liên Xô. Từ năm 2000 đến năm 2008, hai ông đã thể chế hoá nhiều chính sách nhằm mở cửa hệ thống với các cải cách chính trị có giới hạn một cách cẩn thận.

Hai ông đã tăng cường các cấp uỷ đảng địa phương và thử nghiệm việc bầu bí thư với nhiều ứng cử viên. Hai ông thu nhận vào đảng nhiều doanh nhân và trí thức. Hai ông đã mở rộng tham vấn với các nhóm ngoài đảng và làm cho các thủ tục làm việc của Bộ Chính trị minh bạch hơn. Hai ông đã cải thiện cơ chế phản hồi trong đảng, áp dụng tiêu chí tài đức nhiều hơn cho việc đánh giá và đề bạt, và tạo ra hệ thống bồi dưỡng nghiệp vụ bắt buộc cho toàn bộ 45 triệu cán bộ đảng và nhà nước. Cả hai đã đưa vào thực hiện các đòi hỏi về hưu trí và luân chuyển công tác của cán bộ, sĩ quan cứ mỗi vài năm.

Trên thực tế, trong một quảng thời gian Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đã tìm cách quản lý sự thay đổi chứ không phải chống lại nó. Tuy nhiên, Tập Cận Bình không thích điều nào trong số này. Từ năm 2009 (khi mà ngay cả Hồ Cẩm Đào trước đây cởi mở cũng đã chuyển hướng và bắt đầu kiểm soát chặt chẽ), chế độ ngày càng bất an đã rút lại tất cả những cải cách chính trị (trừ hệ thống huấn luyện cán bộ). Những cải cách này do cánh tay chính trị đắc lực của Giang Trạch Dân, cựu phó chủ tịch Tăng Khánh Hồng đạo diễn, là người đã nghỉ hưu vào năm 2008 và hiện đang bị nghi ngờ trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập – thêm một dấu hiệu về sự thù địch của Tập Cận Bình với các biện pháp có thể làm dịu những căn bệnh của hệ thống đang phân rã.

Một số chuyên gia cho rằng chiến thuật hà khắc của Tập Cận Bình thực ra có thể báo trước một hướng cởi mở hơn và cải cách về sau trong nhiệm kỳ của ông. Tôi không đồng tình điều này. Nhà lãnh đạo và chế độ này xem chính trị như cuộc chơi có tổng zero: Theo quan điểm của họ, nới lỏng kiểm soát chắc chắn là một bước hướng tới sự huỷ diệt của hệ thống và sự sụp đổ của chính họ. Họ cũng có cách nhìn theo thuyết âm mưu rằng Hoa Kỳ đang tích cực hành động để lật đổ Đảng Cộng sản [Trung Quốc]. Không có điều nào trong gợi mở này cho thấy rằng các cải cách sâu rộng sắp quay trở lại.

Chúng ta không thể dự đoán Cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ lúc nào, nhưng không khó để kết luận rằng chúng ta đang chứng kiến giai đoạn cuối cùng của nó. ĐCSTQ là chế độ cầm quyền lâu thứ hai trên thế giới (chỉ sau Bắc Triều Tiên), và không có một đảng nào có thể thống trị mãi mãi.

Nhìn về phía trước, các nhà theo dõi Trung Quốc nên để mắt vào các công cụ kiểm soát của chế độ và vào những người được phân công sử dụng những công cụ này. Một số lượng lớn các công dân lẫn đảng viên đã bỏ phiếu bằng chân rời bỏ đất nước hoặc thể hiện sự thiếu thành thật bằng cách giả vờ tuân theo mệnh lệnh của đảng.

Chúng ta cần quan sát ngày mà các nhân viên tuyên truyền và bộ máy an ninh nội bộ của chế độ bắt đầu trở nên lỏng lẻo trong việc thực thi mệnh lệnh của đảng – hoặc khi họ bắt đầu đồng nhất mình với bất đồng chính kiến, như nhân viên Stasi (an ninh) của Đông Đức trong phim “The Lives of Others”(Mãnh đời của nhưng kẻ khác), anh đã thông cảm với các đối tượng bị theo dõi. Khi sự đồng cảm của con người bắt đầu chiến thắng bộ máy cầm quyền cứng nhắc thì ngày tàn của cộng sản Trung Quốc sẽ thực sự bắt đầu.

Tác giả: TS Shambaugh là giáo sư về các vấn đề quốc tế và là giám đốc Chương Trình Chính Sách Trung Quốc tại Đại Học George Washington, cộng tác viên cao cấp tại Viện Brookings. Sách của ông gồm có “China’s Communist Party: Atrophy and Adaptation” (ĐCS Trung Quốc: hao mòn và thích ứng”), và gần đây nhất, “China Goes Global: The Partial Power.” (Trung Quốc vươn lên toàn cầu: một thế lực cục bộ).

Nguồn bản gốc: WSJ :http://www.wsj.com/articles/the-coming-chinese-crack-up-1425659198



Nguồn:https://anhbasam.wordpress.com/2015/03/28/3659-ngay-tan-cua-trung-quoc-dang-den/

SÂN BAY TÂN SƠN NHẤT: SỰ THẬT VỀ CÂU CHUYỆN “TẮC NGHẼN BẦU TRỜI”, “CHỒNG LẤN VÙNG TRỜI”, VÀ “KHU VỰC CẤM BAY CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH”



TS Nguyễn Bách Phúc (*)

Một lý do “nặng ký” mà Bộ Giao thông Vận tải đưa ra cho Dự án xây dựng sân bay Long Thành là “lỗi” của sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất, “việc mở rộng nâng công suất cảng hàng không này để đáp ứng nhu cầu 40-50 triệu hành khách/năm trong giai đoạn 2025-2030 là không khả thi”. Minh chứng điều này, Bộ đã đưa ra 4 cái lỗi.

Bài này xin bình luận lỗi thứ 2.

Về lỗi thứ 2, Bộ nói: “Hạn chế về khai thác vùng trời: Khu vực vùng trời tiếp cận dành cho tàu bay cất hạ cánh của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất hiện tại chồng lấn với vùng trời tiếp cận của căn cứ không quân Biên Hòa ở phía Bắc. Mặt khác, khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh nằm ngay phía Nam của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất nên đã hạn chế rất nhiều không gian sử dụng cho tàu bay cất hạ cất cánh, đặc biệt khi có hoạt động bay quân sự tại khu vực Tân Sơn Nhất và Biên Hòa.


Thứ trưởng GTVT Phạm Quý Tiêu phát biểu tại tọa đàm về dự án đầu tư sân bay Long Thành, do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 17/10. Thứ trưởng Phạm Quý Tiêu khẳng định lại việc cần thiết phải đầu tư xây dựng sân bay Long Thành, bởi Tân Sơn Nhất đã quá tải: “Sân bay Tân Sơn Nhất tắc nghẽn bầu trời, trong nhiều năm không quản lý được tĩnh không sân bay”.

Câu chuyện “TSN bị tắc nghẽn bầu trời”

Nghe Bộ GTVT nói TSN “tắc nghẽn bầu trời”, chắc mọi người hình dung ra cảnh tượng cả đàn máy bay ùn tắc chen lấn nhau trước lối vào TSN, giống như xe Honda chen chúc trước đèn đỏ, giành nhau từng centimet đường!

Hàng trăm sân bay trên thế giới, số lượng hành khách (HK) nhiều hơn TSN, 80-100 triệu HK/năm, tần suất cất hạ cánh lên đến 60 chuyến/giờ hoặc hơn, đều không hề có khái niệm tắc nghẽn bầu trời, tại sao chỉ có bầu trời TSN bị tắc nghẽn khi tăng hơn 20 triệu HK/năm?

Thử tính xem mức độ tắc nghẽn của TSN như thế nào, liệu có bao nhiêu máy bay chen lấn nhau, chúng giành nhau bao nhiêu centimet không gian:

+ Tần suất lớn nhất hiện nay của TSN, theo Cục trưởng Cục Hàng không VN là 29 chuyến/giờ.

Với tần suất này, TSN có thể đưa đón tới 80 triệu hành khách/năm, chứ không phải chỉ hơn 20 triệu (tham khảo bài “Có thể nâng Tân Sơn Nhất lên 80 triệu hành khách/năm, không cần giải phóng mặt bằng di dời dân cư, với tổng vốn đầu tư chỉ khoảng 3 tỷ USD).

+ Với tần suất 29 chuyến/giờ này thì số chuyến máy bay xếp hàng để cất cánh hoặc hạ cánh trong 1 giờ là: 29/2 = 14,5 chuyến.

+ Thời gian dãn cách giữa hai chuyến máy bay kế tiếp nhau là 1/14,5 = 0,07 giờ

+Máy bay dân dụng hiện nay khi cất cánh hoặc hạ cánh thường bay với tốc độ 250 km/giờ.

+ Tính ra cự li xếp hàng dọc giữa hai máy bay kế tiếp nhau là (250 km/giờ) x (0,07 giờ) = 17,5 km.

Hóa ra máy bay xếp hàng dọc trước cửa TSN, khi lên xuống cấp tập nhất, 2 chiếc liên tiếp nhau vẫn cách nhau hơn 17 km, chứ không phải mấy centimet như honda trước đèn đỏ, sao lại gọi là tắc nghẽn bầu trời?

Câu chuyện “chồng lấn vùng trời với sân bay Quân sự Biên Hòa”
TSN và Biên Hòa nằm cạnh nhau hơn nửa thế kỷ nay, chưa nghe ai nói “chồng lấn vùng trời”, kể cả những năm chiến tranh ác liệt, máy bay lên xuống “nhiều như chuồn chuồn”, cớ sao hôm nay lại đẻ ra việc “chồng lấn vùng trời”?
TSN cách Biên Hòa 25 km, trong khi sân bay Changi của Singapore chỉ cách sân bay quân sự Paya Lebar 8 km, nhưng không ai nói sân bay Changi của Singapore chồng lấn với sân bay quân sự Paya Lebar, cớ sao lại nói TSN chồng lấn với Biên Hòa?
Vùng trời tiếp cận cất hạ cánh, là vùng trời tiếp giáp với đường băng sân bay, với chiều dài 40 dặm (khoảng 72 km), chiều rộng khoảng 9 km, chiều cao dưới 3000 mét, là vùng trời được quốc tế quy định giao cho Trạm kiểm soát APP điều khiển không lưu, tức là APP hoàn toàn chịu trách nhiệm điều khiển các máy bay chuẩn bị hạ cánh hoặc sau khi cất cánh. Như vậy “Vùng trời tiếp cận cất hạ cánh” thực chất chỉ là một vùng quy ước, là vùng được kiểm soát chặt chẽ bởi APP chứ không phải là vùng cấm máy bay qua lại.

Ở Việt Nam có 3 Trạm APP, trong đó Trạm APP ở miền Nam, kiểm soát vùng trời tiếp cận của tất cả sân bay ở miền Nam. Hai sân bay ở gần nhau đều được một Trạm APP kiểm soát, nếu vùng tiếp cận có chồng lấn lên nhau đi nữa thì vẫn do cùng một Trạm APP kiểm soát, nên sẽ không có bất cứ phiền toái nào.

Ngoài ra, vùng trời tiếp cận của TSN nằm giữa 2 vùng trời tiếp cận của sân bay Biên Hòa và của sân bay Long Thành, khoảng cách từ vùng trời tiếp cận của TSN đến vùng trời tiếp cận của Long Thành gần hơn của Biên Hòa, cớ sao Bộ GTVT chỉ nói TSN và Biên Hòa chồng lấn, mà bỏ qua chồng lấn giữa TSN hiện hữu và Long Thành tương lai? Nếu sự chồng lấn này là thực sự nguy hiểm thì cớ sao Bộ lại chấp nhận sự nguy hiểm đó khi quyết định xây dựng sân bay Long Thành?

Câu chuyện “khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh

Khi nghe Bộ GTVT nói như vậy, ai cũng ngỡ ngàng không biết khu vực cấm bay của TP.HCM là khu vực nào, rộng hẹp bao nhiêu, cấp nào ra quyết định cấm bay, cấm bay vì mục đích gì?

Chúng tôi may mắn được Cụ Lê Trọng Sành, nguyên Trưởng phòng Quản lý bay sân bay TSN giải thích cho như sau: Khi hạ cánh, những máy bay cỡ nhỏ với sức tự hãm trên đường băng tương đối kém nên Trạm APP phải “lựa theo chiều gió” để chọn cho những máy bay này hướng hạ cánh sao cho ngược với chiều gió. Chẳng hạn ở TSN máy bay thường xuyên hạ cánh theo chiều từ Đông sang Tây, nhưng đôi khi các máy bay nhỏ phải bay vòng vượt qua sân bay TSN rồi quay ngược lại để hạ cánh theo hướng từ Tây sang Đông. Với những máy bay nhỏ, vòng lượn này thường nhỏ, đoạn song song với đường băng thường cách đường băng 5 đến 7 km, sau khi máy bay vượt quá đường băng chừng 10 km thì sẽ quay vòng lại để hạ cánh. Vùng mặt đất được giới hạn bởi đường quay vòng hạ cánh tạm gọi là Vùng quay vòng hạ cánh.

Thông thường Vùng quay vòng hạ cánh nằm hai phía của sân bay. Với sân bay TSN là vùng phía Bắc và phía Nam, hiện tại vùng đất kế cận đường băng ở phía Nam là khu vực có rất nhiều nguy cơ cháy nổ, như kho chứa xăng máy bay, bãi đậu của hầu hết các loại máy bay, bãi đậu của máy bay trực thăng, đều là vùng nguy hiểm cháy nổ, nếu máy bay khi quay vòng bay trên vùng này có thể xuất hiện nguy cơ cháy nổ khi không may gặp sự cố. Vì vậy cơ quan Quản lý Hàng không VN quy định Vùng quay vòng hạ cánh phía Nam TSN là vùng cấm bay.

Như vậy, Bộ GTVT gọi vùng cấm bay này là “Vùng cấm bay của TP.HCM” là hoàn toàn không đúng, bởi vì TP.HCM không có vùng cấm bay nào cả!

Nhưng điều quan trọng nhất là, vùng cấm bay này không ảnh hưởng gì đến mật độ và lưu lượng lên xuống của máy bay ở sân bay TSN, không ảnh hưởng gì đến công suất của TSN, bởi một lẽ đơn giản rằng TSN vẫn còn vùng quay vòng ở phía Bắc không bị cấm, và giả sử một lúc nào đó, vùng quay vòng ở phía Bắc quá chật chội thì APP vẫn có thể cho phép máy bay quay vòng về phía Nam, chỉ cần nằm ngoài phạm vi cấm bay, tức là cách xa đường băng trên 7 km.

Thật tình chúng tôi không thể nào hiểu nổi, tại sao Bộ GTVT lại trình Quốc hội rằng “khu vực cấm bay của thành phố Hồ Chí Minh nằm ngay phía Nam của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất nên đã hạn chế rất nhiều không gian sử dụng cho tàu bay cất hạ cất cánh”?

N.B.P.

(*) Tác giả: TS Nguyễn Bách Phúc là Chủ tịch Hội Tư vấn Khoa học công nghệ & Quản lý TP.HCMHASCON và là Viện trưởng Viện Điện – Điện tử – Tin học EEI



Nguồn: http://basam.info/2015/03/26/3650-san-bay-tan-son-nhat-su-that-ve-cau-chuyen-tac-nghen-bau-troi-chong-lan-vung-troi-va-khu-vuc-cam-bay-cua-thanh-pho-ho-chi-minh/

Dự án bôxit: TKV đã “sập bẫy giá rẻ”



TT - Ngày 28-3, tại buổi tọa đàm về dự án bôxit, nhiều chuyên gia đã khẳng định Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản VN (TKV) đã “sập bẫy” giá rẻ, nhưng càng làm càng thua lỗ nặng.



Các bồn chưng cất khổng lồ tại tổ hợp bôxit - nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng) phục vụ ươm mầm hydrat điều chế alumin từ quặng bôxit - Ảnh: Mai Vinh

Buổi tọa đàm do Trung tâm Thiên nhiên và con người (thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật VN) tổ chức dựa trên các thông tin mới về triển vọng các dự án bôxit vừa được TKV đưa ra.

Càng sản xuất càng lỗ!
Qua đánh giá từ những số liệu do chính TKV cung cấp, TS Nguyễn Thành Sơn, nguyên giám đốc Ban quản lý dự án than đồng bằng sông Hồng, khẳng định TKV đã “sập bẫy giá rẻ”, dù vẫn cần cập nhật thêm tình hình và có đánh giá thực tế.

Cụ thể, theo phụ lục trong hợp đồng EPC số 1/TKV-CHALIECO ký giữa TKV và nhà thầu Chalieco ngày 14-7-2008 của dự án Tân Rai, nhà thầu chỉ cam kết về công suất là 630.000 tấn/năm, giảm 20.000 tấn/năm so với công bố của TKV. Mà giá trị 20.000 tấn/năm nhân với suất đầu tư bình quân khoảng 1.000 USD/tấn công suất, mức thiệt hại của VN lên tới 20 triệu USD. Doanh thu giảm hằng năm sẽ khoảng 5 triệu USD.


Bỏ thầu thấp, giá hợp đồng tăng
Ông Nguyễn Văn Ban, nguyên trưởng ban alumin Tổng công ty Khoáng sản VN, cho rằng Trung Quốc bỏ thầu với giá rất thấp. Nhưng sau khi bỏ thầu xong, được VN chọn để ký EPC, giá hợp đồng lại tăng lên. Đặc biệt, theo ông Ban, công nghệ Trung Quốc tiêu hao nước, than, kiềm đều cao hơn mức các nước có công nghệ tiên tiến. Với thực thu alumin theo công nghệ Trung Quốc thiết kế chỉ đạt 85% trên quặng tinh, trong khi công nghệ tiên tiến 87%, theo ông Ban, với công suất 630.000 tấn/năm, tổn thất lên tới 40 triệu USD/năm. “Đó mới là chỉ tiêu ký kết, còn thực tế có đạt được mức nào cũng là vấn đề” - ông Ban nói. Đơn cử, nhà máy sau hai năm vận hành mới chỉ đạt công suất 75-80% công suất thiết kế nên theo ông Ban, chắc chắn lỗ vốn vì mọi chi phí trên 1 tấn sản phẩm tăng.

Mức tiêu hao quặng để sản xuất alumin bình quân trên thế giới là dưới 2 tấn/tấn (dưới 2 tấn quặng được 1 tấn alumin), trong khi mức cam kết của nhà thầu Trung Quốc là 2,737 tấn/tấn, tương đương 25 USD/tấn.

Với công suất hiện tại 630.000 tấn/năm, theo ông Sơn, mức chênh lệch này có thể lên tới 11,607 triệu USD/năm.

Chưa hết, theo ông Sơn, với số giờ hoạt động thực tế ít hơn so với cam kết, mức thiệt hại mỗi năm lên đến hàng trăm ngàn USD. Lấy bốn sai lệch chính, ông Sơn cho biết dự án Tân Rai thiệt hại khoảng 343 triệu USD.

Số tiền này, theo ông Sơn, đáng ra phải cộng vào giá nhà thầu Chalieco đưa ra để so sánh với nhà thầu khác. “Có thể nói giá VN trả cho nhà thầu Trung Quốc cao hơn giá trị thật khoảng 343 triệu USD” - ông Sơn khẳng định.

Dù TKV “tự hào” tuyên bố dự án bôxit Tây nguyên sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó, nhưng các chuyên gia cho rằng con số lỗ hằng năm của dự án này đã không được đưa ra. Theo số liệu được TKV công bố, năm 2015 cả Tân Rai và Nhân Cơ sẽ sản xuất được 660.000 tấn, tổng doanh thu trên 4.900 tỉ đồng.

Phân tích số liệu này, ông Sơn cho rằng giá bán sẽ khoảng 7,4 triệu đồng/tấn, tức 346 USD/tấn. Cứ cho chi phí từ năm 2013 không tăng, chỉ cộng thêm chi phí vận tải, khấu hao, giá thành phải là 8,6 triệu đồng/tấn, tức khoảng 403 USD/tấn, lỗ khoảng 56,7 USD/tấn.

Như vậy, nếu sản xuất đủ sản lượng 660.000 tấn trong năm 2015, mức lỗ sẽ khoảng 37,4 triệu USD!

Thấy lỗ từ bù giá điện

Chưa hết, dự án chế biến alumin thành nhôm cũng đã được xúc tiến, dự kiến sẽ đặt nhà máy gần Nhà máy alumin Nhân Cơ.

Theo phân tích của ông Nguyễn Thành Sơn, để triển khai dự án “nhôm kim loại Nhân Cơ”, nhà đầu tư đã yêu cầu Chính phủ cam kết cho mua điện với giá 5 cent/kWh trong vòng 10 năm. Với mức tiêu hao điện thấp nhất thế giới cho công nghệ chế biến alumin thành nhôm (12.900 kWh/tấn), theo ông Sơn, dự án nhôm kim loại Nhân Cơ công suất 450.000 tấn nhôm/năm sẽ phải mua 5,8 tỉ kWh/năm.

Và để có thêm 5,8 tỉ kWh/năm, EVN phải đầu tư thêm một dự án thủy điện công suất 1.933 MW với chi phí phải bỏ ra khoảng 3,8 tỉ USD (lớn hơn thủy điện Hòa Bình), hoặc một dự án nhiệt điện chạy than với chi phí đầu tư khoảng 830 triệu USD (lớn hơn nhiệt điện Phả Lại 2).

Đặc biệt, theo ông Sơn, với giá bán điện bình quân hiện nay của EVN là 1.622 đồng/kWh, tương đương khoảng 7,5 cent/kWh mà doanh nghiệp chế biến nhôm được hưởng giá 5 cent/kWh, tất cả người dùng điện sẽ phải bù lỗ cho dự án nhôm kim loại đủ 5,8 tỉ kWh/năm, tính ra là khoảng 145 triệu USD/năm (khoảng 3.000 tỉ đồng).

Công suất nhôm kim loại càng cao, bù lỗ càng lớn, dự án nhôm kim loại càng triển khai nhanh, càng sớm phải bù lỗ. “Có lẽ chưa có dự án nào đầu tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng hay với mục đích xóa đói giảm nghèo của Nhà nước được bù lỗ “khủng” như vậy”- ông Sơn nói.

Dù dự án nhôm kim loại sẽ làm giảm lỗ cho các dự án alumin tối đa là 17,55 triệu USD/năm, nhưng theo ông Sơn, những người dùng điện VN phải bù lỗ cho dự án nhôm kim loại 145 triệu USD/năm, tức gấp hơn 8 lần!

Trong khi đó, chuyên gia Tô Văn Trường, nguyên viện trưởng Viện Quy hoạch nông nghiệp VN, cho rằng Bộ Công thương và TKV đã không phân biệt hiệu quả kinh tế tài chính của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước.

Theo ông Trường, người dân đang trồng cà phê phải nhường đất cho dự án alumin nên muốn tính hiệu quả alumin, phải lấy lãi từ chế biến bôxit thành alumin trừ đi lãi trồng cà phê, đó mới là lãi thực việc khai thác bôxit đem lại cho xã hội.


Khấu hao ít để giảm...lỗ!

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Hữu Chỉnh (từng được TKV giao làm người phát ngôn về vấn đề bôxit) cho rằng “không nên hiểu thế” bởi công suất 650.000 tấn/năm nhưng khi đi vào thực tế, công suất có thể chỉ 630.000 tấn là hiệu quả, nhà sản xuất có thể quyết mức này chứ không hẳn cứ 650.000 tấn/năm là tốt.

Trả lời về mức tiêu hao, ông Chỉnh cho biết thực tế khi đi vào sản xuất, chất lượng quặng của Nhà máy Tân Rai đã tốt hơn dự tính ban đầu nên tiêu hao các nguyên vật liệu đã giảm. Ngoài ra, giá bán alumin cũng đã tăng dần. Vì vậy, có thể nhận định xu thế thị trường sẽ thuận lợi hơn cho sản xuất alumin ở VN.

Tuy nhiên, ông Chỉnh thừa nhận câu chuyện lỗ và cho biết việc này đã được tính toán ngay từ đầu, trong đó dự kiến nhà máy alumin sẽ lỗ một số năm đầu. Nhưng với xu hướng đang tốt lên, thời gian lỗ có thể giảm xuống. Với ý kiến cho rằng thời gian qua alumin “lãi giả” vì khấu hao rất ít, ông Chỉnh cho biết thời kỳ đầu có thể khấu hao ít hơn để giảm lỗ, đó chỉ là điều tiết, nguyên tắc sẽ phải tính đủ.

Đụng vào đâu cũng thấy lỗ

Mới đây, các cơ quan chức năng đã vẽ lên bức tranh tươi sáng hiệu quả của hai dự án bôxit Tân Rai và Nhân Cơ, kèm theo việc Công ty Trần Hồng Quân tham gia xây dựng nhà máy luyện nhôm. Trong khi đó, các thông tin số liệu, nhất là quyết toán năm 2014 của Nhà máy Tân Rai vẫn được bảo mật!

Tuy nhiên, chỉ cần phân tích các thông tin số liệu đã có, đối chiếu với thực tế thấy rõ dự án bôxit Tây nguyên, mọi con đường đều dẫn đến thua lỗ, chưa kể việc ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng và môi trường xã hội của dự án.

Do sai lầm từ việc chọn nhà thầu Trung Quốc lúc đầu bỏ thầu giá rẻ (nhưng khi ký hợp đồng EPC lại giá khác), thiết kế nhà máy các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật lạc hậu tiêu hao lớn về quặng và năng lượng...

Theo tính toán của chuyên gia Nguyễn Thành Sơn về giá thành, tính đủ khấu hao và chi phí vận chuyển của alumin Tân Rai, năm 2013 lỗ 94 USD/tấn (tổng số 16 triệu USD), năm 2014 lỗ 87 USD/tấn (tổng số 43 triệu USD), năm 2015 lỗ 57 USD/tấn (tổng số 37 triệu USD).

Thế nhưng, giải pháp cho Công ty Trần Hồng Quân được hưởng nhiều ưu đãi để thực hiện dự án điện phân nhôm là thêm nhiều rủi ro khác. Theo đó, Nhà nước phải bỏ vốn ngân sách khoảng 1.200 tỉ đồng để chuẩn bị mặt bằng cho nhà máy.

Khi nhà máy điện phân nhôm hoạt động sẽ thải ra một lượng lớn chất thải fluoride: perfluorocarbon và hydrogen fluoride dưới dạng khí thải; sodium, fluoride nhôm và cryolite dư thừa dưới dạng phân tử. Nếu không được kiểm soát tốt thì hydrogen fluoride là chất rất độc hại cho thực vật quanh nhà máy. Khí perfluorocarbon là khí nhà kính có thời gian tồn tại lâu dài trong không khí.

Sản xuất nhôm tiêu hao rất nhiều điện năng. Giá nhôm hiện nay trên thế giới khoảng 1.850 - 2.150 USD/tấn. Điện năng cho sản xuất 1 tấn nhôm khoảng 12.900 kWh. Nếu lấy giá bình quân EVN bán điện 7,5 cent/kWh, nhưng nếu phải bán cho dự án của Trần Hồng Quân chỉ có 5 cent, ai phải bù lỗ?

Chỉ tính riêng tiền điện phải bù lỗ 1 năm cho dự án điện phân nhôm ít nhất là 145 triệu USD/năm, nếu đúng cam kết 10 năm thì phải bù lỗ khoảng 1,2 tỉ USD (tính giá quy về hiện tại). Còn nếu tính đúng giá bán điện cho doanh nghiệp 12 cent/kWh, mỗi năm phải bù lỗ cho Công ty Trần Hồng Quân gần 400 triệu USD.

TÔ VĂN TRƯỜNG

C.V.KÌNH


Nguồn: http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20150329/du-an-boxit-tkv-da-sap-bay-gia-re/726845.html

Tản mạn câu chuyện Phong Thủy nhân vụ chính quyền thành phố Hà nội đốn chặt cây xanh cổ thụ


Phạm Gia Minh, Đặng Thế Tĩnh




Nguồn ảnh: Báo Tuổi Trẻ


Độc giả có thể không tin và cho rằng những gì viết ra ở đây là mê tín, là viển vông nhưng đối với những ai chỉ cần có chút hiểu biết về Thuyết Âm Dương , Ngũ hành và Kinh Dịch thì câu chuyện chính quyền thủ đô Hà nội vừa qua cho phép đốn chặt tới gần 7000 cây xanh cổ thụ lại chứa đựng những điều hệ trọng hơn nhiều những bức xúc rất đời thường như bóng mát , cảnh quan môi trường và ký ức lịch sử .

Điều hệ trọng đó chính là vấn đề Phong Thủy của Thủ đô và do vậy nó hẳn sẽ ảnh hưởng tới trung tâm đầu não quốc gia và vận mệnh đất nước.

Theo triết lý ngũ hành tương sinh, tương khắc thì Việt Nam (nước Việt ở phương Nam) thuộc Hỏa. Mộc dưỡng Hỏa ví như củi tiếp nhiên liệu cho bếp lửa hồng và Hỏa thì khắc Thủy như dân gian vẫn nói “đối chọi nhau như lửa với nước”.

Năm nay 2015 theo Âm lịch là năm Ất Mùi, Ất thuộc Mộc (âm) và Mùi thuộc Thổ (âm) cho nên yếu tố Hỏa của cả năm nay sẽ suy do thiếu tính dương ở cả Thiên can và Địa chi. Do Mộc (âm) vừa phải trực tiếp sinh ra Hỏa và gián tiếp sinh ra Thổ (vì Hỏa tiếp tục sinh Thổ) nên tính chất Mộc của năm nay cũng không mạnh, tương tự như bà mẹ đẻ dày nên đuối sức.

Mùa Xuân là thời điểm vượng nhất của cây cỏ (Mộc) so với các mùa còn lại trong năm (cho nên mới có câu mùa Xuân là Tết trồng cây) mà tiến hành đốn, chặt hàng loạt cây xanh cổ thụ thì tới mùa Hè, thời điểm của Hỏa sẽ không có Mộc để sinh năng lượng, có thể ví vừa qua Hà nội đã thực hiện binh pháp Tôn Tử đó là “rút củi đáy nồi” khiến vận nước thêm suy.

Cũng vì do năm nay yếu tố Mộc không mạnh cho nên việc đốn chặt cây sau Tết Nguyên đán ắt diễn ra thuận lợi hơn năm ngoái Bính Ngọ. Không phải ngẫu nhiên trong tháng 2 lịch Âm Ất Mùi người ta mới ra quân rầm rộ đốn cây ngày đêm theo lối chiến dịch như vậy.

Xét về Phong Thủy tên gọi Hà Nội (trong sông) đã thể hiện tính chất Thủy của Thủ đô và cái tên này hẳn là tương khắc với tên gọi mang tính Hỏa là Việt Nam. Phải chăng vì sự tương khắc đó mà từ năm 1831 khi Minh Mạng cho đổi tên vùng đất vốn là Thăng Long (Rồng bay lên - thuộc Thổ) thành Hà Nội thì trong suốt 184 năm qua hơn 2/3 thời gian đất nước này luôn luôn bị cảnh binh đao ám ảnh: 80 năm Pháp đô hộ, khởi nghĩa, kháng chiến chống Pháp rồi sau đó gần 30 năm Mỹ can thiệp, hai miền chia cắt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc, xung đột ở Hoàng Sa 1974, Lão Sơn, Hà Giang rồi Gạc Ma năm 1988, căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Việc sáp nhập Hà Tây (nơi có Sơn Tinh ngụ tại núi Tản) vào Hà nội hẳn càng giúp củng cố hơn cái thế thượng phong của yếu tố Thủy trong tương quan với Hỏa vốn là căn mệnh của đất Việt [1].

Nói tóm lại, việc đốn chặt cây xanh cổ thụ một cách hàng loạt như vừa qua tại Hà Nội đã tạo thêm một sự suy giảm yếu tố Hỏa (rút củi đáy nồi) và góp phần củng cố cho yếu tố Thủy thêm mạnh mẽ, lấn lướt.

Do Phương Bắc thuộc Thủy nên nếu nhìn rộng ra và suy ngẫm một chút sẽ thấy rất rõ việc đặt tên Hà Nội từ thời Minh Mạng sau đó lại sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội và hiện nay cho đốn chặt hàng loạt cây xanh cổ thụ là cả một quá trình làm suy yếu vận nước và góp phần củng cố thế mạnh cho các thế lực phương Bắc.

Trong bối cảnh đang diễn ra những căng thẳng trên Biển Đông thì sự suy yếu của Mộc ngay tại nơi đầu não của đất nước còn mang một nguy cơ tiềm ẩn. Số là phương Đông (trong đó có Biển Đông ) thuộc Mộc nên khi mà Mộc tại trung tâm yếu sẽ liên hoàn kéo theo Mộc ở ngoại vi (thế phòng thủ ngoài Biển Đông - Hoàng Sa, Trường Sa…) suy yếu theo.

Thời điểm có thể diễn ra những căng thẳng, phức tạp do Mộc suy yếu có thể sẽ trùng vào mùa Thu (thuộc Kim) và / hoặc mùa Đông (thuộc Thủy) năm Ất Mùi.

Những việc tày Trời đó đã diễn ra do người Việt Nam không nhận thức được ý nghĩa sâu xa của Phong Thủy - Kinh Dịch và Ngũ hành hay vì những món lợi ngồn ngộn trước mắt đã làm mờ lý trí?

Hình như Minh Mạng đã xuất phát từ sự ngưỡng mộ văn hóa Trung Hoa và phần nào cũng muốn hạ thấp tầm ảnh hưởng của tầng lớp sĩ phu Bắc hà.

Còn việc sáp nhập Hà Tây vào Hà Nội thì nghe nói nhiều đại gia bất động sản đã kiếm bộn từ chênh lệch giá bán nhờ việc gắn mác thủ đô lên những khu đất mà ngày hôm qua vẫn là đất tỉnh lẻ nên giá mua vào rất bèo.

Dư luận còn chưa rõ câu trả lời từ phía những người có trách nhiệm trong việc đốn chặt cây ở Hà Nội về số tiền bán gỗ và thực thi chặt cây hàng loạt với kinh phí tới 35 triệu đồng/cây có phạm Luật hay không?

Nhưng một điều rất rõ nếu xét về phương diện Phong Thủy đó là lãnh đạo Hà Nội có thể đã vô tình ra một quyết định vội vàng gây tổn hại cho vận nước đồng thời củng cố thêm vị thế cho các thế lực bên ngoài!

Đáng tiếc là việc đốn, chặt hàng loạt cây xanh cổ thụ ở ngay giữa đất Thủ đô đã gây nên chấn động dư luận gấp nhiều lần những vụ việc đáng tiếc do người dân còn thiếu thông tin và gặp hoàn cảnh túng thiếu như nuôi đỉa, cắt dây điện thoại, phá đường tàu, gom móng trâu, bò và rễ cây quế, lá cây điều… để bán cho thương lái nước ngoài.

Xin kết thúc mấy lời tản mạn (và có thể là viển vông này) bằng một nhận định mà tác giả đã đưa ra cách đây mấy năm khi người ta đang bừng bừng khí thế dời hài cốt các liệt sĩ đã nằm xuống tại khu chợ tạm 19/12 để xây đè lên đó một trung tâm thương mại hoành tráng 17 tầng. Đó là, nếu như quả thực có diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch thì hãy cảnh giác với chiến tranh Phong Thủy [2].

Thăng Long- Hà nội 28/ 3/2015

P.G.M. – Đ.T.T.

(1 ).http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/suy-nghi-ve-ten-goi-thang-long-cua-thu-do-nuoc-viet


(2).http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/anh-huong-moi-truong-cua-tttm-19-12-theo-goc-do-phong-thuy

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2015

Nguyễn Khắc Mai - Cụ Lý Quang Diệu vẫn sống



Tôi có viết bài ai điếu đăng trên Thôn Minh Triết, về cái tang của cụ Lý Quang Diệu, rằng Cụ đẫ về trời. Tôi thật hãnh diện vì đã đến thăm một thôn nhỏ với ngôi miếu thờ của thôn. Người hướng dẫn của đoàn chúng tôi là một cô bé người Hoa, nhí nhãnh,vui tươi, có ngón nghề hướng dẫn du lịch khá điệu nghệ. Đoàn tôi ai cũng nhận xét như vậy. Trên đường trở về, cô đưa chúng tôi đến thăm ngôi miếu ấy và kể cho chúng tôi nghe, thôn này vốn là quê hương gốc của gia tộc Cụ Lý Quang Diệu,trước khi đến định cư ở Singapore. Ngôi miếu ấy nay ở cạnh một con đường của thành phố Bằng Tường.Tôi thầm nghĩ trong bụng, thế là đây, vùng đất xưa của Đại Việt, các triều Lý Trần vẫn từng cai quản. Có một nhà nghiên cứu mách cho tôi rằng, người ta đã đào được ở đây một chiếc ấn của Tri phủ Bằng Tường đời Trần. Nghe nói GS Hà Văn Tấn cũng đã nói đến trong một quyển sách bàn về thời ký đồ đồng. Vật đổi, sao dời, thương hải tang điền là vậy. Cho nên trong lời ai điếu tôi có nhắc đến nguồn gốc Bách Việt của Cụ và xưng tụng Cụ là một người Bách Việt hiện đại. Chẳng phải thấy sang bắt quàng làm họ, mà chỉ là chút ngẫm nghĩ cuộc đời. Nghe nói sinh thời Cụ từng ao ước giá như quê hương Singapore của Cụ lại lớn, lại đông dân, lại có con người thông minh… như Việt Nam, (Cụ mới thỏa chí dọc ngang chăng). Tuy thế, cuộc đời của Cụ, 30 năm lớn lên, học hành tử tế, 50 năm cống hiến Cụ là người sáng lập và xây dựng làng chài nhỏ Singapore thành ra một quốc gia-dân tộc, văn minh, giàu có, sang trọng. Phải nhấn mạnh chữ trọng, vì thật, họ vừa sang vừa đáng kính trọng. Trong thời hiện đại không phải quốc gia nào giàu mạnh cũng có thể được gọi là sang trọng. Một con người cũng như vậy.


Có người tên nghe sang trọng, mà nhân cách thì không đáng trọng cho lắm.


Điều đầu tiên tôi nghĩ đến là một vấn đề xã hội học lịch sử,vấn đề tốc độ trong thời kỳ tin học. Nhà nước-dân tộc Singapore xuất hiện từ những năm 50 của thế kỹ trước.Vậy là chỉ trong vòng nửa thế kỹ, trong thời hiện đại đã có thể hình thành một nhà nước rất mới. Sáu triệu người Singapore, nhiều sắc tộc hài hòa trong một xã hội, một Nhà nước văn hóa (họ không chỉ văn minh mà còn văn hóa)Singapore trở nên một quốc gia mới và tuyên bố độc lập vào thập kỹ 60.Có thể nói nửa sau TK 20, nhân loại bước vào một nền văn minh mới mà tin học ngày càng phát triển và chi phối hành vi của con người. Trong nền văn minh này người ta bắt đầu nói đên trạng thái xã hội hậu hiện đại. Tôi nhớ vào đầu thập kỹ 70 ngài Thủ tướng Canada bấy giờ đã chủ trì một cuộc hội thảo kéo dài, mời học giả quốc tế đên trình bày. Chính trong cuộc hội thảo này học giả người Pháp Lyotard đã đọc báo cáo, rồi được xuất bản ở Pháp với tên Điều kiện hậu hiện đại (Pham Xuân Nguyên gần 30 năm sau mới dịch và xuất bản ở Việt Nam). Tôi cho rằng Cụ Lý Quang Diệu và giới tinh hoa Singapore đã có nhãn quan thời đại nên đã như nhiều quốc gia dân tộc dù nhỏ bé ở Châu Âu đã tạo ra một tình thế chưa từng có: nhũng nước nhỏ, độc lập (trong liên lập), tự cường,văn minh hóa, xây dựng xã hội nhân văn, hài hòa, thịnh vượng…Trong khi đó giới lãnh đạo và cái gọi là tinh hoa của Việt Nam cho đến nay vẫn đang bị cầm tù trong nhũng tư duy lạc hậu thảm hại!


Theo tôi hiểu thì đặc điểm quan trọng nhất của “Hậu hiện đai” là vượt qua kiểu tư duy “đại tự sự”, nói và nghĩ về những chuyện lớn lao như kiểu “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trên pham vi toàn thế giới”, “chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại”, “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”… Nhưng chỉ nói leo lẽo mà không biết đằng mù nào để hiểu nó là gì,đừng nói đến thực hiện. Nhân loại đã bước khỏi mô hình tư duy “tất định luận” kiếm tìm phương thức “phức hợp”,“bất định”. Việt Nam vẫn giam hãm mình trong một thứ giáo điều phản động. Bài học lớn nhất của Cụ Lý Quang Diệu là bài học ứng xử trong thời đại của tốc độ!


Trong một thời đại của “phức hợp”, của “bất định”, của hậu hiện đại…thì cái độc nguyên trở thành cái phi lý, cái phản động, nên ban đầu dẫu Cụ Lý có cái độc quyền, nhưng không đi đến độc tài,và khi xã hội đã có điều kiện mới thì sẵn sàng mở để nó tự tiến tới dân chủ. Biết tôn trọng cái đa, nên biết tập họp nhân tài, tôn trọng và đề cao nhân tài. Nền dân chủ của Singapore đang cho ta bài học vừa tôn cái quyết định của đa, nhưng cũng biết trọng cái riêng cái thiểu số. Vì thế tượng đài của Cụ Lý cao và đẹp nhờ được đặt trên một cái nền tinh hoa của xã hội Singapore. Nói về tinh hoa và nhân tài Việt, tôi có hai trãi nghiệm nhỏ. Một là tại Ban khoa giáo TƯ khi GS Nguyễn Đình Tứ làm trưởng ban, nhân hội thảo về chính sách trí thức, tôi thưa “Đảng nên biết bái trí vi sư”. Tôi nói, tôi học cách nói này của Phan Bội Châu. Cụ nói bái thạch vi huynh, tôi vận dụng là bái trí. Điều cay đắng, là anh Tứ khoát vai tôi khi giải lao và nói "anh nói đúng nhưng họ không thực hiện được đâu”. Hai là có lần tôi được Hội đồng Lý luận TƯ mời dự Hội Thảo về xây dựng đảng. Tôi nói về vai trò của ban tổ chức, ban tuyên huấn và dân vận. Tổ chức đúng ra là nơi biết tìm nhân tài, bồi dưởng và sử dụng nhân tài, thì đây chỉ là nơi tạo ra cơ chế mua quan bán tước từ cấp phường đến TW. Tuyên huấn phải là nơi tạo ra sự thăng hoa của tư tưởng, lý luận mới, trái lại chỉ là nơi duy trì giáo diều, bảo thủ. Dân vận lẽ ra phải kiến tạo xã hội dân sự cho dân chủ phát triển, trái lai cả nghiên cứu xã hội dân sự cũng không dám. Bấy giờ anh Trần Đinh Hoan ủy viên bộ chính trị, cựu trưởng ban tổ chức có mặt, đã để hai tay trước ngực vỗ nhẹ tỏ ý đồng tình với nhận định của tôi. Có điều sau đó họ không mời tôi dự nữa. Biết đặt mình trong một tập thể tinh hoa và người tài, hút lấy năng lượng của họ để bồi đắp cho nhân cách và năng lực lãnh đạo là bài học sáng giá mà Cụ Lý muốn gởi gắm cho chúng ta.


Điều thứ hai là nhân cách của Cụ Lý. Cụ có cái Trí để nắm bắt được mạch đi của thời đại. Cụ có cái Tâm để biết thương yêu và đã hành xử khá đẹp cái minh triết Việt “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, ứng dụng vào quan hệ xã hội của Singapore, với khu vực và với quốc tế. Thật đáng xót xa khi chính chủ nhân của minh triết ấy lại vô minh vô cảm đến vậy! Cụ có cái Tầm nghĩ và làm của thời đại, vì thế có sức lan tỏa, Á, Âu, Mỹ, Phi, Úc đều thương tiếc, kính phục Cụ Khi Cụ về trời. (Cái để lại vô vàn tình thương yêu cho nước non của Việt thật thua xa Cụ) Tinh tế khôn ngoan trong dạy dỗ con cháu,trong đối nhân xử thế. Chỉ riêng cái di chúc “hãy phá ngôi nhà của tôi để cho người láng giềng có thể xây nhà cao to hơn, để trồng ở đó một vườn cây cho mọi người”. Cao thượng quá. Tôi hy vọng chính phủ Singapore sẽ làm theo cái minh triết này, để bài học đó trở thành tài sản tinh thần của nhân loại. Chớ bắt chước Việt Nam bỏ qua di chúc của cái người mình coi là thần tượng, rồi làm những điều ngược lại, xây lăng lớn, miếu đền thờ phụng khắp nơi, nhưng làm gì cho nhân cách con người đừng ti tiện nhỏ bé thì không biết.


Đầu thế kỹ 20 phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục từng đề xướng: “Chính Phủ chẳng qua chỉ là người dân nắm chính quyền”. Một tổng kết về dân chủ, dân quyền hiện đại của (cho) Việt Nam. Nhưng hơn một thế kỹ người Việt không thi hành nỗi. Trái lại Cụ Lý và người Singapore thì cảm nhận và họ đã để lại cho Việt Nam chúng ta một bài học thành công về thế nào là một chính quyền thân dân, của dân, do dân, vì dân. Tôn Trung Sơn có lý khi nói rằng nhận thức dễ hơn hành động!


Hôm nay là ngày người Singapore tiễn đưa Cụ Lý về trời. Tôi viết những giòng này để cứ nghĩ rằng Cụ vẫn còn sống trong những dạng năng lượng mà Cụ để lại và đang lan tỏa trong chúng ta,năng lượng của một người Bách Việt hiện đại./.


Nguyễn Khắc Mai


Tác giả gửi cho viet-studies ngày 26-3-15



Lý Quang Diệu và chính sách ngăn ngừa CS tại Singapore

Trần Trung Đạo



Trần Trung Đạo: "Có lẽ không ai có ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn Lý Quang Diệu về hiểm họa CS Tàu tại Singapore. Hầu hết, nếu không muốn nói tất cả đảng viên CS hoạt động tại Singapore là người Hoa. Do đó, tách rời Singapore ra khỏi quỹ đạo của Trung Cộng càng xa càng tốt. Ông học về lý thuyết CS tại Anh một cách nghiêm túc và nhiều lần khẳng định chủ nghĩa CS không cần thiết là một phương tiện để giành độc lập và chủ nghĩa CS không thể xây dựng Singapore thành một nước cường thịnh về mọi mặt. "

____________________________________________________


Cựu Thủ tướng Cộng Hòa Singapore Lý Quang Diệu được đưa vào bệnh viện hôm 5 tháng 2 vì bịnh viêm phổi trầm trọng. Chỉ vài hôm sau, ông được chuyển qua hệ thống duy trì sự sống (life support). Theo nhiều nguồn tin, hai năm trước đây ông đã thêm vào di chúc một đoạn trong đó ông không muốn kéo dài sự sống vô nghĩa bằng cách này. Theo thông báo của chính phủ Singapore “ông qua đời trong thanh thản” tại Tổng Y Viện Singapore lúc 03:18 sáng, giờ địa phương thứ Hai 23/3/2015, thọ 91 tuổi. Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên của Singapore và mất vào năm kỷ niệm 50 năm độc lập của quốc gia này.

Các thành tựu kinh tế

Về đối ngoại, hầu hết các chính trị gia thế giới từ Margaret Thatcher của Anh trước đây đến Barack Obama của Mỹ hiện nay đã từng ca ngợi Thủ tướng Lý Quang Diệu. Ông có một tầm nhìn rất xa không chỉ vào tương lai Singapore mà cả chính trị khu vực Á Châu và Thái Bình Dương. Từ đầu năm 1994, Lý Quang Diệu đã thấy trước sự căng thẳng trong vùng biển Đông.

Về đối nội, mặc dù nhiều chính sách cứng rắn của Lý Quang Diệu tạo nên nhiều tranh luận và phê bình, ông có một niềm tin vững chắc vào khả năng lãnh đạo của chính mình và tiềm năng của nhân dân Singapore để cùng đưa quốc gia rất nhỏ bé và bị bao quanh bởi các quốc gia thù địch thành một trong những nước giàu có nhất thế giới. Ngày nay, Singapore, quốc gia có dân số 5.5 triệu, là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất thế giới, một trong năm cảng thương mại bận rộn nhất thế giới và có lợi tức đầu người cao thứ ba trên thế giới.

Một danh sách dài của những bảng danh dự mà các thống kê, các tổ chức kinh tế, tài chánh, thương mại quốc tế dành cho Singapore trong nhiều lãnh vực. Chẳng hạn, World Bank xếp Singapore vào hạng nhất trên thế giới về dễ dàng làm thương mại (The ease of doing business) và giữ vị thứ này suốt 7 năm liền; Singapore được xếp hạng ba trên thế giới về quốc gia cạnh tranh nhất (Most competitive country in the world); Singapore đứng hạng nhất về bảo vệ tài sản trí tuệ (The best protection of intellectual property); WHO (World Health Organization) năm 2010 xếp Singapore hạng nhì về tỉ lệ tử vong thấp trong thiếu nhi; Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International: Corruption Perceptions Index) năm 2010 xếp Singapore vào hạng quốc gia trong sạch nhất. Và rất nhiều bảng danh dự quốc tế khác.


Thành tựu lớn nhất của Lý Quang Diệu chưa hẳn là thành tựu kinh tế

Reihan Salam, Chủ bút điều hành của National Review Institute và tác giả nhiều tác phẩm chính trị, trong phân tích và cũng là kết luận Thành Tựu Lớn Nhất Của Lý Quang Diệu Chưa Hẳn Là Thành Tựu Kinh Tế của Singapore (Lee Kuan Yew’s Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success) đăng trên National Review sáng 23/3/2015 vừa qua.

Theo Reihan Salam, trong những năm trước 1959, xã hội Singapore chịu đựng tình trạng xung đột chủng tộc giữa các sắc dân Ấn, Mã Lai và Trung Hoa không chỉ về kinh tế mà trong cả văn hóa, tôn giáo. Ngoài ra, sự phân liệt trầm trọng diễn ra trong sinh hoạt chính trị với đa số thành phần CS và thân Cộng là người gốc Hoa trong khi đa số thành phần chống Cộng là gốc Mã Lai. Thế nhưng, ngày nay có thể nói không một quốc gia nào mà nơi đó người dân thuộc thành phần thiểu số cảm thấy an toàn hơn tại Singapore và gần một nửa số người đang sống yên ổn tại Singapore vốn sinh ra tại nước ngoài. Sự an toàn, ổn định và hòa hợp đó sẽ không xảy ra nếu quốc gia này nằm trong tay CS. Thành tựu lớn nhất của cố Thủ tướng Lý Quang Diệu, do đó, phải là thành tựu ngăn chận được sự phát triển của phong trào CS tại Singapore.

Lịch sử phong trào CS tại Mã Lai và Singapore

Năm 1927, năm cán bộ CS Trung cộng được phái tới Mã Lai để thành lập đảng CS Nanyang (Mã Lai, Singapore) với tầm hoạt động bao gồm cả Thái Lan, Đông Dương và các thuộc địa Đông Ấn thuộc Hòa Lan. Năm 1930, Đệ Tam Quốc Tế CS (1919-1943) tổ chức một hội nghị tại Singapore, giải tán đảng CS Nanyang và thành lập đảng CS Mã Lai. Cùng thời gian này, đảng CSVN cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế được thành lập.

Địa bàn hoạt động của đảng CS Mã Lai bao gồm Mã Lai, Singapore và lan rộng tận Thái Lan. Chương trình hành động của đảng CS Mã Lai gắn liền với điều kiện chính trị tại Trung cộng và đảng CSTQ bởi vì đa số đảng viên CS Mã Lai là người gốc Hoa. Những năm hòa hoãn giữa đảng CSTQ và Quốc Dân Đảng Trung Hoa để chống Nhật, đảng CS Mã Lai có cơ hội hoạt động mạnh hơn. Năm 1939, đảng CS Mã Lai có khoảng 40 ngàn đảng viên với một nửa số đó hoạt động tại Singapore. Tài liệu của đảng CSVN không ghi thống kê của năm 1939 nhưng trong giai đoạn 1935 đảng chỉ có 600 đảng viên. So sánh để thấy, hoạt động của đảng CS Mã Lai lúc bấy giờ mạnh đến dường nào.

Các đảng CS thuộc Đệ Tam Quốc Tế, trong đó có Việt Nam và Mã Lai, thực thi một chiến lược giống nhau do Lenin vạch ra trong Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản được chấp thuận tại đại hội Đệ Tam Quốc Tế lần thứ nhất vào năm 1919 và Luận Cương về Vấn đề Dân Tộc và Thuộc Địa do Lenin đọc tại đại hội của Đệ Tam Quốc Tế CS lần thứ 2 vào năm 1920. Chấp hành đường lối quốc tế đó, đảng CS tại các nước thuộc địa dùng cơ hội hợp tác với chính quyền chống ngoại xâm để phát triển đảng một cách công khai. Mã Lai-Singapore chống Anh, Trung Hoa chống Nhật và Việt Nam chống Pháp. Đảng CS mượn chiếc cầu chống thực dân và lợi dụng lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân để đạt mục đích tối hậu là thiết lập chế độ CS trên phạm vi cả nước.


Lai Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai có máu Việt Nam

Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, đảng CS Mã Lai tuyên bố hợp tác với chính quyền bảo hộ Anh để bảo vệ Singapore. Nhiều đảng viên CS Mã Lai được Anh huấn luyện quân sự. Lai Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai nhưng thực chất là một gián điệp làm việc cho nhiều cơ quan tình báo chống CS. Y có máu Việt Nam với cha là người Việt và mẹ là người Hoa. Lai Teck sinh tại Việt Nam và có tên thật là Trương Phước Đạt. Y từng làm việc cho cơ quan mật thám Pháp và xâm nhập đảng CSVN. Sau khi toàn thành nhiệm vụ Pháp chuyển Lai Teck sang cho tình báo Anh và tình báo Anh chỉ thị y xâm nhập vào đảng CS Mã Lai năm 1935. Lai Teck có một tiểu sử đầy kỳ bí và nhiều câu hỏi về nhân vật này vẫn chưa được ai trả lời thỏa mãn.

Khi Singapore rơi vào tay Nhật, Tổng bí thư Lai Teck bị Nhật bắt và trong giai đoạn này y lại bí mật hợp tác với Nhật. Sau Thế chiến thứ hai, Lai Teck vẫn tiếp tục hoạt động trong đảng CS. Mãi cho đến 1947, khi quá khứ bị phanh phui, Lai Teck bỏ trốn sang Thái. Chin Peng, Tổng bí thư mới của đảng CS Mã Lai yêu cầu các đảng viên CS Thái và CS Việt Nam đang hoạt động trên đất Thái truy lùng Lai Teck. Cuối cùng, một tổ ám sát CS Thái tìm ra và siết cổ y chết tại Bangkok. Xác của Lai Teck được ném xuống sông Chao Phraya năm 1947. Năm đó Lai Teck 44 tuổi.


Cộng sản Mã Lai và Singapore sau Thế chiến thứ hai

Giống như tại Việt Nam, khi Nhật rút lui nhưng Đồng Minh chưa đến, các nhóm CS Mã Lai xuất hiện, nhất là trong các khu người Hoa. Các đảng viên CS này được chào đón như những anh hùng cứu tinh dân tộc. Đảng CS tịch thu vũ khí do Nhật để lại và tuyển dụng đảng viên một cách công khai. Những “trung đoàn” CS trong thời chiến mỗi đơn vị chỉ hơn một trăm lính đã lên đến con số 6 ngàn trong một thời gian ngắn.

Khi chính quyền bảo hộ Anh được tái lập tại Singapore và ra lệnh đảng CS Mã Lai phải giao nạp vũ khí và giải tán các "trung đoàn" CS. Đảng CS buộc phải đồng ý giải tán nhưng cũng giấu đi nhiều vũ khí. Theo lịch sử đảng CS Mã Lai, các “trung đoàn" phải giải tán vì thiếu hàng ngũ cán bộ chính trị viên để nắm vững phần tư tưởng của đảng viên, nhưng dù sao đó cũng là một quyết định sai lầm của đảng. Trong khi đó tại Việt Nam, đảng CS lợi dụng khoảng trống cuối Thế chiến thứ hai để chiếm Hà Nội và vài thành phố khác qua biến cố gọi là "Cách mạng Mùa Thu".

Sau thời kỳ Lai Teck, Chin Peng, 27 tuổi, một lãnh đạo CS Mã Lai gốc Hoa lên nắm quyền Tổng bí thư và chuyển sang đấu tranh bạo động, bao gồm ám sát và khủng bố. Chính quyền phản ứng mạnh qua các chiến dịch truy lùng các lãnh đạo đảng nhưng Chin Peng trốn thoát. Đảng CS Mã Lai thành lập một tổ chức ngoại vi có tên Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Mã Lai. Chính quyền Mã Lai áp dụng chính sách cắt nguồn tiếp tế cho CS bằng cách đưa dân về các “Khu tân lập” được bảo vệ an ninh chặt chẽ. Sau lần đàm phán thứ nhất để giải quyết xung đột trong hòa bình thất bại, các lực lượng CS rút lui dần về biên giới Thái. Theo ước đoán của Bộ Ngoại giao Mỹ, số đảng viên CS Mã Lai trong giai đoạn này chỉ còn vào khoảng 2 ngàn người. Anh trao trả độc lập hoàn toàn cho Mã Lai ngày 31 tháng 8 năm 1957 nhưng vẫn tiếp tục bảo hộ Singapore.


Lý Quang Diệu và CS Singapore

Năm 1950, sau khi học xong ngành luật tại Fitzwilliam College, Cambridge, Anh, và hoàn tất chương trình thực tập luật, Lý Quang Diệu được nhận vào luật sư đoàn Anh nhưng ông đổi ý định hành nghề ở Anh và về nước. Chàng luật sư 27 tuổi Lý Quang Diệu trở lại quê hương mang theo một tấm lòng yêu nước, lý tưởng công bằng xã hội, ý chí quyết tâm và tầm nhìn xa vào tương lai Singapore.

Lý Quang Diệu là một trong ba người thành lập Đảng Hành động Nhân dân Singapore (People Action Party, gọi tắt là PAP) vào ngày 21 tháng 11, 1954. Mục đích chính của PAP là bảo đảm an ninh quốc gia mà không phải sử dụng bạo lực và xác định trong tuyên ngôn thành lập "PAP sẵn sàng hợp tác một cách thành thật với các đảng phái chính trị khác để đạt đến mục tiêu độc lập thật sự cho đất nước”.

Trong cuộc bầu cử tháng Năm 1959, PAP thắng lớn. Singapore thành quốc gia tự trị trong khuôn khổ Commonwealth và Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên với Thống đốc Sir William Allmond Codrington Goode là Quốc trưởng. Theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý 1962, Singapore sáp nhập vào Liên Bang Mã Lai. Việc chọn gia nhập Liên Bang Mã Lai phát xuất từ mối lo ngại thiếu tài nguyên và ngoài ra, một số chính trị gia cũng quan tâm đến việc Singapore có thể trở thành một quốc gia CS. Tuy nhiên chỉ trong vòng 3 năm, Quốc hội Mã Lai với số phiếu 126 trên 126 loại Singapore ra khỏi liên bang. Thủ tướng Lý Quang Diệu đứng trước một tương lai Singapore đầy bất ổn. Ngay cả trong nội bộ PAP, vài năm trước, các thành viên sáng lập cũng đã chọn con đường tả khuynh cho riêng họ.


Các thành phần CS và tả khuynh trong lãnh đạo PAP

Hai thành viên sáng lập khác là Fong Swee Suan và Lim Chin Siong có lập trường tả khuynh trong lúc Lý Quang Diệu quyết tâm ngăn chận mầm mống CS phát sinh trong xã hội Singapore. Lý Quang Diệu biết rõ rất đông lãnh đạo và đảng viên PAP bị ảnh hưởng CS và việc chấp nhận sự ủng hộ của cánh CS chẳng khác gì ngồi trên lưng cọp nhưng ông tin tưởng vào khả năng và có một niềm tin kiên định vào mục đích sống của đời mình. Muốn đưa Singapore trở thành một quốc gia cường thịnh, trước hết phải xóa bỏ mọi tàng tích CS còn tồn đọng từ quá khứ và ngăn chận mọi mầm mống phát sinh của ý thức hệ CS tại Singapore. Tất cả chính sách đối nội của Lý Quang Diệu đều tập trung vào mục đích đó.

Đảng PAP tập hợp những thanh niên Singapore trẻ, có tinh thần độc lập và liên kết với các nghiệp đoàn, nhưng như Lý Quang Diệu giải thích, sự liên kết này chẳng khác gì một loại "hôn nhân hợp đồng" vì ông chỉ biết nói tiếng Anh nên cần các đảng viên biết nói tiếng Tàu trong giới lao động thân CS.

Lim Chin Siong, một trong ba người thành lập, có giọng nói hùng hồn và thu hút người nghe đã đắc cử Dân biểu Quốc Hội đơn vị Bukit Timah khi chỉ mới 22 tuổi. Năm 23 tuổi Lim Chin Siong và Lý Quang Diệu đại diện cho Singapore để thảo luận về hiến pháp tại London.

Những hoạt động tả khuynh quá khích của Lim Chin Siong đã làm cho hai lãnh đạo PAP xa nhau rất sớm. Lý Quang Diệu tố cáo Lim Chin Siong là CS và dựa vào Sắc Luật An Ninh Quốc Nội (Internal Security Act) bỏ tù đồng chí sáng lập PAP này nhiều năm không xét xử.

Mặc dù Lim từ chối là CS, các hành vi của y như việc đọc diễn văn trong lễ tưởng niệm Joseph Stalin và kế hoạch lật đổ chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore sáp nhập vào Mã Lai cho thấy chủ trương CS hóa Mã Lai bao gồm cả Singapore nằm trong ý định của Lim và mục tiêu của đảng Barisan Sosialis do y thành lập. Dù sao, sau khi Lim Chin Siong chết ngày 5 tháng Hai 1996, Lý Quang Diệu bày tỏ sự kính trọng về quyết tâm, tận tụy với lý tưởng dành cho đồng chí sáng lập PAP vừa qua đời.

Fong Swee Suan, một thành viên sáng lập khác của PAP cũng có lập trường thân CS. Không giống Lý Quang Diệu học hành đổ đạt, Fong Swee Suan bị trục xuất ra khỏi trường trung học vì tham gia đình công. Fong dành hết thời gian còn lại cho các hoạt động của giới thợ thuyền. Trong thời gian PAP lãnh đạo Singapore, Fong Swee Suan là Bộ trưởng Bộ Lao Động. Tháng Bảy 1961, Lý Quang Diệu yêu cầu Fong Swee Suan từ chức vì có liên can đến việc kêu gọi Singapore tự trị. Fong bị bắt tháng Hai 1963, giam tại Mã Lai và được phóng thích vào tháng Tám 1967. Fong có niềm tin sâu xa rằng giới công nhân là giới bị áp bức bóc lột và nghiệp đoàn là phương tiện để giới công nhân đấu tranh giải phóng áp bức bóc lột. Ông thừa nhận là một người xã hội chứ không phải là CS.

Sau khi giới hạn các thành phần CS và tả khuynh trong hàng ngũ lãnh đạo PAP, và ổn định chính trị quốc nội, Lý Quang Diệu thực hiện hàng loạt các chính sách kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ quốc tế. Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc 1965 và ASEAN 1967.


Lý Quang Diệu và Cộng Sản Tàu

Có lẽ không ai có ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn Lý Quang Diệu về hiểm họa CS Tàu tại Singapore. Hầu hết, nếu không muốn nói tất cả đảng viên CS hoạt động tại Singapore là người Hoa. Do đó, tách rời Singapore ra khỏi quỹ đạo của Trung Cộng càng xa càng tốt. Ông học về lý thuyết CS tại Anh một cách nghiêm túc và nhiều lần khẳng định chủ nghĩa CS không cần thiết là một phương tiện để giành độc lập và chủ nghĩa CS không thể xây dựng Singapore thành một nước cường thịnh về mọi mặt.

Vào những năm đầu thập niên 1960, trong lúc các nhà lãnh đạo CSVN phải sang chầu Trung Cộng hàng năm để xin súng đạn, Lý Quang Diệu từ chối ngay cả việc thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước có chủ quyền toàn vẹn. Những biện pháp cứng rắn của chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore ra khỏi Liên bang Mã Lai là nhằm bảo vệ sự tồn tại mong manh của bán đảo này và ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng Sản với hậu thuẩn tích cực của Trung Cộng.

Khi Đặng Tiểu Bình phát động bốn hiện đại hóa, Lý Quang Diệu mở rộng các quan hệ kinh tế, thương mại với Trung Cộng vì lợi ích của Singapore nhưng vẫn chưa thiết lập các quan hệ chính trị trên tầm mức quốc gia. Mặc dù công khai bày tỏ sự kính phục dành cho Đặng Tiểu Bình và được mời thăm Trung Cộng nhiều lần, mãi đến tháng 10 năm 1990, khi Singapore đủ mạnh về kinh tế và ổn định về chính trị, Lý Quang Diệu mới thiết lập ngoại giao hoàn toàn. Singapore là nước cuối cùng ở Đông Nam Á thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Và mặc dù công nhận Trung Cộng, Lý Quang Diệu đồng thời cũng duy trì một quan hệ tốt với Đài Loan.

Quan hệ thương mại với Trung Cộng, tránh phê bình chế độ chính trị CS tại Trung Cộng không có nghĩa Lý Quang Diệu thừa nhận cơ chế CS là đúng. Lý Quang Diệu hiểu CS hơn nhiều lãnh đạo quốc gia khác vì chính ông đã từng tranh đấu một cách gian nan để ngăn chận CS tại Singapore cũng như đã từng phát biểu về lâu về dài nền dân chủ Ấn Độ sẽ giúp cho quốc gia này vượt qua Trung Cộng.

Một số học giả Trung Cộng như Lu Qi gọi Lý Quang Diệu là hanjian (Hán Gian) khi kết án ông Lý đã buộc người dân Singapore sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính và kết quả làm cho đa số người dân Singapore gốc Hoa ngày nay không biết tiếng Tàu. Nhưng tên học giả này quên rằng Lý Quang Diệu là Singapore chứ không phải là Trung Hoa và lại càng không phải Hán. Quyết định duy trì tiếng Anh làm ngôn ngữ chính ngay từ thời gian mới độc lập là một phần trong tầm nhìn xa của họ Lý để chuẩn bị cho Singapore dễ dàng hội nhập vào thế giới toàn cầu hóa năm chục năm sau.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Lý Quang Diệu và nhiều lãnh đạo sáng suốt ở châu Á đã lợi dụng chính sách chống CS của Mỹ ở châu Á để hợp tác và phát triển kinh tế với Mỹ, nhờ đó, không chỉ nền kinh tế Singapore mà nhiều nước nhỏ khác ở châu Á như Nam Hàn, Đài Loan cũng đã lần lượt cất cánh và trong một thời gian ngắn được thế giới ca ngợi như là những con rồng châu Á.

"Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể không có mặt ở đây hôm nay"
Như Joseph Chinyong Liow, thuộc Viện Nghiên Cứu Brookings, phân tích trong bài bình luận Lý Quang Diệu, con người và giấc mơ hôm 22 tháng 3 vừa qua, chính lý tưởng và tầm nhìn đã giúp Lý Quang Diệu đưa Singapore từ một quốc gia bị trị, phân hóa chính trị, CS hoành hành, xung đột chủng tộc, thiếu thốn tài nguyên thiên thiên trở thành một nước hiện đại, được nhân loại khắp năm châu kính nể.

Lý Quang Diệu, một lần, thừa nhận đã có can thiệp vào đời sống riêng tư của người dân nhưng như ông biện luận "Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể không có mặt ở đây hôm nay”. Đúng thế, lịch sử Singapore hiện đại đã chứng minh một cách hùng hồn rằng Lý Quang Diệu có lẽ là lãnh đạo có lập trường quốc gia duy nhất không những tồn tại mà còn xóa bỏ được cả một hệ thống CS tại Singapore và đưa đất nước ông thăng tiến vượt lên trên phần lớn nhân loại.



Trần Trung Đạo

Tham khảo:

- Lee Kuan Yew: The Crucial Years, Alex Josey, Marshall Cavendish International 2012, p10-p15.
- National and Colonial Questions For The Second Congress Of The Communist International, Lenin, 5 June, 1920 (https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/jun/05.htm)
- The Cold War in Asia (1945-1990), National Archives of Australia, 2007
- Malayan Communist Party
(http://en.wikipedia.org/wiki/Malayan_Communist_Party)
- Workers' Party of Singapore
(http://en.wikipedia.org/wiki/Workers%27_Party_of_Singapore)
- Internal Security Act (Singapore) http://en.wikipedia.org/wiki/Internal_Security_Act_(Singapore)
(http://www.nationalreview.com/article/415871/lee-kuan-yews-greatest-accomplishment-may-not-have-been-singapores-economic-success
- Barisan Sosialis (http://en.wikipedia.org/wiki/Barisan_Sosialis)
- Lim Chin Siong (http://en.wikipedia.org/wiki/Lim_Chin_Siong)
- Lee Kuan Yew, Early Political Career (http://en.wikipedia.org/wiki/Lee_Kuan_Yew#Early_political_career.C2.A0.E2.80.93_1951_to_195)
- Lee Kuan Yew’s Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success (http://www.nationalreview.com/article/415871/lee-kuan-yews-greatest-accomplishment-may-not-have-been-singapores-economic-success)
- Fong Swee Suan (http://eresources.nlb.gov.sg/infopedia/articles/SIP_2013-07-29_173512.html)
- Lai Teck (http://en.wikipedia.org/wiki/Lai_Teck)
- Singapore (http://en.wikipedia.org/wiki/Singapore)
- Malaysia (http://en.wikipedia.org/wiki/Malaysia)
- Lai Teck - the traitor of all traitors, Barry Wain, 2011 (http://heresthenews.blogspot.com/2011/01/lai-teck-traitor-of-all-traitors.html)
- Was Lee Kuan Yew an Inspiration or a Race Traitor? Chinese Can’t Agree (http://www.chinafile.com/reporting-opinion/media/was-lee-kuan-yew-inspiration-or-race-traitor-chinese-cant-agree


Nguồn: Theo Trần Trung Đạo

Miền Nam và miền Bắc

Ts Nguyễn Hưng Quốc


Nguyễn Hưng Quốc : "Nghiên cứu về văn học cũng như văn hóa miền Nam trong tương quan so sánh với miền Bắc hay cả nước hiện nay không phải nhằm phục hồi chế độ miền Nam vốn đã thuộc về quá khứ xa lắc và cũng không nhằm gây chia rẽ vùng miền. Mà, theo tôi, chỉ nhằm hai mục đích chính: thứ nhất, công bằng với lịch sử; và thứ hai, để nhận diện đầy đủ hơn những thất bại trong chính sách văn học và văn hóa hiện nay, từ đó, tìm cách khắc phục.
Cứ quay lưng lại với thực tế và cứ ra rả với những khẩu hiệu láo khoét rỗng tuếch về những thành tựu đầy ảo tưởng, chúng ta chỉ kéo dài sự thất bại mà thôi. Chả hay ho gì!"

__________________________________________________________________

Mới đây, đọc trên blog của nhà phê bình Vương Trí Nhàn ở trong nước, tôi bắt gặp một đoạn nhan đề “Gợi ý từ một nhà kinh tế" với một số nhận xét bất ngờ và thú vị.
Đoạn viết khá ngắn, tôi xin phép được chép nguyên văn: “Ông Đặng Phong, một nhà lịch sử kinh tế qua đời. Tôi biết ông nhân một lần đọc cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 do ông chủ biên, thấy có nhắc thoáng qua một điều gần như ai cũng nghĩ nhưng ít ai viết: trước 1975, kinh tế miền Nam đã ở trình độ cao hơn kinh tế miền Bắc. Tự ngẫm nghĩ, thì thấy đúng thế, không thể khác được, không thể nói ngược như chúng tôi vẫn nói, hoặc lảng tránh cho là cấm kỵ, và lấy những chuyện khác nói át đi.
Nhìn rộng ra thấy không chỉ kinh tế tốt hơn mà giáo dục miền Nam lúc đó cũng hơn; không chỉ đường xá tốt, mà tư cách cá nhân của con người trong đó nói chung cũng trưởng thành hơn con người miền Bắc, trình độ hiểu biết và tuân thủ luật pháp tốt, giữa người với người có mối quan hệ tử tế, thanh thiếu niên lúc đó ham học và biết học hơn. Như vậy dễ dàng công nhận là trình độ sống của bà con trong ấy cao, nhất là dân thành phố. Dấn thêm một bước, trong đầu tôi thấy vụt lên cái ý, liệu có thể nói rằng, xét trên phương diện hiện đại hóa, là con đường tất yếu mà xã hội phải trải qua, nhân dân miền Nam đã đi xa hơn, đạt tới tầm mức văn hóa cao hơn? Như vậy bản thân khái niệm văn hóa mà lâu nay tôi vẫn hiểu cũng phải được xem xét lại chăng ? Tôi sẽ tự phản bác lại nhiều lần trước khi đi đến kết luận … Nhưng càng đọc Đặng Phong ý tưởng trên càng không rời khỏi tôi."
Đúng như Vương Trí Nhàn nói, điều Đặng Phong và ông nhận xét "gần như ai cũng nghĩ nhưng ít ai viết”. Bản thân tôi đã nghe một nhận xét như thế từ một bậc tài hoa nhưng nổi tiếng bảo thủ ở miền Bắc: nhà phê bình Hoài Thanh. Sau năm 1975, Hoài Thanh và bà vợ dọn vào Sài Gòn ở. Có hai hay ba lần gì đó, đâu khoảng 1980, một người thầy cũ thường rủ tôi đến thăm ông. Câu chuyện thường lan man từ văn học đến xã hội.
Một lần, Hoài Thanh chép miệng nói, đại khái: “Bản chất của chế độ nguỵ là xấu vậy mà không hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi rối rít. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân ngoài Bắc vào."
Đặng Phong so sánh về kinh tế, Hoài Thanh nói về văn hóa ứng xử, còn Vương Trí Nhàn bàn về văn hóa nói chung. Người ta có thể thắc mắc: Vậy, ở những lãnh vực khác thì sao? Như văn học, mỹ thuật hay âm nhạc, chẳng hạn? Có gì khác giữa miền Nam và miền Bắc cũng như giữa miền Nam trước đây và cả nước bây giờ?

Trong một bài phỏng vấn do Thụy Khuê thực hiện, in trên tạp chí Hợp Lưu số 103 ra vào tháng 1 và 2, 2009, sau, đăng lại trên trang Viet-studies của Trần Hữu Dũng, cũng chính Vương Trí Nhàn đã nêu lên một nhận xét sơ khởi. Theo ông, so với văn học miền Bắc, văn học miền Nam thể hiện “rõ hơn" và "đầy đủ hơn” những “đau khổ của con người” và những "tình thế bi thương, đau đớn, cả sự bơ vơ, bất lực, trong đời sống”. Khác với văn học miền Bắc, văn học miền Nam, một mặt, tiếp nối được truyền thống cách tân trong văn học tiền chiến; mặt khác, tiếp cận được với văn học thế giới, “sử dụng các quan niệm các phương thức của văn hóa phương Tây để diễn tả đời sống con người hiện đại”. Văn học miền Nam cũng có những yếu tố hiện thực và nhân đạo mà văn học miền Bắc không có.
Tất cả những nhận xét nêu trên, về kinh tế, văn hóa hay văn học đều khá sơ lược. Một sự so sánh công bằng và chính xác cần nhiều nỗ lực hơn nữa. Vần cần xuất phát từ một tầm nhìn cao hơn nữa. Tiếc, những nỗ lực và tầm nhìn ấy, cho đến nay, vẫn còn tiềm ẩn đâu đó. Trên sách vở cũng như trong học đường, văn học và văn hóa miền Nam vẫn còn để trống, không ai nhắc đến, hoặc nếu nhắc, cũng nhắc với sự xuyên tạc và mạ lị như trong thời kỳ còn chiến tranh.

Cũng xin nói luôn, trích lại đoạn văn của Vương Trí Nhàn cũng như kể lại lời nhận xét của Hoài Thanh, tôi không hề muốn khoét sâu vào óc kỳ thị địa phương vốn đầu độc mối quan hệ giữa những người cùng một nước.
Thứ nhất, sự kỳ thị và chia rẽ vùng miền ở Việt Nam đã quá trầm trọng; chúng ta không cần và cũng không nên làm trầm trọng thêm nữa. Nó không có ích gì cả. Ở một thời đại toàn cầu hoá như hiện nay, khi mọi người đang tìm cách xoá mờ dần ranh giới và những khoảng cách giữa các quốc gia cũng như giữa các nền văn hoá, luôn luôn đề cao sự khoan dung và cởi mở, cổ xuý cho cách nhìn liên văn hoá (intercultural) và xuyên văn hoá (cross-cultural) mà người Việt mình cứ lại nhấp nhổm với chuyện Nam/Trung/Bắc thì không những vô duyên mà còn nguy hiểm, không những lạc hậu mà còn phản tiến hoá.

Thứ hai, không nên quên, liên quan đến con người, bất cứ sự khái quát hoá vội vã nào cũng đều bất cập và rất dễ sai lầm: ở miền Nam, không hiếm người thô bạo, thậm chí, thô bỉ, ngược lại, ở miền Bắc, không hiếm người cực kỳ nhã nhặn và lịch sự, rất "hiện đại" và ở tầm văn hoá cao. Thứ ba, cũng không nên quên, trước đây, ít nhất là trước năm 1954, ở miền Bắc, đặc biệt, ở Hà Nội, người dân nổi tiếng là thanh lịch. Sau này, gặp lại một số người Hà Nội thuộc thế hệ cũ, tôi vẫn bắt gặp cái dáng vẻ thanh lịch truyền thống ấy. Ngôn ngữ họ thanh lịch. Tác phong họ thanh lịch. Cách hành xử của họ cũng thanh lịch. Nét thanh lịch ấy không còn thấy ở các thế hệ trẻ hơn.

Cho nên, những khác biệt giữa hai miền, Nam và Bắc, không nằm ở con người. Cũng không nằm ở truyền thống, nơi ưu thế rõ ràng là nghiêng hẳn về phía miền Bắc. Sự khác biệt chủ yếu nằm ở chế độ. Liên quan đến chế độ, ở khía cạnh chúng ta đang bàn, yếu tố quan trọng nhất là văn hoá, trong đó nổi bật nhất là văn hóa chính trị, tức những cách diễn dịch cũng như những quy phạm và quy ước mà mọi người cùng chia sẻ về quyền lực và trách nhiệm. Những quy ước và những quy phạm ấy không phải tự nhiên mà có. Chúng là những gì người ta thụ đắc trong môi trường giáo dục, từ gia đình đến học đường và xã hội. Trong việc thụ đắc ấy, vai trò của chế độ đóng vai chủ đạo: Chính chế độ, cụ thể là nhà nước, quyết định về chương trình giáo dục cũng như nội dung của truyền thông đại chúng, qua đó, hình thành những mẫu người mà họ cần và muốn. Trong suốt hơn nửa thế kỷ, lúc nào nhà cầm quyền cũng tuyên dương hình tượng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nhìn lại, chúng ta chỉ thấy có một điểm trong mẫu hình con người mới ấy thành hiện thực và được phổ biến: tính thiếu thật thà.
Nghiên cứu về văn học cũng như văn hóa miền Nam trong tương quan so sánh với miền Bắc hay cả nước hiện nay không phải nhằm phục hồi chế độ miền Nam vốn đã thuộc về quá khứ xa lắc và cũng không nhằm gây chia rẽ vùng miền. Mà, theo tôi, chỉ nhằm hai mục đích chính: thứ nhất, công bằng với lịch sử; và thứ hai, để nhận diện đầy đủ hơn những thất bại trong chính sách văn học và văn hóa hiện nay, từ đó, tìm cách khắc phục.

Cứ quay lưng lại với thực tế và cứ ra rả với những khẩu hiệu láo khoét rỗng tuếch về những thành tựu đầy ảo tưởng, chúng ta chỉ kéo dài sự thất bại mà thôi. Chả hay ho gì!


Nguyễn Hưng Quốc

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

ĐÃ TÌM RA KẺ KÝ LỆNH CHẶT CÂY VÀ CÁC ĐƠN VỊ GÓP TIỀN CHẶT CÂY







Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch UBND Tp Hà Nội - người ký lệnh tàn phá cây xanh HN.

Ảnh: Vẻ mặt của ông Hùng lúc bắt đầu họp báo.(Ảnh của MotThegioi)
Nhà báo Son Kieu Mai

Thông tin chính thức từ Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội, có 2 đơn vị đỡ đầu vụ đốn cây là:

1- Ngân hàng Việt Nam thịnh vượng VP Bank, mỗi nhân viên góp 30k.
2- Cán bộ chiến sĩ Công an Thành phố Hà Nội đóng góp từ 15-20k.

Hoan hô các đồng chí.
Mùa xuân Hà Nội đốn cây!

Da, cụ tỉ thế này bác ạ. Chiều nay UBND TP Hà Nội tổ chức họp báo về việc xử tử cây xanh. Ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm nhiệm ký bút trảm cây chủ trì. Ông ấy cho biết việc chặt cây thì kinh phí do doanh nghiệp đóng góp, cụ thể ở đây là Ngân hàng Việt Nam thịnh vượng (VP bank) và có cả cổ phần của Công an Hà Nội. Việc chặt cây là đúng chủ trương, đúng quy trình, có mỗi cái là doanh nghiệp quá nôn nóng nên chặt đồng loạt. Zá như doanh nghiệp cứ trảm từ từ thì dân tình không nháo nhác dư lày đâu, He he.
____________

Nhưng có bác còn bổ sung bằng văn bản này, cho thấy không chỉ có hai nhà tài trợ đâu:





Luật sư Vu Hai Tran

Tôi yêu cầu ông Phó chủ tich UBND thành phố Hà nội Nguyễn Quốc Hùng và ông Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội Lê Văn Dục từ chức ngay .

Nhà văn Pham Nguyen Truong

Mình đề nghị cuộc vận động cách chức Lê Văn Dục, Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội và tống cổ Phan Đăng Long, Phó ban Tuyên giáo Thành ủy HN, bắt hắn về nhà đuổi gà cho vợ.
_____________

Chiều nay, ngày 20-3, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Quốc Hùng chủ trì cuộc họp báo về “Cải tạo, thay thế” cây xanh trên đô thị địa bàn TP.

Cuộc họp báo này lúc đầu định tổ chức tại Sở Xây Dựng HN (52 Lê Đại Hành). Giấy mời đã gửi đến các báo. Nhưng chắc là TP HN sợ dân kéo đến biểu tình phản đối chính quyền, vì sáng nay đã có cuộc biểu tình ở Nhà hát Lớn. Địa bàn Sở Xây dựng HN ở gần khu vực Triển lãm Vân Hồ địa thế khá hiểm, lại là địa bàn không quen thuộc đối với công an Hà Nội nên cuối cùng phải dời cuộc họp báo về trụ sở UBND TP Hà Nội ở 12 Lê Lai (sát gần Tượng Lý Thái Tổ).

Từ 13h30 tôi và vài người bạn đã có mặt ở Sở Xây Dựng, uống trà đợi bà lão Lê Hiền Đức đi taxi đến. Chúng tôi đến là để xem có ông dám vẫn bảo rằng "DÂN RẤT ĐỒNG THUẬN CHẶT CÂY" thì để chúng tôi lên bẻ ngay mấy cái răng ông ta đi. Nhưng mà khi vào hỏi thì mới được thường trực ở Sở này thông báo là chuyển về phòng 209 ở bên Ủy ban TP. Lại tức tốc chạy sang bên ấy.

Ngang qua chân tượng cụ Lý thì thấy một đám người đang kê sàn, sắp đặt cho một hoạt động ngoài trời nào đó. Có lẽ họ đoán rằng Chủ nhật này lại có biểu tình chăng?

Đến nơi, thấy rất đông công an mặc cảnh phục hẳn hoi, trang bị rất đầy đủ đứng ngay cổng vào, sát đường Lê Lai. Tôi và cụ Lê Hiền Đức đếm được khoảng 2 chục chú. Các chú này, già có, trẻ có, chú nào cũng lừng lững như võ sĩ thời cổ, mặt lạnh như kem, đứng sắp hàng hai bên như một hàng rào danh dự đón nguyên thủ quốc gia nào đó. Mấy chỉ huy còn có máy bộ đàm nữa. Cứ như đám nhà báo sắp tấn công cảm tử các sếp của họ. Đã thế bên kia đường, lại có mấy chú an ninh chìm quen mặt thỉnh thoảng đánh mắt sang bên này xem có biến hay không. Lão bà Lê Hiền Đức bảo: Ở đây chỉ cần 2 người là đủ, sao lại lãng phí thế này.

Về sau, đi về rồi, đọc stt của Son Kieu Mai thì biết Công an Hà Nội có góp tiền để chặt cây, có nhẽ là bên Công an HN cũng đến thị uy để các ngòi bút báo chí oằn oằn cong cong đi tý chăng?!






Cụ bà Lê Hiền Đức và tôi vào, họ hỏi giấy, hỏi thẻ đỏ nhưng mà chúng tôi không có. Cụ Đức gọi cho Phan Đăng Long thì anh này nói chiều nay cháu không họp báo. Lạ quá! (Đoán là Thành ủy không dám cho cái anh chàng ngơ ngẩn này ra trình công chúng nữa, vì sợ mất mặt nên giấu anh ấy đi?). Nhưng anh này hẹn sẽ nhờ bên ủy ban cho người ra cổng đưa cụ vào. Đợi mãi, leo cây mãi, đành ra về.
Với cánh báo chí thì cũng chẳng khá hơn. Ngay từ đầu, các phóng viên đã vấp phải vấn đề giấy mời. Rất đông các nhà báo bị ách lại ngay cổng ủy ban. Nhưng chỉ vài phút sau những phóng viên có thẻ Nhà báo đã được giải quyết cho vào dự.

Xem ra, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội tỏ rõ vẻ sợ sệt khi tổ chức cuộc họp báo chiều nay.

Không tin, các bác cứ gọi điện cho ông Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Quốc Hùng và Chánh văn phòng Nguyễn Thịnh Thành mà xem, giờ này, chắc tim vẫn đập thình thịch!
____________


PHẢI CHĂNG BỌN CHÓP BU HÀ NỘI ĐÃ VÀ ĐANG LỪA DÂN ?


Phó chủ tịch thành phố Hà Nội:
Nôn nóng chặt cây là do... nhà tài trợ
Báo Thanh Niên
20/03/2015 15:51


TNO - Tại buổi họp báo chiều nay 20.3, ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch UBND TP.Hà Nội khẳng định chủ trương thay thế cây xanh ở Hà Nội là đúng, tuy nhiên có một số sai lầm, như việc các đơn vị tổ chức thực hiện thiếu thông tin minh bạch và “có sự nôn nóng của các nhà tài trợ”.


 Nguyễn Quốc Hùng, Phó chủ tịch UBND TP.Hà Nội tại cuộc họp báo
Theo ông Hùng, việc thay thế cây xanh trên các tuyến phố được thực hiện bằng nguồn kinh phí xã hội hóa, trong đó, Ngân hàng Việt Nam thịnh vượng đã huy động 30.000 đồng từ mỗi nhân viên, Công an TP.Hà Nội vận động mỗi cán bộ đóng 15.000 - 20.000 đồng. Song, ông Hùng không tiết lộ tổng kinh phí xã hội hóa là bao nhiêu.

“Trong sự việc này, chúng tôi khẳng định không có bất cứ lợi ích nhóm nào hay tiêu cực gì ở đây. Sự đóng góp của các tổ chức xã hội là tấm lòng hảo tâm rất quý”, ông Hùng nói, đồng thời xin tiếp thu những phản ánh của dư luận về sự thiếu sót của các đơn vị chức năng gây nên bức xúc xã hội.

"Chúng tôi sẽ nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và xin hứa từ nay trở đi, trong mỗi quyết sách được ban hành sẽ thận trọng lắng nghe, cầu thị tất cả ý kiến người dân, nhà khoa học, hội nghề nghiệp xã hội”, ông Hùng nói.

Tại cuộc họp, có tới 21 nhà báo, phóng viên của các báo Trung ương và Hà Nội đặt hàng loạt câu hỏi về chủ trương chặt hạ cây xanh nhưng không nhận được câu trả lời cụ thể nào từ ông Hùng.

Thái Sơn - Lê Quân_____________

Nôn Nóng chặt là do nhà tài trợ
Nôn Nóng (Nôn ngay ra) là do nuốt không trôi với dư luận.

Nhà giáo Nguyễn Đức Thạch đặt con toán:


*NẾU trồng mới một cây xanh cho Hà Nội tốn 10.000.000 đ THÌ 6.700 cây sẽ tốn 67.000.000.000 (sáu mươi bảy tỷ) - thực ra chi phí cho việc này là 73 tỷ.


*NẾU mỗi cán bộ, chiến sĩ công an Hà Nội và nhân viên VP Bank "ủng hộ" 25.000 đ (tính bình quân) THÌ 400 người sẽ 'góp" đủ một cây.


*NẾU 400 người góp đủ một cây THÌ cần 400 x 6.700 = 2.680.000 (người) tham gia đóng góp.


(Nếu muốn GOM ĐỦ 73 TỶ với định mức đóng góp là 25.000đ/ người thì cần 2.920.000 người tham gia.)


CÂU HỎI: tổng số cán bộ, chiến sĩ công an Hà Nội và nhân viên VP bank là bao nhiêu người?________

Nhà báo Sơn Kieu Mai viết:
Xã hội hoá?

Theo nguồn tin thì vụ chặt cây xanh ở Hà Nội là vốn ngân sách.
Thế ra mấy chú roanh nghiệp là lê lai à?













Nhưng ở đây thì: