Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

Bốn khó khăn về mặt tâm lý - xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lăng


Mạc Văn Trang

Mưu đồ xâm lăng, thống trị Việt Nam đã được Trung Cộng tính toán từ lâu, thực thi từng bước, mà bất cứ ai là người dân Việt có chút lương tri, trách nhiệm với đất nước đều thấy rõ. Một số vụ việc cụ thể, tiêu biểu là: Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa 1974; chiếm đoạt một số cứ điểm quan trọng sau chiến tranh biên giới phía Bắc 1979; đánh chiếm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa 1988; lấn chiếm khoảng 1500 km2 trong quá trình xác định, ký kết Hiệp định biên giới Việt – Trung (1999) và gần đây là hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, kèm theo đó là những hành động xâm lăng tàn bạo, thái độ trâng tráo, bất chấp tất cả, đúng nghĩa một kẻ xâm lược trắng trợn, đòi độc chiếm Biển Đông…

Thực tế là “ta càng nhân nhượng, giặc càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta”, khuất phục dân ta, bắt dân ta phải sống dưới sự cai trị của chúng. Ách cai trị của Trung Cộng không phải để “khai hóa văn minh” như các nước tư bản phương Tây, mà là sẽ phát động những cuộc “cách mạng văn hóa” để tiêu diệt hàng chục triệu người làm Trung Cộng “ngứa mắt” (?); là thực hiện mưu đồ diệt chủng như Pôn Pốt đã làm ở Campuchia; là tiến hành quá trình Hán hóa như ở Tây Tạng, Tân Cương; là sẵn sàng cho xe tăng nghiền nát nhiều ngàn người trong một đêm, tại cuộc biểu tình mồng 4 tháng 6 năm 1989 ở quảng trường Thiên An Môn… Đó là viễn cảnh của Việt Nam dưới ách cai trị của Trung Cộng.

Trước thực tế này, Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng cầm quyền duy nhất phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước dân tộc trong cuộc chiến chống xâm lăng của Trung Cộng. Đây là cuộc chiến khó khăn, phức tạp hơn nhiều so với cuộc kháng chiến chông Pháp (1946 – 1954) và “Chống Mỹ cứu nước” (1955 – 1975). Khó khăn về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao… xin dành cho các nhà chuyên môn. Tôi chỉ nói mấy khó khăn về khía cạnh tâm lý - xã hội.

1. Nhân dân Trung Hoa không thể như nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ, thấy được tính phi lý của giới cầm quyền và tính chính nghĩa của Việt Nam. Do sống trong chế độ cộng sản toàn trị, tàn bạo hàng nửa thế kỷ, với cơ chế tuyên tuyền áp đặt một chiều, bưng bít thông tin, khủng bố những người khác ý kiến với Đảng Cộng sản, người dân Trung Hoa bị thuần hóa để chỉ “nghĩ, nói, làm theo Đảng”, lại bị nhồi sọ tư tưởng dân tộc cực đoan đại Hán, nên hiếm người biết sự thật và dám lên tiếng phê phán chính quyền, ủng hộ chính nghĩa của Việt Nam. Ngay cuộc chiến tranh xâm lược biên giới 1979 mà đến nay người dân Trung Hoa vẫn tin đó là “cuộc chiến tự vệ”, “Đi dạy cho bọn khiêu khích Việt Nam một bài học” (!?). Trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lăng hôm nay chẳng hy vọng có những Henri Martin, Raymondienne và phong trào nhân dân Pháp phản đối chiến tranh Đông Dương; cũng chẳng hy vọng có Norman Morrison tự thiêu và phong trào xuống đường rầm rộ của nhân dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh tại Việt Nam… Như vậy là giới cầm quyền Trung Cộng có hậu phương yên ổn, để huy động sức người, sức của cho cuộc chiến xâm lăng một cách thuận lợi. Hơn nữa Trung Cộng còn dùng thủ đoạn “đánh ngoài, để dẹp trong” như hồi chiến tranh biên giới 1979…

2. Cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lăng không được thế giới ủng hộ mạnh mẽ. Cuộc chiến này không có “Liên Xô, Trung Quốc, phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế” ủng hộ như trước nữa. Những nước “xã hội chủ nghĩa” Triều Tiên, Cu Ba èo uột có ủng hộ Việt Nam không? Hai người anh em “sống chết có nhau” trên bán đảo Đông Dương, bây giờ nghe Trung Cộng hay nghe Việt Nam? Còn nhân dân thế giới chẳng quan tâm đến cuộc chiến này đâu, vì nó không phải là những trận B52 ném bom hủy diệt, chấn động nhân loại; nó là cuộc xâm lược âm thầm, “vừa ăn cướp vừa la làng”, “vừa đấm vừa xoa”, “bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”… Chính phủ các nước cũng chẳng ủng hộ Việt Nam lắm đâu, vì “kệ hai thằng cộng sản diệt nhau cho chết nốt”. Nhiều chính phủ các nước có dính líu nợ nần, làm ăn với Trung Cộng, dễ gì bỏ qua những món lợi do chúng mồi chài… Hơn nữa, Trung Cộng luôn lớn tiếng “giải quyết song phương”, bên ngoài đừng can thiệp vào; và ông Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng của ta cũng tuyên bố tại hội nghị Shangri-La (31/5/2014) về tính chất của xung đột Trung – Việt chỉ là: “Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi.” Vậy là chuyện có tính “nội bộ”, còn ai muốn xía vô!

3. Lòng dân trăm mối ngổn ngang. Các cuộc chiến trước đây “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một ý chí”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Trên dưới một lòng”, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”!... Biết bao nhiêu cán bộ, đảng viên chỉ có hai bàn tay trắng, cứ bám vào dân là được dân che chở, nuôi sống, giúp đỡ… Nay thì khác hẳn. Nhiều người, nhiều nhóm lợi ích coi quyền và tiền trên cả độc lập, tự do. Thực ra độc lập, tự do đã bị Đảng Cộng sản Việt Nam đem đi cầm cố cho Trung Cộng ở Thành Đô năm 1990 để đổi lấy sự sống còn của Đảng và chế độ cho đến hôm nay. Các giai tầng trong xã hội có sự phân tâm ghê gớm. Tôi vừa nghe một doanh nhân nói oang oang trước một đám người đáng bậc cha chú: “Nó hơn một tỉ ba dân, chỉ ra lệnh cho mỗi người uống một chai la-vi rồi đái ra là dân mình chết ngập mẹ hết rồi, cần gì phải đánh” (!). Lại nghe một Đại tá quân đội nghỉ hưu nói: “Âm binh nó yểm khắp nơi rồi. Phải vũ trang toàn dân, từng thôn, xã, huyện, tỉnh là những đơn vị sẵn sàng chiếu đấu tại chỗ, quân đội tập trung vào những mũi chính”… Ông Trung tá công an hưu trí liền nói: “Chúng nó không dám phát súng cho dân đâu. Nó sợ dân có súng, chưa bắn Tàu, bắn bể đầu chúng nó trước” (?). Trong khi đó rất nhiều người dân cho rằng: mình càng hèn, nó càng bắt nạt, mình dám đương đầu, nó sẽ chờn. Hơn nữa, mình không sợ, dám dũng cảm đương đầu thì mới nghĩ ra được cách đánh và cách thắng, chứ hèn nhát, run sợ thì còn nghĩ ra cái con mẹ gì! Bà hàng xóm nhà tôi bảo: Đêm nào em cũng cầu kinh, mong cho Trời Phật, anh linh bác Hồ, bác Giáp và các anh hùng liệt sĩ về gây bão tố đánh chìm tan tác cái giàn khoan với tàu bè chúng nó đi! Gần đây, “tứ trụ triều đình” đều lên tiếng khá mạnh mồm, nhưng dân không mấy tin tưởng, thậm chí có người còn bảo “Nó diễn đấy!”. Khi tôi đăng bài: “Khí phách của Thủ tướng và trí, dũng của ngư dân” trên Tễu blog, có người nhắn vào điện thoại: “Đả đảo Mạc Văn Trang”! Một ông bạn GS gọi điện bảo: “Nó diễn thế mà cậu cũng tin à?”… Dân vẫn không hiểu, sao đến giờ ta vẫn chưa dám kiện Trung Cộng ra Tòa án quốc tế? Khi người Việt ở hải ngoại sôi sục biểu tình phản đối Trung Cộng xâm lăng, có người ở trong nước phải ra nước ngoài để được tự do biểu tình, thì Chủ tịch Quốc hội kêu gọi người Việt ở hải ngoại “gìn giữ quan hệ hữu nghị Việt - Trung”… (tại phiên họp bế mạc của Quốc hội, 24/6/2014). Dân ta không hiểu ông có ý gì? Ngày 26/6/2014 tại TP Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trương Tấn Sang tiếp xúc cử tri, đã bị chất vấn rất nhiều về vấn đề bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Khi ông nói rằng: Vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, “Năm nay không xong thì năm tới, mười năm này không xong thì mười năm sau, đời ta không xong thì đến đời con cháu, phải dứt khoát như vậy”... (Tuổi Trẻ 27/6/2014), nhiều người dân đã có phản ứng tiêu cực… Tóm lại, đa số dân ta quyết chống Trung Cộng xâm lăng, nhưng không còn tin Đảng và cũng không biết tin ai, tin vào cái gì! Một trạng thái tâm lý - xã hội cực kỳ nguy hiểm.

4. Khó khăn lớn nhất, đẻ ra mọi khó khăn trên, là do Đảng Cộng sản Việt Nam coi Trung Cộng là đồng chí, anh em cùng ý thức hệ, dựa vào Trung Cộng để bảo vệ sự sống còn của Đảng Cộng sản Việt Nam, của chế độ “xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam, nhưng cũng luôn sợ hãi và không tin Trung Cộng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lừa dối dân để đi đêm với Trung Cộng nhiều chuyện mờ ám; những quan hệ mập mờ đó suốt mấy chục năm qua đã bị Trung Cộng tận dụng gây ra biết bao hậu họa khôn lường và giờ đây các thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đều như “Cá cắn câu biết đâu mà gỡ”, “há miệng mắc quai”… Nhiều người dân nói rằng: Cảm ơn cái giàn khoan Hải Dương 981, nhờ nó mà bản chất đại Hán, xâm lăng, lật lọng, đểu cáng của Trung Cộng (xưa nay vẫn được Đảng Cộng sản Việt Nam lập lờ che đậy), mới phơi bày ra hết, để mọi người dân Việt Nam nhận ra Trung Cộng vẫn là kẻ thù truyền kiếp nguy hiểm nhất, độc ác nhất… Ấy vậy mà trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này vẫn có những người muốn bấu víu vào cái “viển vông” “bốn tốt”, “16 chữ” để cứu vãn tình thế… Có ông tuyên huấn vẫn nói: Mặc dù bị tàu “bạn” đâm, va nhiều lần, nhưng các chiến sĩ của ta vẫn bĩnh tĩnh, tuyền truyền, giải thích… “Bạn” cái con mẹ gì nữa! Nó là giặc cướp biển rõ rành rành ra đó. Đảng Cộng sản Việt Nam nói năng ấp úng, thái độ bất nhất, hành động ngập ngừng là vì lướng vướng những ràng buộc với Trung Cộng, khiến đầu óc bấn loạn, tư duy lộn xộn, mặc cảm sợ hãi, ám ảnh chứa chất trong tâm can… Như thế thì còn đâu bản lĩnh, dũng khí của đảng cầm quyền để dẫn đạo nhân dân!

*

Giải pháp tốt nhất để vượt qua những khó khăn trên là: Đảng Cộng sản Việt Nam phải dũng cảm, dứt khoát thoát khỏi những ràng buộc lướng vướng với Trung Cộng, vì chính nó đã xé bỏ trước rồi; thoát khỏi ý thức hệ “đồng chí, anh em”, vùng ra khỏi nanh vuốt của con ác thú, dù phải đau đớn nhất thời; phải dựa hẳn vào dân, tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh vô địch là lòng yêu nước của mọi tầng lớp dân ta. Nếu lịch sử cần thì cũng sẽ xuất hiện những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung… của thời nay. Chỉ khi Đảng dám tuyên bố “Không có gì quý hơn Độc lập của Tổ quốc, Tự do của nhân dân”, dám thoát khỏi nanh vuốt của Trung Cộng và thay đổi “căn bản toàn diện” thể chế, đem lại dân chủ, tự do thật sự cho nhân dân mới đoàn kết được toàn dân, lấy lại niềm tin của dân, tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc. Nhờ đó mới cứu được nước, cứu được dân và cứu được Đảng. Bởi vì quy luật xã hội đã chỉ rõ: Độc đảng, độc quyền dẫn đến độc tài, tàn bạo là tất yếu sẽ bị diệt vong như mọi chế độ độc tài trong lịch sử nhân loại. Nếu Đảng đủ trí, dũng tự “xoay trục” lần này thành công, dân cũng thể tất cho những lỗi lầm đã qua. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ còn một cơ hội thôi! Nếu Đảng tự “thoát Trung” và đưa đất nước phát triển theo con đường sáng của nhân loại, thì ba khó khăn còn lại cũng sẽ được giải tỏa:

- Cải cách thể chế, dân chủ hóa ở Việt Nam sẽ có tác động mạnh mẽ đến xã hội Trung Quốc – điều mà Trung Cộng sợ nhất. Tác động đôminô chuyển đổi thể chế ở Việt Nam đến Trung Quốc, một xã hội đang chất chứa đầy những ung nhọt, trên đất nước bao la với gần 1,4 tỉ dân, sẽ khó lường hết những gì sẽ diễn ra. Phong trào dân chủ của nhân dân Trung Hoa khi xuất hiện chắc sẽ nhìn rõ bản chất xấu xa của giới cầm quyền và có những phản ứng thích đáng. Sẽ xuất hiện những người lên tiếng phê phán đường lối đối nội và đối ngoại phản động của Trung Cộng… Chỉ khi cả Việt Nam và Trung Quốc chuyển sang thể chế dân chủ thực sự thì mới hy vọng xây dựng được tình hữu nghị thân thiện, hợp tác, bình đẳng…

- Một khi Việt Nam đưa đất nước hòa nhịp vào quỹ đạo của các nước văn minh, tiến bộ, thực sự chấp nhận những giá trị chung phổ quát của nhân loại thì nhất định sẽ được nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng cảm, ủng hộ mạnh mẽ; chính phủ nhiều nước sẽ sẵn lòng hợp tác, ủng hộ Việt Nam… Một liên minh quốc tế mới để bảo vệ độc lập, tự do và phát triển đất nước sẽ được hình thành.

- Và điều cơ bản nhất, khi đó mọi tầng lớp nhân ta ở trong và ngoài nước sẽ xóa bỏ những rào cản tâm lý - xã hội, thật lòng đoàn kết thành một khối thống nhất để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Yêu nước không còn phải gắn với “yêu Đảng Cộng sản”, “yêu chủ nghĩa xã hội”, yêu nước không còn bị kiểm duyệt… Tổ quốc và nhân dân trên hết! Lòng yêu nước sâu thẳm của mọi người dân Việt lại trỗi dậy, thăng hoa trước thử thách sống còn: “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh).

30/6/2014

M. V. T.

Tầm của Quốc hội và Đại biểu Quốc hội quá thấp!



FB Phạm Đình Trọng

29-06-2014

TẦM CỦA QUỐC HỘI THẤP HƠN TẦM ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ ĐẤT NƯỚC. TẦM CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI THẤP HƠN TẦM CỦA NGƯỜI DÂN, THẤP HƠN ĐÒI HỎI CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Quốc hội họp trong cơn nóng thế sự ngút trời người dân cả nước hừng hực căm phẫn China nghênh ngang đưa giàn khoan xâm lược vào sâu trong vùng biển của ta. Chủ quyền, lãnh thổ bị xâm phạm. Danh dự, phẩm giá đất nước bị làm nhục. Người dân càng tủi nhục và đau xót hơn khi đối mặt với kẻ xâm lược ở chính trường thế giới, người có trách nhiệm bảo vệ đất nước không biết đến danh dự, không biết đến trách nhiệm, chỉ lo ve vãn, mơn trớn, lấy lòng kẻ xâm lược. Nguy khốn hiển hiện ngay trước mắt: mất biển dẫn đến mất nước đã cận kề. Những người cầm quyền chỉ lo giữ đảng để giữ ghế quyền lực. Không lo giữ nước, họ còn mang lợi ích đất nước ra đánh đổi lấy sự bảo lãnh chiếc ghế quyền lực, bổng lộc của họ. Những tâm hồn Việt cảm thấy bơ vơ, cuộc sống vô nghĩa, người Việt ở trong nước và ngoài nước nối tiếp tự thiêu. Như người dân Tây Tạng nối tiếp tự thiêu trong nỗi đau, nỗi nhục của người dân nô lệ bị China cướp mất đất Tây Tạng.

Đất nước như vậy, người dân như vậy nhưng Quốc hội vẫn dửng dưng chỉ dành một buổi cho Quốc hội chia thành các đoàn nhỏ vào các phòng nhỏ đóng kín cửa lại như nói thầm với nhau về biển Đông rồi lại bình thản lên hội trường lớn, lớn tiếng hào hứng bàn luận những chuyện tầm phào và nguội lạnh: đo mức độ tín nhiệm quan chức, thay đổi thẻ công dân… Tầm phào vì quan chức nhà nước do đảng sắp đặt. Theo lệnh đảng, Quốc hội bấm nút bầu họ vào các chức danh do đảng sắp đặt cũng chỉ để hợp thức hóa sự sắp đặt đó mà thôi. Quan chức cấp thấp do tỉnh ủy quản lí, cấp cao hơn do ban chấp hành trung ương, cao hơn nữa do ban Bí thư, bộ Chính trị quản lí. Đảng sắp đặt thì đảng chịu trách nhiệm, quan chức ngồi vào chiếc ghế quyền lực do đảng sắp đặt chỉ để hưởng bổng lộc, đâu có trách nhiệm gì với Quốc hội, với người Dân. Người dân và Quốc hội đâu có vai trò gì đến chiếc ghế bổng lộc của quan chức mà đòi bỏ phiếu tín nhiệm với họ!

Không có Nghị quyết với cơ quan hành pháp có trách nhiệm về việc lãnh thổ bị xâm lược, không có Tuyên bố với thế giới việc China ngang nhiên xâm chiếm vùng biển Việt Nam, Quốc hội chỉ ra thông cáo về biển Đông. Thông cáo chỉ là văn bản hành chính thông tin những sự việc tự nhiên, thông thường và chỉ có tính nội bộ. Với cách hành xử đó, Quốc hội hoàn toàn không cùng nhịp đập với trái tim người Dân, không cùng nỗi niềm lo toan việc riêng việc chung, việc dân, việc nước của người Dân. Tầm của Quốc hội quá thấp so với tầm của người Dân!

Ở nhà nước độc tài, những việc có nội dung dân chủ chỉ được thực hiện một cách hình thức, trống rỗng và vô nghĩa. Sau mỗi kì họp Quốc hội, các ông bà nghị lại về tiếp xúc chiếu lệ với vài chục cử tri chọn lọc, ngoan ngoãn, phục tùng. Danh nghĩa là các ông bà nghị tiếp xúc cử tri, lắng nghe tiếng nói cuộc sống từ cử tri. Nhưng đó là những cử tri đã được chọn lọc. Người Dân có tiếng nói trung thực, đúng đắn của cuộc sống đất nước thì không bao giờ được chọn. Chỉ có những cử tri luôn đồng tình, tán dương với mọi việc làm của đảng và nhà nước mới được tiếp xúc với “đại biểu của Dân”. Với họ, đảng và nhà nước bao giờ cũng sáng suốt, cũng đúng, chỉ có đôi lúc người thực hiện chưa tốt mà thôi. Tiếp xúc với những cử tri như vậy, ông bà nghị liền trở về vị trí quan lớn trong bộ máy nhà nước mà họ đang đảm nhiệm để ban phát lời vàng cho Dân, để báo chí giật chữ lớn lời của họ trên trang báo.

Ông nghị đang ngồi ghế Chủ tịch nước là ông nghị bự. Có thói quen vuốt đuôi cử tri, khi người Dân nhức nhối chuyện tham nhũng của bộ máy công quyền, ông nghị bự liền gọi đám tham nhũng đó là một bầy sâu. Bầy sâu lúc nhúc đó đang đục ruỗng đất nước, Dân biết từ lâu. Dân còn biết rõ từng con sâu lớn, sâu nhỏ. Nhưng Dân đen không thể đụng được đến bầy sâu đầy quyền lực đó. Thấy ông nghị bự cũng biết đến bầy sâu đó, Dân hi vọng, chờ đợi. Nhưng ông nghị bự nói chỉ để lấy lòng dân. Nói rồi để đấy. Bầy sâu cứ sinh sôi phát triển.

Lần này, lấy lòng Dân không gì tốt hơn là nói về biển Đông: “Phải giành lại chủ quyền. Đời ta không xong thì đến đời con cháu”! Nói như vậy là nhà nước cộng sản Việt Nam dựa vào sức mạnh cộng sản China để tồn tại sẽ chẳng dám làm gì với China đành để mất biển, mất đảo, đẩy nỗi đau mất mát cho con cháu!

Tìm mọi cách vay nợ nước ngoài thật nhiều để có nhiều tiền bòn rút, đẩy gánh nợ oằn lưng cho con cháu. Đào bới, vơ vét cạn kiệt tài nguyên cho đầy túi tham, đẩy cho con cháu một đất nước tan hoang những bãi thải ngập ngụa bùn đỏ, sông đen ô nhiễm. Liên minh ý thức hệ với China, cam chịu cho China cướp đất cướp biển, để lại cho con cháu gánh nặng phải giành lại núi sông biển trời của tổ tiên đã bị mất mát. Ôi, người Dân đang sống trong nhà nước độc tài đảng trị đã bất hạnh mà đến đời con đời cháu dù không còn nhà nước độc tài cộng sản nhưng với di sản nhà nước độc tài để lại, con cháu còn quá bất hạnh!

Tầm của những ông nghị bà nghị thấp hơn tầm người Dân, tất yếu tầm Quốc hội thấp hơn tầm thời đại, thấp hơn mặt bằng xã hội. Vì thế luật Quốc hội làm ra bao giờ cũng ở phía sau đời sống xã hội. Luật cứ sửa hoài cũng không bao giờ theo kịp cuộc sống!

Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ: Chọn “đồng chí” hay quốc gia, dân tộc?



Giáo dục VN

Trần Sơn Lâm

30-06-2014

(GDVN) – Trung Quốc từng giúp Việt Nam, nhưng cũng từng bán đứng và xâm lược Việt Nam…Đến nay, chủ quyền lãnh thổ, có nên xem xét dưới góc “đồng chí, anh em”?

LTS: Tác giả Trần Sơn Lâm, từng là người lính trong chiến tranh vệ quốc cuối thế kỷ 20, đồng thời là nhà khoa học. Khi hòa bình lập lại, ông tham gia công tác chính quyền và nhiều năm nắm giữ vị trí Hàm vụ trưởng, Vụ khoa giáo-văn xã của Văn phòng Chính phủ. Với kinh nghiệm thực tế và dưới nhãn quan của một nhà nghiên cứu khoa học, ông đã viết bài báo này gửi riêng cho Báo Giáo dục Việt Nam. Tòa soạn xin đăng nguyên văn, với mục đích góp thêm một góc nhìn mới của tác giả về giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa nước ta và Trung Quốc, hiện rất căng thẳng kể từ khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trên biển Đông.


Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả!



Việc Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan 981 tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam đã gây nên một cuộc khủng hoảng tồi tệ trong quan hệ giữa 2 nước.

 

Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp luật pháp và dư luận quốc tế.

Lâu nay lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta cũng vẫn luôn mong muốn giữ quan hệ hữu nghị giữa hai nước theo phương châm 16 chữ và 4 tốt để có môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.

Tuy nhiên đại đa số quần chúng nhân dân tin rằng phải đặt mối quan hệ giữa hai nước Việt – Trung trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng chủ quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, cần giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế mà các nước đã tham gia ký kết.

Qua vụ giàn khoan 981, các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện sự lắng nghe, tiếp thu những tâm tư tình cảm này của nhân dân và đã có những phản ứng kịp thời, phù hợp, đúng luật pháp quốc tế nhưng vẫn đanh thép trước Trung Quốc.

Trung Quốc từng giúp Việt Nam, nhưng cũng từng bán đứng và xâm lược Việt Nam

Chúng ta cũng cần nhìn nhận một sự thật là người dân Việt Nam hay Trung Quốc đều luôn mong muốn hòa bình và không có chiến tranh. Với Việt Nam đã liên tục trải qua những năm chiến tranh khốc liệt, hơn ai hết lại càng khát khao hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển.

Tuy nhiên dường như những nhà lãnh đạo Trung Quốc không phải ai cũng có mong muốn ấy. Họ luôn giữ tâm thái nước lớn, bao giờ cũng muốn các nước khác phải theo mình, sẵn sàng làm mọi thứ có lợi cho mình mà coi thường, chà đạp ích chính đáng, hợp pháp của dân tộc khác.

Là một nước láng giềng cạnh Trung Quốc, Việt Nam bao đời này luôn là mục tiêu nhòm ngó của các triều đại phong kiến, cho đến bây giờ lãnh đạo của họ vẫn không thôi âm mưu thôn tính lãnh thổ, lãnh hải nước ta.

Việc nhân dân Trung Quốc từng giúp Việt Nam trong kháng chiến giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, chúng ta ghi nhận và biết ơn họ đã nhường cơm, xẻ áo cho chúng ta trong những năm chiến tranh ác liệt. Nhưng chúng ta cũng cần ghi nhớ rằng, chính những người lãnh đạo Trung Quốc cũng có mục đích dùng Việt Nam làm lá chắn để Mỹ và phương Tây không áp sát được biên giới Trung Quốc, dùng Việt Nam làm tiền đồn để Trung Quốc chống Mỹ.

Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, Trung quốc đã không ép được ta theo họ chống Liên Xô. Năm 1972, Mao Trạch Đông đã gặp Richard Nixon, và sau cuộc gập này Mỹ đã thực hiện phong tỏa toàn bộ đường biển của Việt Nam và ném bom ác liệt nhằm đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá bằng máy bay B 52.

Năm 1974, với sự bật đèn xanh của Mỹ, Trung Quốc đã cất quân xâm lược, đánh chiếm nốt phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thời điểm đó đang do chính phủ Việt Nam Cộng hòa đại diện dân tộc Việt Nam quản lý chờ ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo Hiệp định Geneva năm 1954 mà chính Trung Quốc cũng tham gia ký kết, nhiều quân nhân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc trước ngoại bang.

Năm 1975 Việt Nam thống nhất, diễn biến này xảy ra quá nhanh chóng và ngoài ý muốn của Trung quốc. Một lần nữa, khi không ép buộc được Việt Nam thay đổi đường lối độc lập tự chủ, chống Liên Xô, Trung Quốc đã tìm mọi cách gây chia rẽ giữa Việt Nam và Campuchia, kích động hằn thù dân tộc, giật dây Khơ Me Đỏ gây chiến tranh ở biên giới phía Tây Nam với ta suốt từ năm 1975 đến 1979 giết hại hàng vạn người dân vô tội.

Đỉnh cao của tư tưởng Sô vanh Đại Hán, tháng 3/1979 lãnh đạo Trung Quốc đã xua 60 vạn quân tấn công toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, giết hại hàng chục vạn dân thường vô tội mà Đặng Tiểu Bình đã láo xược nói rằng để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Mặc dù sau 1 tháng tấn công xâm lược, quân Trung Quốc bị thất bại thảm hại phải rút về nước nhưng vẫn thường xuyên nã pháo qua biên giới sang Việt Nam cho mãi đến năm 1989.

Năm 1988 Trung Quốc lại cất quân xâm lược, đánh úp 6 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, giết hại nhiều chiến sĩ của quân đội ta. Và suốt từ đó cho đến nay, cậy mình có lực lượng quân sự hùng mạnh luôn tỏ rõ ý đồ tham lam độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã ban hành nhiều lệnh cấm đánh bắt cá phi lý, đánh đập, bắt giữ, ức hiếp, phá nát, đâm chìm tầu đánh cá của ngư dân, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu ngư dân Việt Nam.

Họ đã điều các tàu hải giám, tàu cá ngụy trang ngang nhiên cắt cáp và quấy nhiễu của các tàu nghiên cứu khoa học Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của ta. Đỉnh điểm của sự lộng hành này chính là vụ hạ đặt trái phép giàn khoan 981 ngay trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, thể hiện sự coi thường pháp luật quốc tế với tư tưởng bá quyền, cá lớn nuốt cá bé.

Về mặt kinh tế ngoài việc khuyến khích thương nhân Trung Quốc thực hiện các hành vi phá hoại nền kinh tế của ta như mua vó bò, mua đỉa, lá vải, hoa thanh long…họ còn tìm mọi thủ đoạn để đội vốn, đưa công nghệ lạc hậu vào các dự án, công trình của ta làm ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển kinh tế và hiệu quả của đồng vốn đầu tư của Việt Nam.

Qua các hành vi trên, quả thực không thể hiểu nổi giới chức Trung Quốc theo hệ tưởng gì, nó hoàn hoàn toàn xa lạ với các học thuyết tư tưởng, tôn giáo tiến bộ của nhân loại. Những hành động của lãnh đạo Trung Quốc đối với láng giềng chỉ cho thấy một lòng tham vô đáy, bành trướng, hung hăng.

Trung Quốc không chỉ bành trướng lãnh thổ, mà còn di cư ồ ạt những người thuộc dân tộc Hán đến các quốc gia khác và đang gây ra những vấn đề nhức nhối, dẫn đến phản ứng gay gắt về sắc tộc tại những khu vực này. Tại đất nước họ, sự phân hóa giầu nghèo, khoảng cách phát triển và bất công xã hội đang tăng lên. Tất cả những vấn đề này đang làm cho xã hội Trung Quốc bất ổn, đời sống người dân bất an, đánh bom khủng bố nổ ra liên tục. Điều đó cho thấy chính các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn không được lòng dân của họ.

Đây là gốc của vấn đề chúng ta cần làm rõ để xác định rõ ràng rằng, Nhà nước ta khác với Trung Quốc. Chúng ta đặc biệt tôn trọng lợi ích dân tộc, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình cũng như của các nước láng giềng. Chúng ta không đi xâm lược, chúng ta không gây hấn, khiêu khích với ai, nhưng chúng ta cũng sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Khởi kiện Trung Quốc là lựa chọn tốt nhất cho Việt Nam, phải dựa vào luật pháp quốc tế để bảo vệ chủ quyền

Việc chúng ta khởi kiện Trung Quốc xâm lược, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, 7 bãi đá ở Trường Sa (năm 1988, 1995) và cả những hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam như vụ giàn khoan 981 ra tòa án quốc tế việc là một việc làm rất cần thiết, vì đây là đất của ta, vùng biển của ta đã được Hiệp định Geneva công nhận và bản thân Trung Quốc đã ký vào hiệp định này.

Theo thăm dò trên các mạng xã hội cho thấy, kết quả tính đến ngày 27/6 trong tổng số người được hỏi tại báo mạng Dân trí có 250375(96%) tán thành kiện Trung Quốc, có 9126(4%) không tán thành. Các báo mạng khác đều cho thấy tỷ lệ tán thành ý kiến kiện Trung Quốc luôn ở tỷ lệ đa số.

Bản thân hội Luật gia Việt Nam cũng đã hai lần tuyên bố phản đối hành động của Trung Quốc và khẳng đỉnh cần kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế và nêu rõ nếu kiện chúng ta sẽ thắng.

Tôi cho rằng, việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế cũng sẽ làm cho quan hệ của ta với Trung Quốc trở nên bình thường, bớt căng thẳng và không gây nên nguy cơ xung đột quân sự vì nếu Việt Nam và Trung Quốc không tự phân xử được thì để quốc tế phân xử.

Trung Quốc có thể không tham gia vào vụ kiện này và có thể không chấp nhận mọi phán quyết của Tòa án Quốc tế, nhưng thế giới văn minh sẽ thấy rõ bản chất côn đồ, ngoài vòng pháp luật của Trung Quốc và uy tín quốc tế của họ sẽ xuống dốc.

Đến thời điểm này, không đắn đo gì nữa, chúng ta cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, dư luận quần chúng chính là Hội Nghị Diên Hồng trong thế kỷ 21 và phải xác định rõ mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc là mối quan hệ bình đẳng giữa hai nước độc lâp, có chủ quyền, bình đẳng, phải tôn trọng lợi ích, sự toàn vẹn lãnh thổ theo các hiệp định quốc tế đã được 2 bên cùng ký kết, cần giải quyết mọi bất đồng theo luật pháp quốc tế.




Việt Nam – Tàu: vẫn hữu hảo


FB Nguyễn Văn Tuấn

29-06-2014







Đọc cái công văn về 16 việc phải làm của Bộ Ngoại giao VN gửi cho các bộ và một số uỷ ban nhân dân tỉnh thành (xem bài “Hữu nghị viển vông” hay cúc cung phục vụ tỉnh Quảng Đông?” trên diendan.org [1]) tôi thấy rất thú vị nếu đặt trong bối cảnh chung. Hoá ra, trong lúc dầu sôi lửa bỏng ngoài Biển Đông thì trên mặt đất quan hệ giữa hai đảng cộng sản VN và Tàu vẫn rất … hữu hảo.

Số là từ ngày 13/4 đến 17/4/2014 (tức chỉ vài tuần trước khi Tàu đem giàn khoan cắm vào biển VN) ông Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa có một chuyến viếng thăm VN. Không biết họ, phía VN và Xuân Hoa, bàn những gì, nhưng ngày 3/6/2014, Bộ Ngoại giao VN gửi một công văn cho các bộ và một số tỉnh thành yêu cầu phải làm 16 việc cụ thể, có lẽ là những việc VN đã hứa với Hồ Xuân Hoa. Trong số 16 việc đó, 2 việc đầu là thúc đẩy hai vị bí thư TPHCM và Hà Nội sang thăm Quảng Đông, và trong vòng 5 năm gửi 300 cán bộ đảng sang Quảng Đông để Tàu đào tạo.

Nói về đào tạo, trong lúc Biển Đông đang dậy sóng thì trong thời gian 15/6 đến 24/9/2014 phía VN cử một đoàn cán bộ cấp vụ sang Tàu để “nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm công tác xây dựng đảng tại Trung Quốc” [2]. Tôi không biết những người được cử đi học ở Tàu họ nghĩ sao khi mỗi ngày báo chí cứ đưa những tin như Tàu Trung Quốc vẫn hung hăng ngăn cản tàu Việt Nam thực thi pháp luật, Cậy nước lớn, hà hiếp láng giềng, Tàu Trung Quốc như cướp biển, chồm lên đâm vỡ tàu VN, Tàu Trung Quốc vẫn hung hăng, manh động, Tàu Trung Quốc đồng loạt vây ép tàu Việt Nam, Tàu Trung Quốc bố trí đội hình vây ép tàu Kiểm ngư Việt Nam, v.v. Họ có cảm thấy đau khi ngư dân VN bị tàu của Tàu đâm vào và chết. Nhưng có lẽ khi ở Tàu thì họ đâu được đọc những tin đó; ngược lại, có thể họ được TV Tàu nói rằng tàu của VN húc vào tàu của Tàu hơn 1500 lần!

Mấy hôm trước, có một người thuật lại buổi họp nội bộ đảng để phổ biến tình hình Biển Đông. Đại khái, quan điểm của đảng là đảng viên không được bày tỏ quan điểm trên mạng xã hội, dùng ngoại giao để đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng quan trọng nhất vẫn là giữ quan hệ với Tàu là giữ được chế độ, và Mĩ là kẻ thù lâu dài [3]. Ưu tiên số 1 rõ ràng là giữ cho được chế độ, còn ưu tiên hai là gì chúng ta không biết.

Tất cả những thông tin này đều một cách nhất quán nói lên một điều mà người dân đã nghi ngờ từ lâu: VN đã quyết định chơi với Tàu. (Nhưng Tàu thì công khai nói rằng họ không bao giờ xem VN là đồng minh). Vì tự xem Tàu là đồng minh, nên tranh chấp giữa VN và Tàu về vụ giàn khoan HD981 theo quan điểm của lãnh đạo VN chỉ là chuyện trong nhà, rất nhất quán với những gì phía VN nói ở Singapore hôm đầu Tháng 6. Do đó, có thể đoán rằng trong tương lai VN sẽ không có hành động có ý nghĩa nào để ngăn chận sự lấn lướt của Tàu ở Biển Đông, kể cả không kiện Tàu ra toà án quốc tế. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tại sao các lãnh đạo cao cấp của VN đều im lặng trước các hành động hung hãn của Tàu trên Biển Đông. Điều đó cũng có nghĩa là tất cả những đấu tranh chống Tàu cộng trên mặt thông tin và khoa học của các học giả nước ngoài đều phí công và mất thời gian.

——
[1] Có thể xem bản sao của công văn qua trang web sau đây: “Hữu nghị viển vông” hay cúc cung phục vụ tỉnh Quảng Đông ?

[2] – Đoàn cán bộ Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu về công tác xây dựng đảng tại Trung Quốc

[3] Won Chun Hoe – Đi nghe tuyên huấn nói chuyện về biển Đông sáng nay

Nguồn ảnh: Hoangsa.org

Lê Duẩn và Trung Quốc

 Copy từ Blog Hồng Phương Đặng

Lê Duẩn, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam là một khuôn mặt về mưu mô và thao lược có lẽ chỉ đứng sau ông Hồ Chí Minh. Đó là một trong những lý do Hồ Chí Minh chọn ông làm Bí thư thứ nhất sau cuộc cải cách ruộng đất nhiều tai tiếng. Là một người cộng sản, Lê Duẩn kiên trì theo đuổi đường lối của Hồ Chí Minh là thống nhất Việt Nam và đặt cả nước dưới chế độ cộng sản. Ông đã chống lại một cách có kết quả chính sách của Mao Trạch Đông không muốn thấy miền Bắc chiếm miền Nam dù bằng hiệp thương bầu cử hay bằng vũ lực. Đối với Trung Quốc một Việt Nam chia đôi, miền Bắc không thể mạnh để thành một mối lo cho Trung Quốc, đồng thời làm trái độn ở biên giới phía Nam giúp Trung Quốc tránh sự tiếp cận với các lực lượng quân sự Hoa Kỳ.

Từ khi bị áp lực của Trung Quốc ký Hiệp định Geneve chia đôi dất nước, Lê Duẩn thấy rõ chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam trong hơn một ngàn năm qua không có gì thay đổi. Thay đổi chăng là thay đổi lối nói mồm miệng, từ “thiên triều và thuộc quốc” thành “anh em trong khối xã hội chủ nghĩa” môi hở răng lạnh giả dối.
Theo hồi ký “Cuối đời nhớ lại” của ông Nguyễn Thành Thơ một đảng viên từng có chân trong Trung ương Đảng ghi lại rằng, khoảng cuối năm 1978 khi tình hình biên giới Việt – Campuchia và Việt –Trung căng thẳng, quân lính Campuchia thường vượt biên giới cướp của và giết người mà Việt Nam không có đối sách gì. Trong một dịp Tổng Bí thư Lê Duẩn đi thăm huyện Cần Giờ tháp tùng bởi Huyện ủy và 30 cán bộ cao cấp khác, Nguyễn Thành Thơ ghi:
“Lê Duẩn nói ‘Các anh có gì hỏi tôi giải đáp’ . Anh em phấn khởi rộ lên ‘Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man điên cuồng, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu’. Anh Lê Duãn trả lời ‘Các đồng chí hỏi đúng là một tình hình cả nước đều quan tâm, chúng tôi đau đầu lắm ngủ không được, không phải là vấn đề Khmer đỏ, vấn đề Pôn Pốt mà là vấn đề ai đằng sau Khmer đỏ, Pôn Pốt. Lần này ta có đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi, nhưng ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta.”
(Cuối Đời Nhớ Lại của Nguyễn Thành Thơ)

Nhưng để hiểu trọn vẹn cái nhìn của Lê Duẩn đối với Trung Quốc trong suốt thời gian từ những năm 1949 sau khi Mao chiếm Trung hoa lục địa thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, chúng ta cần đọc bài nói chuyện của Lê Duẩn với các tướng lãnh quân đội cộng sản Việt Nam (?) vào một thời điểm trong năm 1979 sau khi Trung Quốc tấn công vào biên giới Việt Nam (Bài nói chuyện của Lê Duẩn năm 1979) . Bài nói chuyện này được lưu trữ tại Thư viện Quân đội Nhân dân ở Hà Nội và do Christopher Goscha có được và dịch ra Anh ngữ cho Chương trình Lịch sử quốc tế về Chiến tranh Lạnh (Cold War International History Project – CWIHP) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Woodrow Wilson ở Washington D.C. [TBN: 1. giáo sư Gosha tốt nghiệp tiến sĩ sử học đại học Sorbonne, Paris chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại các nước Đông Nam Á.

Chúng ta đang nghiên cứu một bài nói chuyện của một Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Ngôn từ trong những đoạn trích dẫn sau là ngôn từ của một lãnh tụ cộng sản Việt Nam sau khi vừa chiến thắng Hoa Kỳ, có lúc cường điệu và tự phụ. Cốt lõi ở đây là chắt lọc cái nhìn của ông Lê Duẩn đối với Trung Quốc để rút ra những kinh nhiệm đáp ứng trong hoàn cảnh Việt Nam đang bị áp lực nặng nề của Trung Quốc]

Lê Duẩn cho biết sau Hiệp định Geneve và sau khi không có hiệp thương chuẩn bị bầu cử như Hiệp định dự liệu, Trung Quốc gây sức ép cho Bắc Việt Nam không được khởi động cuộc chiến tranh tại miền Nam, nhưng đảng cộng sản Việt Nam vẫn cương quyết phát động cuộc chiến. Lê Duẩn không nói ra, nhưng ai cũng biết Đảng Cộng sản Việt Nam có thể làm vậy vì có hậu thuẫn của Liên Xô.

Lê Duẩn nói với các cán bộ:
“Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneve, rõ ràng là Chu Ân Lai đã [ép] chia đất nước ta làm hai. Sau đó ông ta gây sức ép buộc chúng ta không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn chúng ta đứng lên nhưng họ không thể làm gì để ngăn cản chúng ta”

Theo Lê Duẩn, sau khi miền Bắc đã phát động chiến tranh du kích tại miền Nam, biết không ngăn được nên Mao Trạch Đông đổi cách suy nghĩ, lợi dụng cuộc chiến tại miền Nam để đưa quân vào Bắc Việt dòm ngó, chuẩn bị cho chương trình xâm lấn Việt Nam về sau:

Trích bài nói của Lê Duẩn:
“Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội đến giúp chúng ta xây dựng đường sá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác. Chúng ta biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.

Sau đó, Mao bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ. Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu. Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.”
Năm 1960 khi chiến tranh du kích tại miền Nam bắt đầu tăng cường độ, tại đại hội 3 của Đảng Cộng sản Việt Nam, [TBN: từ 5-10/9/1960 tại Hà Nội, Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn giữ danh vị Chủ tịch Đảng.] Trung quốc đã thuyết phục Đảng Cộng sản Việt Nam khuyến cáo Pathet Lào trả hai tỉnh giáp biên giới Việt Nam cho chính phủ Vientaine, nói là để tránh Mỹ đổ quân vào Lào, nhưng ý đồ thật của Mao là cắt tay cắt chân của Việt Nam, và sau này dùng chi viện rộng rãi mua chuộc Lào bủa một gọng kềm bên trái cùng với gọng kềm bên phải của căn cứ hải quân Yulin nằm ở cực nam đảo Hải Nam làm hai gọng kềm kẹp Việt Nam vào giữa.

Lê Duẩn nói với các cán bộ của mình:
“Khi chúng ta chuẩn bị chiến tranh du kích tại miền Nam sau khi ký Hiệp định Geneve, Mao Trạch Đông đã nói với Đại hội Đảng của chúng ta rằng, ngay lập tức, chúng ta phải buộc Lào chuyển hai tỉnh đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu không, người Mỹ sẽ tiêu diệt hai tỉnh này, một tình huống rất nguy hiểm theo cái nhìn của Trung Quốc! Mao đã bức hiếp chúng ta và chúng ta đã phải làm điều đó.”


Lê Duẩn giải thích sở dĩ Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam vì Liên Xô và Trung Quốc bất hòa nhau, và chính sách của Liên Xô và Trung Quốc về Việt Nam đối nghịch nhau. Liên Xô muốn Hà Nội khởi động chiến tranh tại miền Nam, Trung Quốc thì không muốn. Lê Duẩn dẫn chứng năm 1961 khi Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam còn là một khối (TBN: lúc đó dấu hiệu bất hòa chưa hiện ra bên ngoài) Tổng thống Kennedy đã không dám can thiệp vào Lào nên cùng với Nga và Trung Quốc trung lập hoá Lào và lập Chính phủ liên hiệp Quốc-Cộng tại Vientaine. Hoa Kỳ và Trung Quốc có cùng mục tiêu trong việc trung lập hóa Lào, chủ yếu là chắn con đường tiếp vận quan trọng từ bắc Việt Nam vào miền Nam để giảm thiểu khả năng xâm lăng miền Nam của Bắc Việt.

Lê Duẩn nói:
“Nếu Trung Quốc và Liên Xô thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta hay không. Nếu hai nước thống nhất và liên kết với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh chúng ta cái cách mà họ đã đánh. Họ sẽ do dự ngay từ đầu. Họ sẽ do dự như thời Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, tất cả đã giúp Lào và ngay lập tức Mỹ ký một hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân Mỹ sang Lào, họ để cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tham gia chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa. Sau đó, khi Liên Xô và Trung Quốc xung đột với nhau, Mỹ được Trung Quốc thông báo là họ có thể tiến tới và tấn công Việt Nam mà không sợ sự trả đũa của Trung Quốc.”

Trong một đoạn khác Lê Duẩn phán đóan rằng nếu không có sự đồng ý của Trung Quốc, Hoa Kỳ đã không dám gài mìn phong tỏa hải cảng Hải Phòng mùa hè năm 1972 và dùng B52 bỏ bom Hà Nội tháng 12 năm đó.

Lời Lê Duẩn:
“… Tuy nhiên, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã thảo luận làm thế nào để đánh chúng ta mạnh hơn, gồm các cuộc tấn công bằng bom B-52 và phong tỏa cảng Hải Phòng. Rõ ràng là như thế..”

Buổi nói chuyện của Lê Duẩn đã giải thích tại sao Hà Nội phát động cuộc chiến tranh vào các thành phố và trung tâm dân cư miền Nam trong dịp Tết Mậu Thân. Cường độ và địa bàn tấn công, gồm cả tòa Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm cho bộ tham mưu của tướng Westmoreland ngạc nhiên. Ngạc nhiên không phải vì không đoán trước Bắc Việt sẽ tấn công. Tình báo Hoa Kỳ đã ghi nhận sự chuyển quân của Bắc Việt. Ngạc nhiên vì tướng Westmoreland và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nghĩ rằng bộ đội cộng sản sẽ đánh mạnh vào các đơn vị quân đội Mỹ sau Tết và trong dịp ngưng bắn Tết họ chỉ quấy phá nhỏ. [TBN: Victory At any Costs by Cecil B. Currey, page 266-267].

Ngoài ra song hành với cuộc tấn công Mậu Thân nhiều sư đoàn thiện chiến của Bắc Việt bao vây căn cứ Khe Sanh, và các chiến lược gia Hoa Kỳ vẫn còn bình luận về mục tiêu chính của Bắc Việt là thu đoạt một thắng lợi dứt điểm tại Khe Sanh như họ đã thắng trước đây tại Điện Biên Phủ hay tấn công đồng loạt vào các trung tâm dân cư để tạo một cuốc nổi dậy. Lê Duẩn cho thấy Hà Nội không có ảo tưởng hạ căn cứ Khe Sanh trước hỏa lực của Hoa Kỳ. Bao vây Khe Sanh chỉ là kế “điệu hổ ly sơn” [TBN: đúng hơn là “điệu trâu lên rừng”].
Hà Nội cũng không có ảo tưởng gì nhân dân miền Nam sẽ nổi dậy. Vào năm 1967 Hoa Kỳ có hơn 500 nghìn quân tại Việt Nam. Quân đội chính quy Bắc Việt đã chạm trán với quân đội Hoa Kỳ trong thung lũng Ia Drang trong năm 1965 và phải trốn qua biên giới Lào để khỏi bị tiêu diệt nên biết rằng không thể đụng trận mãi với các sư đoàn quân Hoa Kỳ được. Lê Duẩn và Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam tính rằng nếu Hoa Kỳ đưa thêm quân vào Việt Nam thì trước sau Bắc Việt cũng thất bại. Nên chiến lược của Lê Duẩn là đánh một trận xả láng vào các thành thị miền Nam bất chấp quy ước, chấp nhận mọi tổn thất để tạo xúc động tâm lý tại Hoa Kỳ để Hoa Kỳ ngưng tăng quân và dọn đường thương thuyết.

Mục tiêu của Lê Duẩn đã đạt được. Bắc Việt đã tổn thất nặng nề về mặt quân sự, nhưng thắng lớn về mặt chính trị. Tổng thống Johnson đã không gởi thêm quân theo yêu cầu của tướng Westmoreland và đề nghị thương thuyết. Trớ trêu là lúc đó Trung Quốc ngăn cản không cho Hà Nội thương thuyết. Trung Quốc hứa sẽ gởi thêm súng đạn, đồng thời xúi dục Hoa Kỳ đổ thêm quân vào. Trung Quốc muốn Việt Nam đánh để kiệt quệ đến người lính cuối cùng. (Cách nói khác: Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng)

Lời Lê Duẩn:
“Sau khi Mỹ đưa hàng trăm ngàn quân vào miền Nam Việt Nam, chúng ta đã phát động cuộc tổng tấn công vào năm 1968 để buộc họ giảm leo thang. Để đánh bại Hoa Kỳ, một điều cần phải biết là làm thế nào để họ từ từ giảm leo thang. Đó là chiến lược của chúng ta. Chúng ta chiến đấu chống một kẻ thù lớn, kẻ thù với dân số 200 triệu người và thống trị thế giới. Nếu chúng ta không thể làm cho họ giảm leo thang từng bước, thì chúng ta sẽ thất bại và không thể tiêu diệt kẻ thù. Chúng ta phải đấu tranh để làm nhụt ý chí họ để buộc họ phải đi đến bàn đàm phán với chúng ta mà không cho phép họ đưa thêm quân.

Đến lúc Hoa Kỳ muốn thương lượng với chúng ta, Đại sứ Trung quốc tại Hà Nội Ho Wei đã viết một bức thư cho chúng tôi, nói rằng: “Các anh không thể ngồi xuống đàm phán với Hoa Kỳ. Các anh phải dụ quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam để đánh với họ”. Ông ta gây áp lực với chúng ta làm cho chúng ta bối rối vô cùng. Đây không phải là vấn đề đơn giản mà rất mệt mỏi. Chúng ta không nghe lời của Ho Wei. Chúng ta ngồi xuống ở Paris. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã thông báo với Mỹ: ‘Nếu các ông không tấn công tôi, tôi sẽ không tấn công các ông. Các ông muốn đưa vào Việt Nam bao nhiêu lính, tùy các ông’.

Lê Duẩn cho biết rằng có một lần Mao giả vờ không nhớ sử để cảnh cáo Lê Duẩn rằng, quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh bị Việt Nam đánh bại, nhưng quân Mao sẽ thôn tính Việt Nam, và Lê Duẩn đã phản ứng bằng cách cảnh giác rằng Việt Nam cũng sẽ đánh thắng quân Mao.

Lê Duẩn thuật lại cho các cán bộ nghe một mẫu chuyện giữa ông ta và Trường Chinh với Mao và Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh năm 1963. “Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi là Chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á”. Ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!
Cũng trong dip đó Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!
Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.
Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
Mao nói: Trời! Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có
tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

Mao không hỏi thẳng về Việt Nam, nhưng gián tiếp hỏi tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?”
Hiểu ý của Mao, tôi nói [nửa đùa nửa thật]: “Đúng. Nếu các ông đánh chúng tôi chúng tôi cũng sẽ đánh thắng các ông. Các ông có biết điều đó không?”

Qua bài nói chuyện của Lê Duẩn chúng ta thấy Trung Quốc, dù thuộc thể chế nào, vương triều, dân chủ hay cộng sản đều có mộng thôn tính Việt Nam. Và Việt Nam dù thuộc thể chế chính trị nào cũng cảnh giác manh tâm của Trung Quốc.

Quá trình cảnh giác của người cộng sản Việt Nam bắt đầu từ những năm 1954 khi Trung Quốc ép ông Hồ Chí Minh ký Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước. Và chính quyền hiện nay cũng có sự cảnh giác cao độ. Tuy nhiên, không gian xoay xở mỗi thời mỗi khác, và cách đáp ứng của chính quyền hiện nay chưa được xem là thích ứng với hoàn cảnh.

Thời đại của Hồ Chí Minh Hà Nội dễ xoay xở hơn vì có Liên Xô đối trọng với Trung Quốc. Và cho đến năm 1975, Trung Quốc còn yếu kém về cả hai mặt kinh tế và quân sự so với Hoa Kỳ.

Bối cảnh hôm nay khác hẵn. Liên Xô sụp đổ Hà Nội phải dựa vào Trung Quốc hơn để tồn tại. Kinh tế Trung Quốc hiện chỉ thua Hoa Kỳ, với một lực lượng quân sự hùng mạnh gấp nhiều lần quân đội cộng sản Việt Nam. Về mặt lãnh đạo, Lê Duẩn vừa có tài thao lược vừa có quyền quyết định (ngay cả khi ông Hồ Chí Minh còn sống vì được Hồ Chí Minh tin cậy) nên tuy có lúc ông phải nhượng bộ áp lực Trung quốc, ông vẫn rất cứng rắn trước các đòi hỏi quá đáng của Trung quốc. Sau khi Lê Duẩn chết (7/1986) các Tổng bí thư kế tiếp không ai mưu lược và có nhiều quyền quyết định như Lê Duẩn. Nhất là từ Đại hội 9 năm 2001 khi Nông Đức Mạnh lên Tổng bí thư, sự lãnh đạo tại Hà Nội càng ít bén nhạy hơn, và hiện nay với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng không có gì khá hơn.

Về mặt chiến lược từ tháng 4/2006 Hà Nội đã tìm cách xích lại gần Hoa Kỳ một cách dè dặt để tìm thế đối trọng với Trung Quốc. (Quan Hệ Việt Trung 1991-2008). Nhưng về mặt chiến thuật cung cách đối đáp của Hà Nội trước áp lực của Trung Quốc không thích hợp và được xem là nhu nhược đến độ người ta nghi ngờ Trung Quốc đã nắm trọn Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam trong tay.

Nước nhỏ cạnh nước lớn cẩn trọng về ngoại giao là cần, nhưng không được để cho sự cẩn trọng làm quốc gia bại liệt. Phải biết phản ứng khi cần thiết. Không thể để cho Trung Quốc bắn giết ngư dân hay cấm đánh cá trong vùng biển quốc tế mà không mạnh mẽ lên tiếng hay đưa nội vụ ra trước Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc dù biết Trung Quốc sẽ dùng phiếu phủ quyết. Không thể để cho tàu hải giám Trung quốc húc chìm thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam mà không dám minh danh tố cáo Trung quốc mà chỉ nói là “tàu lạ”. Không thể nể Trung Quốc mà không đưa vụ tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa ra trước Tòa án quốc tế trong khi Việt Nam có nhiều bằng chứng pháp lý chủ quyền, dù biết rằng tòa án quốc tế không thể thụ lý vì Trung Quốc sẽ không đồng ý kiện về chủ quyền đất đai. Việt Nam cần nghiên cứu các án lệ kiện chủ quyền đất đai trên thế giới để chuẩn bị cần làm gì để có nhiều may mắn thắng trước tòa quốc tế. Việc chính quyền Hà Nội vì tế nhị ngoại giao không lên tiếng chính thức và kịp thời trước các vụ lấn đảo lấn biển của Trung Quốc có thể là một bất lợi về sau. Và lệnh cấm nhân dân biểu tình chống hành động xâm lấn của Trung Quốc cũng có thể là một bất lợi pháp lý khác.

Trong bài nói chuyện Lê Duẩn có nói đến khung cảnh quốc tế mới để chứng minh rằng Trung Quốc không thể đánh Việt Nam mà không bị phản ứng của thế giới. Ông nói: “Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh nước ta để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh một cách dễ dàng. [Đầu năm nay] Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam”! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. Ngay cả trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.”

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2014

KIẾN NGHỊ BỘ NGOẠI GIAO CUNG CẤP THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ VỚI TQ



Tin nóng! Hồi 18h50′, thứ Tư, 6/7/11, – Chiều nay, một cán bộ cấp cao thuộc Bộ Ngoại giao đã gọi điện cho một trong các vị nhân sĩ tham gia ký tên trong bản Kiến nghị (BS xin không nêu tên cả hai người) và cho biết:

Lãnh đạo Bộ phân công ông liên lạc với các vị tham gia ký tên vào bản Kiến nghị để thông báo mời các vị đến Bộ Ngoại giao vào thứ Sáu tuần này để gặp và trao đổi. Khi được vị nhân sĩ cho biết ông đang đi công tác, đề nghị Bộ liên lạc với những người cùng ký tên, ông cán bộ BNG cho biết mình chỉ có số điện thoại của vị nhân sĩ này thôi.


Theo quan điểm riêng của một số vị nhân sĩ, trí thức cùng ký tên vào bản Kiến nghị:

1- Hoan nghênh quyết định trên của BNG.

2- Bộ Ngoại giao đã biết rõ những người tham gia ký tên, nhưng nếu cần thiết, có thể liên lạc với Văn phòng Luật sư Trần Vũ Hải (nơi đã trực tiếp chuyển bản Kiến nghị tới BNG) để thông báo việc này.

3- Để thể hiện tinh thần nghiêm túc, trọng thị và minh bạch trước việc làm cao cả của các nhân sĩ trí thức về một sự việc trọng đại của đất nước, Bộ Ngoại giao cần có giấy mời cho từng vị ký tên trong bản Kiến nghị.




CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

******

Hà Nội, ngày 2 tháng 7 năm 2011


KIẾN NGHỊ
YÊU CẦU BỘ NGOẠI GIAO CUNG CẤP THÔNG TIN
LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC



Kính gửi: Bộ Ngoại giao Việt Nam

1. Theo các thông tin báo chí, chúng tôi được biết ngày 25/6/2011, ông Hồ Xuân Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, đã có buổi gặp gỡ và làm việc với Ông Trương Chí Quân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Ông Đới Bỉnh Quốc, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc.

2. Ngày 28/6/2011, trên bản tin tiếng Anh của Tân Hoa Xã, đã có bài “China urges consensus with Vietnam on South China Sea issue” về cuộc gặp gỡ này trong đó có những thông tin:

(i) “Both countries are opposed to external forces getting involved in the dispute between China and Vietnam and vow to actively guide public opinion and guard against remarks or actions that undermine the friendship and trust between the people of the two countries, Hong said.”, tạm dịch như sau:

“Cả hai nước đều phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam và nguyện sẽ tích cực hướng dẫn công luận và ngăn ngừa những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị và sự tin cậy giữa nhân dân hai nước, theo ông Hồng Lỗi” ( Người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc)

(ii) “Chinese historical records show that in 1958, the Chinese government claimed the islands in the South China Sea as part of China’s sovereign territory, and then Vietnamese Premier Pham Van Dong expressed agreement in his diplomatic note to then Premier Zhou Enlai.”, tạm dịch như sau:

“Những hồ sơ lịch sử của Trung Quốc đã cho thấy rằng năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã khẳng định các hòn đảo trên Biển Hoa Nam như là bộ phận thuộc lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc, và kế đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã bày tỏ sự tán đồng trong bức thư ngoại giao ngắn của mình gửi tới Thủ tướng khi đó là ông Chu Ân Lai.”

Những thông tin trên chúng tôi không thấy đăng trên báo chí của Việt Nam.

3. Chúng tôi, những công dân Việt Nam ký tên dưới đây, căn cứ vào Điều 53- Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1992 (HP 1992) “Công dân có quyền … tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước,…”, và Điều 69 – HP 1992 “Công dân …có quyền được thông tin;…”, kiến nghị Bộ Ngoại giao Việt Nam như sau:

a.) Yêu cầu ông Hồ Xuân Sơn cho biết thông tin do Tân Hoa Xã đưa như đã trích mục 2 (i) nêu trên có đúng sự thật không ?

Trong trường hợp những thông tin trên của Trung Quốc không chính xác, yêu cầu phía Trung Quốc phải cải chính và xin lỗi.

b.) Cho biết quan điểm của Việt Nam về bức thư ngoại giao của Ông Phạm Văn Đồng năm 1958 nêu trong mục 2 (ii) trên đây ?

c.) Thông tin chi tiết (toàn văn) thỏa thuận đã đạt được (nếu có) giữa Ông Hồ Xuân Sơn và đại diện Trung Quốc trong buổi gặp đó.

Chúng tôi rất mong Bộ Ngoại giao sớm trả lời kiến nghị của công dân, thể hiện tôn trọng các quyền của công dân đã được ghi trong Hiến pháp.

Trân trọng,

Những người ký tên vào Bản kiến nghị này:
- Nguyễn Trọng Vĩnh
- Nguyễn Huệ Chi
- Hoàng Tụy
- Chu Hảo
- Phạm Duy Hiển
- Lê Hiếu Đằng
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Quang A
- Ngô Đức Thọ
- Trần Nhương
- Nguyễn Xuân Diện
- Phạm Xuân Nguyên
- Nguyễn Quang Thạch
- Cao Thị Vũ Hương
- Trần Vũ Hải
- Trần Kim Anh
- Hoàng Hồng Cẩm
- Nguyễn Văn Phương

“Hữu nghị viển vông” hay cúc cung phục vụ tỉnh Quảng Đông ?


Diễn Đàn


Sau chuyến thăm của Bí thư Quảng Đông, đây là 16 công việc mà các Bộ và tỉnh thành Việt Nam “phải làm”, được ghi rõ trong công văn của Bộ ngoại giao VN gửi các Bộ và UBND tỉnh, thành phố.

28-06-2014


Chúng tôi vừa nhận được, từ ba bạn đọc ở Hà Nội và Sài Gòn, bản chụp công văn số 1832/BNG/ đề ngày 03 tháng 6 năm 2014 của Bộ ngoại giao, do thứ trưởng Hồ Xuân Sơn ký tên, đóng dấu, liên quan đến “danh mục các công việc cần làm sau chuyến thăm Việt Nam của Bí thư tỉnh Quảng Đông Hồ Xuân Hoa“.

Công văn nay được gửi cho : một là, “Các Bộ Công Thương ; Kế hoạch và Đầu tư ; Giao thông Vận tải ; Giáo dục và Đào tạo ; Tài chính ; Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ; Khoa học và Công nghệ ; Văn hóa, Thể thao và Du lịch” ; hai là, “Ủy ban nhân dân các tỉnh / thành phố : Hà Nội ; Thành phố Hồ Chí Minh ; Quảng Ninh ; Hải Phòng ; Quảng Nam ; Đà Nẵng“.

Đính kèm công văn (1 trang) này là “Danh mục công việc phải làm sau chuyến thăm Việt Nam của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (13 – 17/4/2014)“



Dưới đây là toàn văn bản công văn :

“Ngày 20/5/2014, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc gửi Bộ Ngoại giao bản Danh mục các công việc cần làm sau chuyến thăm Việt Nam của Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư tỉnh ủy Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (13 -17/4/2014).

“Để triển khai tốt các chương trình hợp tác giữa các Bộ/ngành, địa phương ta với tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, Bộ Ngoại giao xin chuyển đến Quý Cơ quan Danh mục này để tham khảo, đưa vào chương trình hợp tác của Quý Cơ quan với tỉnh Quảng Đông.

“Bộ Ngoại giao xin trân trọng cảm ơn sự phối hợp của Quý Cơ quan./.”

Kèm theo là danh mục (hai trang) 16 “công việc phải làm” (xem hình kèm theo)





Để có một ý niệm cụ thể về công văn ký tên Hồ Xuân Sơn nhằm thực hiện ý muốn của Hồ Xuân Hoa, bí thư (hay tổng đốc ?) Quảng Đông, chỉ cần chép lại nguyên văn hai “công việc phải làm” số 1 và số 2 :

“1. Thúc đẩy Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị và Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải thăm Quảng Đông.

“2. Trong khuôn khổ bồi dưỡng đào tạo cán bộ giữa hai Đảng Trung Việt, triển khai công tác đào tạo cho cán bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Kế hoạch trong 05 năm đào tạo 300 cán bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ; trong đó Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi địa phương 100 cán bộ, 100 cán bộ của các tỉnh thành có quan hệ hợp tác với Quảng Đông nhiều như TP. Hải Phòng, Đà Nẵng, tỉnh Quảng Ninh, Quảng Nam“.

Thiết tưởng mọi bình luận là quá thừa.Câu hỏi duy nhất đáng đặt ra : đây là công văn của “Bộ ngoại giao Việt Nam” hay là của Sở nội vụ tỉnh Quảng Đông ?

B.T.

Buồn ơi, chào mi!



Hạ Đình Nguyên

Tháng 5 này, một cơn phẫn nộ, rồi phẫn uất đã tràn đến với toàn dân Việt Nam, rồi đến cuối tháng lại biến thành một nỗi buồn mênh mông, sau các phát biểu đều khắp của các lãnh đạo Nhà nước - Đảng.

Hóa ra đều đáng hoài nghi cả!

Dù đã có rất nhiều lời cảnh giác từ nhân dân, rằng không nên đặt hy vọng vào nơi không đúng chỗ, vào những con số đứng đầu trước một dãy hàng triệu con số không, thế mà niềm tin mơ hồ đó vẫn phất phơ bay. Những con số đứng đầu ấy đã hóa thành số âm.

Từ sự lên tiếng sớm sủa và rất hùng hồn không gây hiệu quả của ông Thủ tướng, đến việc lặp lại lời nguyền xa thăm thẳm của tiền nhân, do Chủ tịch nước truyền tải một cách vô hồn, lại đến lời kêu gọi thê thiết và mong ước mông lung về tình hữu nghị của ông Tổng Bí thư, đến cả cái quyết tâm im lặng của 500 con người đại biểu, giàn khoan HY 981 vẫn điềm nhiên sừng sững ở Biển Đông, các con tàu của bọn “hữu nghị” vẫn gào thét và đâm húc, đặc biệt tiếng đe dọa trịch thượng của thiên sứ Dương Khiết Trì còn vang vọng trên nóc Thủ đô: “Phụng khuyến Việt Nam tảo nhật hồi đầu” (khuyên bảo Việt Nam sớm quay đầu). Ở đó có diễn ra một cuộc khiêu vũ hóa trang!

Tiếng vọng ấy của Dương hôm nay đã đáp lại lời tiền nhân của nghìn năm trước vừa được nhắc lại, được chăng?

Cách đây không lâu, cả nước nghe lời trọng trách đầy hào sảng: “để cho Đảng lo”. Nay cũng hùng hồn một sự phân công màu nhiệm: “để mai sau con cháu lo”, mai sau là 10 năm, 100 năm, hay cho dù cuối thế kỷ cũng chưa chắc đã “hoàn thiện”. Cái mệnh đề cho tương lai khó lòng mà thoái thác. Cái quyết tâm chống trả đó của lớp anh hùng hôm nay, nghĩ cho cùng, thật là ghê gớm! Nó song hành với quyết tâm cũng đã từng rất lâu dài của đối phương. Con cháu đã nhận lãnh sự ủy thác thiêng liêng và vĩ đại. Người nhận vĩ đại thì người giao cũng vĩ đại vậy. Thấp thoáng ta nhớ lại hình ảnh của Nguyễn Phi Khanh ở cửa ải Nam Quan của “ngày xưa” trong ký ức, dặn Nguyễn Trãi: “Đừng bi lụy nữa, con hãy quay về mà lo trả thù cho cha, đền nợ cho nước”. Ngày nay, hẳn đã có nhiều Phi Khanh, và cũng nhiều Nguyễn Trãi? Nhưng cũng không tránh khỏi chút lòng ái tuất cho niềm hy vọng về sự vinh quang của những đứa trẻ đang và sẽ sinh ra đời của nhiều thế hệ, ở khắp hang cùng ngõ hẻm trên mảnh giang sơn này. Thế mà, sự im lặng nhịn nhục hôm nay được đội lốt là “thương dân” đấy.

Cũng không thể trách lời đối đáp ngạo mạn mà thông minh của bọn Dương Khiết Trì: “Đứa con đi hoang hãy quay trở về”. Họ đã trải lòng ra để đón nhận, bởi vì trước đó Phùng Đại tướng đã chẳng từng nói, chuyện của hai bên là “chuyện trong một nhà”, và Tổng Bí thư lần cuối chia tay cũng đã tha thiết bịn rịn tấm tình “hữu nghị” đó sao? Sao lại trách người ta đã dùng những từ ngữ nặng phần thân thiết? Thế mới biết đối phó với bên ngoài chẳng giống cách nói chuyện bề trên kiểu ăn gi trong làng, đánh địch không “đẹp” như đánh nông dân Đoàn Văn Vươn.

Cả bốn trụ cột lương đống và 500 rui mè sĩ phu đã cùng đoàn kết gắn bó, quyết tâm chịu lép một bề “không kiện”. Vì kiện là phạm điều khiêu khích bất kính, còn đâu cơ hội “tảo nhật hồi đầu”. Thằng Hoàn Cầu nói cũng đúng, gọi Dương Khiết Trì là ông thầy kiên nhẫn (“Patient Teacher”) đã “phụng khuyến” thành công.

Người dân ngẩn ngơ mà chấp nhận cái khoảnh khắc nặng nề đang lồ lộ bước đến, không thể chối từ, đành: Buồn ơi, chào mi!

H. Đ. N.

Tác giả gửi BVN.

CON ĐƯỜNG VIỆT NAM ?


Hoàng Quỳnh

Tôi là một trí thức ở Sài Gòn. Mấy hôm nay đứng trước sứ biến động của vận mệnh dân tộc, trong lòng nhấp nhổm không yên, ban ngày theo dõi tình hình mà lòng như có lửa đốt, đêm nằm trằn trọc, ưu tư… Xin viết ra đây vài dòng tâm huyết, hy vọng góp chút sức lực nhỏ bé để cùng với mọi người tìm ra con đường đúng đắn cho dân tộc trong thời điểm sinh tử này.

NÊN KIỆN HAY NÊN LÀM GÌ

Đi kiện không phải là điều quyết định

Thật ra đi kiện cũng là điều tốt, tốt hơn nhiều lần dậm chân tại chỗ mà không làm gì cả, vì nó thể hiện cái tinh thần phản kháng, không chấp nhận áp bức của dân tộc. Nhưng kiện không phải là điều cốt lõi nhất, càng không nên coi đó là tất cả!

Tại sao kiện không phải là điều thiết yếu nhất? Chúng ta đều thừa nhận với nhau là kiện để tranh thủ thêm sự ủng hộ của các nước, từ đó họ gây áp lực làm chùng bước Trung Quốc. Nhưng mọi người nên nhớ rằng, bản chất của Tàu cộng là dối trá và ngang ngược, không ai có thể gây áp lực lên nước này được bằng lời nói. Muốn làm cho nước này dừng lại, chỉ có cách là phải mạnh ngang bằng với họ, làm cho họ cảm thấy họ có thể bị tổn thương khi ức hiếp chúng ta. Điều này chúng ta chỉ làm được khi có liên minh quân sự với Mỹ, và có thêm Nhật, Ấn, Úc càng tốt

Nếu chúng ta thắng kiện thì có thể có thêm vài nước lên tiếng ủng hộ, chẳng giải quyết được vấn đề gì. Riêng Mỹ, Úc, Ấn, Nhật đứng về phía VN ngay từ đầu (nhưng không muốn làm đồng minh vì ta chưa có dân chủ), chẳng phải vì chính nghĩa gì cả, mà đó là sợ Trung Quốc nuốt trọn biển Đông, gây khó khăn cho lưu thông hàng hải của họ. Phải nói rằng, nếu VN có dân chủ, thì 4 nước này chìa cả 2 tay ra với VN mà đề nghị liên minh, còn bây giờ thì họ chỉ biết đứng ngoài và nói “ủng hộ” thôi, không thể làm gì hơn cả, dù VN có thắng kiện hay thua kiện. Còn ASEAN và EU thì chỉ dùng lời nói chứ không bao giờ dùng hành động. Nước Nga thì hiện tại và tương lai có mắc mướu quá lớn với TQ

Còn nếu chúng ta thua kiện thì sao. VN sẽ mất trắng. TQ sẽ dùng toàn lực đánh một trận để tống VN ra khỏi biển Đông. Các nước khác chỉ biết nói “rất tiếc” chứ không biết làm gì khác, vì TQ đang thực thi pháp luật quốc tế!. Chúng ta có khả năng thua kiện không? Điều này không có gì là chắc chắn, khi mà công hàm Phạm Văn Đồng còn đó, và VN cộng sản hiện tại vẫn được coi là kế tục của nhà nước VN DCCH trước kia. Ngoài ra, chưa chắc tất cả các quan tòa đều có cảm tình với VN, đều công tâm. Nên nhớ, cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền, mà rất nhiều tiền thì Trung Quốc có!

Ngoài ra một tác hại khác nữa là người dân và chính phủ VN sẽ ảo tưởng, xem kiện là tất cả việc cần làm, trong khi bỏ qua những cơ hội, những thời cơ để làm việc khác đem lại lợi ích thật sự hơn

Điều duy nhất cần làm: thúc đẩy dân chủ

Dân chủ, đó là điều cần làm duy nhất lúc này

Có nhiều người hỏi: không dân chủ vẫn có thể liên minh với Mỹ được không? Điều này hoàn toàn không thể xảy ra, trước tiên là vì quốc hội và người dân Mỹ không cho phép. Kế đến nữa là điều này quá rủi ro cho Mỹ, vì nếu VN vẫn là Cộng sản, thì sẽ có một ngày thằng Tàu cộng quay ra vuốt ve, o bế, lãnh đạo VN lúc đó sẽ ngả về Trung cộng, thì có phải quá thiệt hại cho người Mỹ không. Những đầu tư của người Mỹ như căn cứ quân sự, bí mật về khí tài .v.v., tất cả sẽ lọt về tay Trung cộng.

Tất nhiên là vô cùng khó khăn để đạt được dân chủ. Nhưng cả dân tộc VN có nghĩ rằng, mình đã cố gắng tột cùng cho mục tiêu đó chưa, cần phải làm thêm điều gì nữa để điều đó dễ có cơ hội thành hiện thực hơn không?!

Cơ hội lớn chưa từng có trong suốt cả chiều dài lịch sử của dân tộc!

Xưa tới giờ VN chưa bao giờ khuất phục Trung Quốc nhưng đơn thương độc mã, và luôn đóng vai yếu thế hơn vì là nước nghèo. Nay nếu có dân chủ thì VN được sự ủng hộ của gần như tất cả các cường quốc trên thế giới: Hoa kỳ, Nhật, Ấn, Úc

Không chỉ phát triển liên minh quân sự, các nước trên đều hiểu rằng điều cốt lõi và lâu bền nhất là VN phải trở nên hùng mạnh, như Nhật hay Hàn quốc , thì mới đảm đương nổi việc bảo vệ thông suốt biển Đông, cộng với tình cảm sẵn có, họ sẽ đầu tư mạnh mẽ về kinh tế, chính trị. Từ đó có cơ sở để tin rằng VN sẽ trở thành quốc gia hùng cường, có thể đứng vào TOP ĐẦU CỦA THẾ GIỚI, và ĐỘC LẬP VĨNH VIỄN với Trung Quóc

Dân chủ ở VN sẽ thúc đẩy dân chủ ở TQ. Khi TQ trở nên dân chủ, rất có khả năng họ sẽ bị ly khai, nên suy yếu hơn. Ngoài ra, cho dù tính tham lam, bá quyền vẫn còn đó, nhưng khi đó họ trở nên đàng hoàng hơn một chút, tôn trọng luật pháp hơn, thì VN sẽ đỡ khổ hơn nhiều.

VẬY CẦN THÊM GIẢI PHÁP NÀO KHÁC

1. Cổ súy cho “Hiến Pháp Hòa Giải”

Người Nhật có Hiến Pháp Hòa Bình nổi tiếng, đó là bước đi vô cùng khôn ngoan của dân tộc Nhật, để tất cả các nước an tâm, quên đi quá khứ quân phiệt của họ, sẵn sàng làm ăn, bang giao với họ …, từ đó họ có điều kiện phát triển kinh tế vượt bật và trở thành nước Nhật hùng cường như ngày nay

Còn VN, mọi người cứ hình dung, sau khi chuyển sang dân chủ thì chuyện gì sẽ xảy ra: sẽ có sự trả thù vô cùng ghê gớm, bao nhiêu đòn thù được tích tụ bấy lâu sẽ trút lên đầu giới lãnh đạo cộng sản và gia đình, tay chân của họ…

Trong khi tất cả mọi người am hiểu thời cuộc đều công nhận rằng, sự thay đổi để trở nên dân chủ không thể do bất cứ lực lượng nào khác, mà sẽ do một bộ phận trong chính giới lãnh đạo VN hiện tại. Cứ coi như có một số người trong giới lãnh đạo có lòng yêu nước, bỏ qua lợi ích cá nhân, kêu gọi những lãnh đạo khác thực hiện cải cách chính trị … thì họ cũng không dám làm cái việc thay đổi chế độ, cái việc mà tự dưng đưa bản thân và gia đình, con cháu mình vào vòng nguy hiểm vô cùng, có thể mất tất cả, kể cả mất mạng …

Vậy tại sao chúng ta không NGHĨ CHO HỌ một chút, không mở con đường bảo đảm sự an toàn và cuộc sống của họ, để cho mục tiêu của dân tộc dễ xảy ra hơn không.

Tôi xin đề xuất 2 điểm quan trọng nhất trong Hiến Pháp Hòa Giải này:

- Việt Nam chuyển thành đất nước dân chủ đa đảng

- Không được truy cứu, phán xét, buộc tội … đối với cá nhân hay tập thể, ở bất cứ phe phái đảng phái nào của người Việt Nam trong vòng 100 năm qua, và điều này có giá trị trong vòng 100 năm tới

Nếu điều này được thực hiện, thì những người cộng sản đang nắm chính quyền hiện nay và trước đây hoàn toàn có thể yên tâm là không bị trả thù cho tới đời cháu của họ!

Chúng ta đang cần cái gì: đang cần dân chủ để thay đổi vận mệnh dân tộc hay cần trả thù. Rõ ràng là đề xuất trên không có gì là quá đáng, nhưng nó dẹp bớt chông gai, mở ra còn đường rộng hơn, dễ đi hơn trên con đường tiến tới dân chủ của dân tộc.

2. Gây áp lực liên tục vào chính quyền bằng trưng cầu dân ý và các hoạt động ôn hòa

- Hiện tại có nhiều trang mạng bất đồng chính kiến, nhưng đa số đều dùng những lời lẽ gay gắt, điều đó khiến chính quyền đặt nó ngoài vòng pháp luật, làm nhiều người khó truy cập, khó phổ biến. Tôi nhắc lại, chúng ta đang cần dân chủ hơn bất cứ cái gì khác. Vậy tại sao chúng ta không làm một trang web trưng cầu dân ý (trungcaudany.com chẳng hạn), với lời lẽ vô cùng ôn hòa. Trong đó, chúng ta sẽ ghi những giá trị tốt đẹp của nền dân chủ là như thế nào, những nền dân chủ nổi tiếng trên thế giới ra sao, Truyền thống chống Bắc thuộc VN xưa giờ ra sao, Sự bá quyền của Trung Cộng như thế nào, Giải pháp nào để thoát vĩnh viễn khỏi sự áp bức của người Hán.... Chỉ nhận đăng bài nào có lời lẽ ôn hòa và có lợi cho mục tiêu chung. Và 1 phần chính là tiến hành trưng cầu dân ý, với câu hỏi: “có nên hướng VN theo dân chủ đa đảng hay không”, để mọi người ghi tên mình vào, biểu quyết.

- Thêm vào đó chúng ta thường xuyên tổ chức những buổi tụ tập, giương cao biểu ngữ với lời lẽ ôn hòa như: “Cùng cầu mong cho nền dân chủ VN”, “Cổ xúy cho hiến pháp hòa giải”, “hãy vào trungcaudany.com để thể hiện lòng yêu nước của bạn”, “Dân chủ để gia nhập TPP”, “Dân chủ thật sự để liên kết với bạn bè chân chính” … Những cuộc xuống đường đó được tổ chức thường xuyên, bền bỉ, ôn hòa, và có thể giải tán ngay khi có dấu hiện bạo lực … Được như vậy, ngoài việc huy động tinh thần toàn dân, chúng ta đặt chính quyên vào cái thế phải thường xuyên tự hỏi lại mình: có thể trì hoãn cải cách chính trị được nữa không ?!

H.Q

Tác giả gửi BVN

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014

Kinh tế Việt – Trung sẽ chuyển trục hiệu quả?



Vũ Hoàng



Thương nhân Việt Nam và Trung Quốc đi qua cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn. AFP photo

Sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc hạ đặt trái phép trong lãnh hải Việt Nam, kéo theo những căng thẳng trên nhiều lĩnh vực quan hệ song phương… nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng đây là thời điểm để Việt Nam xoay chuyển cục diện quan hệ kinh tế hai nước, nhưng liệu cơ hội trên có thể trở thành hiện thực?

Quan hệ hai nước xuống thấp

Quan hệ nhiều mặt Việt – Trung đang được đánh giá là xuống thấp nhất trong nhiều năm qua sau vụ việc Trung Quốc đặt giàn khoan HD981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của VN ngoài biển Đông. Nhiều chuyên gia khẳng định với hệ lụy trên, Việt Nam cần phải có cái nhìn sâu hơn, tổng hợp hơn và gắn các sự việc lại với nhau hơn để thấy rõ một bức tranh tương phản trong quan hệ kinh tế 2 chiều, khi mà Trung Quốc luôn giành lấy những ưu thế cho họ.

Nhưng đồng thời, các nhà phân tích cũng khách quan nhận định Việt Nam cần “tận dụng tốt hơn kinh tế của Trung Quốc” chứ không đơn giản chỉ là “giảm phụ thuộc,” “thoát hiểm,” suy cho cùng dù là căng thẳng 2 quốc gia đang leo thang hay không, thì Việt Nam vẫn luôn cần phải thay đổi nhận thức với bài toán: tối đa lợi ích và giảm thiểu rủi ro khi làm ăn với người láng giềng khó chơi này.

Tuy nhiên, trước khi đi vào tìm hiểu các đối sách của Việt Nam hiện nay liệu có phù hợp và hiệu quả hay không, chúng ta cùng nhìn lại bức tranh thương mại và đầu tư 2 chiều trong thời gian qua để có một cái nhìn tổng hợp.


Thực chất đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam hiện nay rất ít, về đầu tư trực tiếp, vốn đăng ký chỉ vào khoảng 7,6 tỷ đô la nhưng vốn thực hiện chỉ là khoảng 4,3 tỷ đô la.

-TS Ngô Trí Long

Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam, trong năm 2013, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chừng 13 tỉ đô la và nhập khẩu trở lại gần gấp 3 lần ở con số 37 tỉ đô la và sự chênh lệch này được dự tính sẽ nới rộng hơn trong tương lai. Về lĩnh vực đầu tư nước ngoài, Trung Quốc hiện đang đứng thứ 9 trong số các nhà đầu tư và chiếm khoảng 3% tổng số vốn đầu tư đăng ký tính đến cuối năm ngoái.

Trong một bài phân tích mới đây có tên Chiến lược xoay trục kinh tế Việt Trung được giáo sư Trần Văn Thọ của trường Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản phổ biến, tại đây, giáo sư Trần Văn Thọ đã chỉ ra những hiện tượng bất bình đẳng trong quan hệ hai chiều để từ đó tìm ra bản chất thực sự của quan hệ kinh tế Việt - Trung.

Về mặt FDI, Trung Quốc chỉ nhắm đến những lĩnh vực nhạy cảm, theo G.S Thọ thì điều bất thường là các quan chức địa phương của Việt Nam quá ngây thơ, thiếu cảnh giác trước các dự án, đồng thời, các doanh nghiệp Trung Quốc lại trúng thầu hầu hết các dự án trọng điểm trong các ngành quan trọng của Việt Nam với tiêu chí là “giá rẻ” nhưng thực chất cho thấy, sau khi thắng thầu, phía Trung Quốc thường điều chỉnh giá và thương lượng lại.

Đồng quan điểm với G.S Trần Văn Thọ, T.S Ngô Trí Long, một nhà kinh tế độc lập tại Hà Nội đưa ra quan điểm của ông về vấn đề này:



Trung tâm thương mại của Trung Quốc được xây dựng gần biên giới cửa khẩu Tân Thanh, phía bắc Lạng Sơn hôm 5/2/2009.

“Thực chất đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam hiện nay rất ít, về đầu tư trực tiếp, vốn đăng ký chỉ vào khoảng 7,6 tỷ đô la nhưng vốn thực hiện chỉ là khoảng 4,3 tỷ đô la. Đầu tư trực tiếp và gián tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam không nhiều, đặc biệt, họ đưa công nghệ lạc hậu vào Việt Nam. Thường thường họ bỏ thầu giá thấp, mà Việt Nam trong giai đoạn đầu lại chủ yếu coi trọng về giá, hơn nữa thủ đoạn của Trung Quốc làm ăn, theo cách hối lộ, mua chuộc “có nghề” của họ. Thường tiền lệ của nhà thầu Trung Quốc đối với Việt Nam là: bỏ giá thấp, thi công chậm trễ, kéo dài, rồi yêu cầu đội vốn lên, đưa công nghệ lạc hậu vào, đưa lao động phổ thông vào nhiều, gây bất lợi cho Việt Nam”.

Thứ hai, điều lo lắng của nhiều vị chuyên gia là hiện tại kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn từ Trung Quốc. Trong bài viết của G.S Trần Văn Thọ thì nhập siêu của VN ngày càng tăng lên một cách bất thường và cơ cấu cũng có sự chênh lệch theo kiểu một nước chưa phát triển và một nước đã phát triển, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu hàng nguyên liệu thô, sơ chế trong khi nhập hàng công nghiệp, máy móc. G.S Thọ phân tích hiện tại VN đang thiếu một tầm nhìn chiến lược trong quan hệ với một nước láng giềng khổng lồ, Việt Nam chủ trương trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 nhưng lại không có chiến lược đối phó với sự trỗi dậy mạnh mẽ từ Trung Quốc.

Làm sao để tối đa hóa lợi ích?

Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí trong nước, ông Phạm Sỹ Thành, Giám đốc chương trình nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc Trung tâm nghiên cứu chính sách và kinh tế (VEPR) cho rằng thực chất của việc nhập siêu với Trung Quốc là nhập khẩu từ nước này đang trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất thường ngày của các doanh nghiệp trong nước. Điều này tác động lâu dài đến khả năng nâng cấp công nghệ của doanh nghiệp bản địa, rất có khả năng VN rơi vào hiệu ứng giải công nghiệp hóa sớm khi chỉ xuất khẩu được sang họ các hàng hóa dựa vào tài nguyên và nhập khẩu hàng công nghiệp chế tạo thành phẩm.

Vậy hiện tại quan hệ vĩ mô giữa 2 nước đang diễn ra thế nào, từ Hà Nội, chuyên gia tài chính độc lập Bùi Kiến Thành cho biết quan điểm của ông:


Đối với nhà nước thì vấn đề “láng giềng gần” thì phải quan hệ tốt, thế nhưng “tốt” đến mức nào cho hợp lý và lúc nào là phạm vào vấn đề độc lập chủ quyền.

-Bùi Kiến Thành

“Đối với nhà nước thì vấn đề “láng giềng gần” thì phải quan hệ tốt, thế nhưng “tốt” đến mức nào cho hợp lý và lúc nào là phạm vào vấn đề độc lập chủ quyền. Việc này thì lãnh đạo nhà nước cũng có cơ hội nhân việc giàn khoan này để mình định hướng lại việc giao bang với Trung Quốc sao cho phù hợp. Từ đó, mình mở rộng quan hệ của mình với thế giới, sao cho nền kinh tế Việt Nam phát triển, hội nhập thế giới một cách hợp lý. Đây cũng là hồi chuông cảnh tỉnh tốt cho lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo doanh nghiệp nghiên cứu tình hình phát triển của mình ra sao để khỏi lệ thuộc vào vấn đề kinh tế đối với Trung Quốc.”

Trong bài viết Chiến lược xoay trục quan hệ kinh tế Việt Trung, G.S Thọ tổng hợp 3 điểm chính mà Việt Nam cần làm là: chỉnh đốn các hiện tượng bất thường bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn phổ quát nhằm loại bỏ những dự án kém chất lượng, lao động nước ngoài không cần thiết; VN trước khi ban hành các chính sách kinh tế đối ngoại phải ý thức sự tồn tại và lường trước những hậu quả từ Trung Quốc và cuối cùng là phải thực hiện ngay cuộc cải cách thể chế toàn diện theo hướng dân chủ hóa và trọng dụng nhân tài.

Chúng tôi đặt câu hỏi liệu Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn cần những chính sách như thế nào để tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro trong khi vẫn phát huy nội lực, ông Bùi Kiến Thành phân tích:

“Từ trước đến giờ mang ra những chính sách này chính sách nọ, theo tôi đó chỉ là những biện pháp nhất thời để “chữa lửa” thôi, nếu một nền kinh tế mà chỉ có các biện pháp “chữa lửa” thì không thể nào phát triển bền vững ổn định được. Vì thế, các nhà lãnh đạo Việt Nam cần suy nghĩ dài hạn hơn nữa, những vấn đề căn bản hơn nữa, trong đó phải thấy là Việt Nam có phải là một nền kinh tế thị trường hay không? Nếu quyết tâm như vậy thì phải làm những gì để nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường. Ngoài ra, muốn nền kinh tế phát triển phải có chính sách tiền tệ phù hợp, hiện tại, chúng ta chưa có một chính sách tiền tệ nào phù hợp cho nền kinh tế phát triển ổn định bền vững cả.”

Với những gì ghi nhận thì có lẽ chính sách kinh tế xoay trục của Việt Nam đối với Trung Quốc vẫn còn là một đường xa, bởi xưa cổ nhân có câu “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” hẳn khi bản chất của một nền kinh tế độc lập tự chủ, thị trường đúng nghĩa chưa được thiết lập thực sự thì các biện pháp đối phó với người Trung Quốc khó chơi vẫn còn “khó” gấp nhiều lần.

Nguồn: rfa.org

Xung đột giữa Đoàn Luật sư TP.HCM và Liên Đoàn Luật sư Việt Nam


28/06/2014


H1
H2



RFA – Việt Ngữ

Trân Văn – Phóng viên RFA

14-04-2009
Vì sao luật sư giỏi từ chối tham gia lãnh đạo Liên đoàn luật sư? (phần 1)

Cách nay vài ngày, Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu Luật sư lần thứ nhất loan báo: Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ nhất, sẽ diễn ra trong các ngày từ 10 tháng 5 đến 12 tháng 5.




Trước thông tin này, Tạp chí Tuyên giáo của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN nhận định: “Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu sự phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam.”

Nhận định vừa kể, có sát với các diễn biến trong thực tế và có đúng với cảm nhận của giới luật sư hay không?

Luật sư & Đoàn luật sư

Dù hệ thống Tòa án nhân dân xuất hiện tại miền Bắc từ giữa thập niên 1940, rồi hình thành vào giữa thập niên 1970 ở miền Nam nhưng mãi đến năm 1987, Việt Nam mới ban hành những quy phạm pháp luật có liên quan đến việc thành lập các Đòan Luật sư và việc hành nghề Luật sư.

Từ đó đến nay, các quy phạm pháp luật về luật sư liên tục được sửa đổi. Năm 2001, Pháp lệnh Luật sư đầu tiên, ban hành năm 1987 được thay thế bằng một Pháp lệnh Luật sư mới.

Đến năm 2006, Pháp lệnh Luật sư 2001 tiếp tục được thay thế bằng Luật Luật sư – lọai văn bản pháp quy có giá trị cao hơn pháp lệnh.

Điều đó cho thấy, vị trí, vai trò của luật sư trong sinh họat xã hội đã khác trước.

Tuy Pháp lệnh Luật sư năm 2001 và Luật Luật sư năm 2006 cùng đề cập đến việc cần có một “Tổ chức Luật sư Tòan quốc” làm đại diện cho giới luật sư ở Việt Nam nhưng đến nay, các Đòan Luật sư tại Việt Nam vẫn là những tổ chức độc lập với nhau.

Thành viên của các Đòan Luật sư trực tiếp bầu ra Ban Chủ nhiệm, Hội đồng Khen thưởng và Kỷ luật. Về phía nhà nước, UBND tỉnh, thành phố chỉ ban hành quyết định thành lập Đòan Luật sư trong địa phương của mình và Bộ Tư pháp chỉ giữ vai trò giám sát họat động của các Đòan Luật sư.

Trong Luật Luật sư hiện hành, dù “Tổ chức Luật sư tòan quốc” được xem là “cơ sở pháp lý quan trọng nhằm thực hiện các chủ trương của Đảng về đổi mới và phát triển hoạt động luật sư”, song kế họach thành lập “Tổ chức Luật sư tòan quốc” vẫn liên tục bị giới luật sư Việt Nam phản đối, vì việc sắp đặt nhân sự lãnh đạo tổ chức này bị cho là thiếu dân chủ, thậm chí vi phạm pháp luật.

Sự can thiệp của Nhà nước

Tháng 10 năm 2006, Bộ Tư pháp Việt Nam chính thức giới thiệu “Đề án thành lập Tổ chức Luật sư toàn quốc”. Theo đó, tên gọi chính thức của “Tổ chức luật sư Tòan quốc” sẽ là “Liên đòan Luật sư Việt Nam”.

Bộ Tư pháp cho biết sẽ thành lập “Hội đồng Luật sư lâm thời toàn quốc” để tổ chức “Đại hội đại biểu Luật sư lần thứ nhất”, qua đó lập ra “Liên đòan Luật sư Việt Nam”.

Tuy nhiên, ngay sau đó, Luật sư Nguyễn Đăng Trừng, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM đã thay mặt Đòan Luật sưTP.HCM, gửi “Kiến nghị khẩn cấp”, đề nghị Thủ tướng Việt Nam và Bộ trưởng Tư pháp không chỉ định bất kỳ cán bộ nào đại diện Bộ Tư pháp làm thành viên của “Hội đồng Luật sư lâm thời toàn quốc”.

Trong “Kiến nghị khẩn cấp” ký ngày 20 tháng 10 năm 2006, Đoàn Luật sư TP.HCM cho rằng: Việc Bộ Tư pháp đưa hai đại diện của mình làm thành viên ‘Hội đồng Luật sư lâm thời’ và dự kiến cơ cấu một người làm Chủ tịch, một người làm Phó Chủ tịch kiêm Trưởng Ban Thư ký là “vi phạm nguyên tắc kết hợp quản lý Nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, được quy định tại Luật Luật sư”.

Phản ứng của Đòan Luật sư TP.HCM và dư luận trong giới luật sư trên tòan quốc đã khiến việc thực hiện “Đề án thành lập Tổ chức Luật sư toàn quốc” bị khựng lại. Mãi 15 tháng sau, vào ngày 16 tháng 1 năm 2008, ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam mới phê duyệt “Đề án thành lập Tổ chức Luật sư toàn quốc”.

Khi phê duyệt đề án, Thủ tướng Việt Nam xác định:“Người đứng đầu tổ chức luật sư toàn quốc phải là người có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, am hiểu sâu sắc nghề luật sư và thực tiễn hoạt động luật sư ở Việt Nam, có khả năng lãnh đạo, dẫn dắt và thuyết phục đối với đội ngũ luật sư…”.

Cho dù Thủ tướng Việt Nam yêu cầu: Trong năm 2008, phải thực hiện xong “Đề án thành lập Tổ chức Luật sư toàn quốc” nhưng đến nay, tháng 4 năm 2009, Liên đòan Luật sư Việt Nam vẫn chưa ra đời.

Khi được báo điện tử VietnamNet hỏi, vì sao lại chậm trễ như vậy, ông Lê Thúc Anh, Chủ tịch Hội đồng lâm thời Luật sư toàn quốc, cho biết: “Đây là một tổ chức nghề nghiệp đặc thù nên công tác nhân sự tương đối phức tạp”.

Còn ông Nguyễn Văn Thảo, Phó Chủ tịch Hội đồng lâm thời Luật sư toàn quốc thì tiết lộ “Dù đã động viên nhiều luật sư giỏi tham gia nhưng họ đều từ chối vì bận công việc”.

Luật sư Nguyễn Trọng Tỵ, Đòan Luật sư Hà Nội, thành viên Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu Luật sư lần thứ nhất, giải thích thêm lý do khiến “công tác nhân sự tương đối phức tạp”:

“Nói chung là có những ý kiến khá gay cấn, nhất là của một số anh em luật sư TP.HCM. Các anh chị em ấy muốn người lãnh đạo của Liên đòan Luật sư phải là luật sư lâu năm, phải có kinh nghiệm họat động luật sư thì mới sát với thực tế, sát với bảo vệ quyền lợi của luật sư, có hiệu quả hơn. Quan điểm chung là như vậy…”

Qúy vị vừa nghe tóm lược quá trình hình thành và phát triển đội ngũ luật sư ở Việt Nam, cũng như những trục trặc trong việc thành lập Liên đòan Luật sư Việt Nam.

Trong bài tới chúng tôi sẽ tường thuật chi tiết hơn về diễn biến của “công tác nhân sự” trong quá trình thành lập Liên đòan Luật sư Việt Nam và vì sao “nhiều luật sư giỏi từ chối tham gia Hội đồng Luật sư tòan quốc”

——–

RFA – Việt Ngữ

Trân Văn, phóng viên RFA
Vì sao luật sư giỏi từ chối tham gia lãnh đạo Liên đoàn luật sư? (phần2)


Trân Văn tiếp tục tường trình chi tiết về diễn biến của “công tác nhân sự” trong quá trình thành lập Liên đòan Luật sư Việt Nam và nguyên nhân tiềm ẩn, biến “công tác nhân sự” trở thành phức tạp”…



“Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ nhất”, sẽ diễn ra trong các ngày từ 10 tháng 5 đến 12 tháng 5 sắp tới.

Nhân dịp này, chúng tôi đã tóm lược quá trình hình thành và phát triển đội ngũ luật sư ở Việt Nam cũng như những trục trặc trong việc thành lập Liên đòan Luật sư Việt Nam.

Hội đồng Luật sư lâm thời

Dù năm 2006 đã từng bị Đòan Luật sư TP.HCM phản đối vì dự tính cử công chức lãnh đạo tổ chức luật sư và đầu năm 2008, Thủ tướng Việt Nam từng chính thức yêu cầu: “Người đứng đầu tổ chức luật sư toàn quốc phải có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, am hiểu sâu sắc nghề luật sư, có khả năng lãnh đạo và thuyết phục đối với đội ngũ luật sư…”

Song Bộ Tư pháp vẫn không chọn những luật sư thực thụ, giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm, đủ uy tín để lãnh đạo “Hội đồng Luật sư lâm thời”.

Đầu tháng 6 năm 2008, Bộ Tư pháp công bố “Quyết định thành lập Hội đồng lâm thời luật sư toàn quốc”. Ba nhân vật được Bộ Tư pháp sắp xếp làm chủ tịch, phó chủ tịch, trước đó chưa bao giờ là luật sư.

Ông Lê Thúc Anh, chủ tịch, chỉ là một cựu thẩm phán, từng làm Phó Chánh án Tòa án Tối cao. Hai phó chủ tịch là ông Nguyễn Văn Thảo, ông Trần Đại Hưng thì một người từng đảm nhiệm vai trò Vụ phó Vụ Bổ trợ Tư pháp (một cơ quan thuộc Bộ Tư pháp, chuyên giám sát luật sư, công chứng viên,…), một người từng là Phó Ban Nội chính Trung ương Đảng (cơ quan thay mặt Đảng CSVN chỉ đạo họat động của hệ thống Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an, Thanh tra,…).

Do được sắp xếp làm lãnh đạo “Hội đồng lâm thời Luật sư Tòan quốc”, cả ba ông được Bộ Tư pháp cấp “Chứng chỉ hành nghề luật sư”. Thế nhưng chừng đó chưa đủ để được xem là luật sư, nên cả ba ông phải xin gia nhập đòan luật sư nào đó.

Vì cư trú tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Thảo và ông Trần Đại Hưng xin gia nhập Đòan Luật sư Hà Nội và được chấp nhận.

Đoàn Luật sư TP.HCM phản đối

Riêng ông Lê Thúc Anh, cư trú tại TP.HCM, gửi hồ sơ xin gia nhập Đòan Luật sư TP.HCM thì bị đòan này bác, vì: “Ông Lê Thúc Anh đã được Ban Chỉ đạo Đại hội Đại biểu Luật sư toàn quốc quyết định làm Chủ tịch Hội đồng lâm thời Luật sư Toàn quốc, có nghĩa là ông Lê Thúc Anh đã là luật sư đại diện cho Đoàn luật sư nào đó”.

Việc Đòan Luật sư TP.HCM từ chối kết nạp ông Lê Thúc Anh, tuy có làm dư luận xôn xao nhưng cuối cùng, ông Lê Thúc Anh vẫn trở thành luật sư của Đòan Luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và đạt đủ yêu cầu mà Thủ tướng Việt Nam đặt ra (phải là luật sư mới được tham gia Hội đồng lâm thời Luật sư Toàn quốc)

Luật sư Vũ Bá Thanh, Chủ nhiệm Đòan Luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cho biết, ông không nhớ cụ thể ngày, tháng ông Lê Thúc Anh gia nhập Đòan Luật sư Bà Rịa – Vũng Tàu, song ông Anh mới gia nhập đòan luật sư này trong năm nay.

Trả lời câu hỏi vì sao Đòan Luật sư tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp nhận ông Anh làm thành viên, ông Thanh nói:

“Anh Lê Thúc Anh có hộ khẩu tại TP.HCM. Theo quy định của Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành thì nơi cư trú không hẳn là nơi có hộ khẩu, mà có thể là nơi người ta hành nghề”.

Trở lại với Đòan Luật sư TP.HCM, không chỉ từ chối kết nạp ông Lê Thúc Anh, giữa tháng 6 năm ngóai, đòan này còn gửi một công văn cho Bộ Tư pháp, yêu cầu rút tên Luật sư Nguyễn Đăng Trừng ra khỏi Hội đồng lâm thời Luật sư Toàn quốc.

Một tháng sau, Ban Chỉ đạo Ðại hội Ðại biểu Luật sư Toàn quốc thông báo: “Không chấp nhận cho Luật sư Trừng rút tên khỏi hội đồng lâm thời bởi lý do mà ông Trừng nêu ra là không chính đáng. Theo ‘Đề án thành lập Tổ chức Luật sư Toàn quốc’, chủ nhiệm đoàn luật sư thành phố Hà Nội và Sài Gòn là hai thành viên đương nhiên”.

Vẫn còn nhiều khác biệt

Về nguyên tắc, Hội đồng lâm thời Luật sư Toàn quốc chỉ tổ chức “Đại hội đại biểu Luật sư lần thứ nhất” và chính đại biểu sẽ bầu các thành viên chính thức của “Hội đồng Luật sư toàn quốc”, để lãnh đạo Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

Nói cách khác, vai trò của hội đồng chỉ có tính cách tạm thời. Vậy thì vì sao, Bộ Tư pháp vẫn khăng khăng bảo vệ phương án nhân sự mà họ đã xác lập, bất kể đủ thứ rắc rối?

Hôm 10 tháng 4 vừa qua, giải thích về quy trình bầu Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, với VietNamNet, ông Nguyễn Văn Thảo tiết lộ một phần lý do:

“Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam sẽ do Hội đồng Luật sư toàn quốc bầu, chứ không để đại hội bầu trực tiếp. Một số ý kiến cho rằng cần bầu trực tiếp nhưng đây là đại hội lần thứ nhất nên hội đồng lâm thời sẽ phải lên danh sách dự kiến cho các vị trí”.

Việt Nam hiện có khỏang 5.300 luật sư nhưng chỉ có 328 luật sư được chọn làm đại biểu dự “Đại hội đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ nhất”. 328 đại biểu này sẽ bầu 91 luật sư tham gia “Hội đồng Luật sư toàn quốc” và 91 luật sư đó mới có quyền bầu Chủ tịch Liên đòan Luật sư, sau khi “hội đồng lâm thời đã lên danh sách dự kiến cho các vị trí”!

Cũng vì vậy, Luật sư Nguyễn Đăng Trừng nêu nhận xét của ông với VietNamNet:

“Đây là một tổ chức nghề nghiệp nên quá trình bầu cử phải dân chủ. Thực tế lại không được như vậy. Cách đang làm sẽ không nhận được sự tín nhiệm của giới luật sư, khó lòng kết nối các đoàn luật sư trong cả nước và bảo vệ được quyền lợi cho luật sư trong quá trình hành nghề”.

Trước những ý kiến tương tự, Luật sư Nguyễn Trọng Tỵ trấn an:

“Trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam thì có lẽ không thể làm khác được. Chúng tôi chấp nhận như vậy và bổ sung vào các nhược điểm đó là thành phần đã có kinh nghiệm họat động luật sư lâu năm!”.

Kế họach thành lập Liên đòan Luật sư Việt Nam vốn thuộc khuôn khổ dự án “Hỗ trợ cải cách tư pháp và pháp luật tại Việt Nam”, quen được gọi là “Dự án Danida” do Đan Mạch và Thụy Điển hỗ trợ cho Bộ Tư pháp Việt Nam. Chưa rõ chính phủ Đan Mạch và Thụy Điển có ý kiến nào về vấn đề này hay không?

“Không thể tránh cải cách thể chế nữa”





Việt Nam đứng trước áp lực cải cách toàn diện để đáp ứng nhu cầu hội nhập của nền kinh tế

Kinh tế gia Phạm Chi Lan nói nhu cầu hội nhập của nền kinh tế giữa lúc căng thẳng gia tăng với Trung Quốc sẽ khiến Hà Nội không thể không cải cách thể chế.

Bà có nhận định trên trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 27/6, ngay sau khi Tổng cục Thống kê (GSO) công bố chỉ số tăng trưởng kinh tế trong 6 tháng đầu năm.

Báo cáo mới nhất của GSO cho biết trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 6 năm nay, kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng 5,18%, cao hơn so với mức 4,9% cùng kỳ năm ngoái.

Tuy nhiên, theo bà Lan, con số này có thể chưa phản ánh hết tác động của tình hình bất ổn vừa qua.

"Có thể những tác động của giàn khoan đối với Việt Nam chưa được tính hết vào vì thống kê tăng trưởng của Việt Nam thường có độ trễ nhất định," bà nói.

"Nhưng tôi nghĩ ảnh hưởng cũng không nhiều, vì thời gian xảy ra các sự kiện đó cũng ngắn và phần đóng góp của các doanh nghiệp đó vào toàn bộ sản lượng công nghiệp và xuất khẩu cũng không lớn lắm."

Đẩy mạnh cải cách thể chế

Nhận xét về chỉ tiêu tăng trưởng 5,8% trong năm nay và 6% cho năm sau của Chính phủ, bà Lan cho rằng mức này là "cao so với khả năng".

"Thực tế là những vấn đề như giàn khoan và quan hệ kinh tế với Trung Quốc có thể có những diễn biến phức tạp hơn và do đó có thể ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, cho nên tôi nghĩ là cần đặt ở mức khiêm tốn hơn", bà nói.

Bà Lan nhận định kinh tế Việt Nam trong năm 2015 và những năm tới sẽ phụ thuộc vào việc chính quyền Việt Nam ứng phó ra sao trước căng thẳng trên biển và những thay đổi trong quan hệ với Trung Quốc.

Bên cạnh đó, bà cũng cho rằng Chính phủ cần “đẩy mạnh các chương trình tái cơ cấu kinh tế, cải cách thể chế để tạo động lực mạnh hơn, môi trường thuận lợi hơn cho khu vực tư nhân phát triển".

"Chương trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước cũng phải được thúc đẩy mạnh hơn để hướng nguồn lực hiếm hoi của Việt Nam vào khu vực hiệu quả hơn", bà nói.

Trả lời câu hỏi của BBC về việc liệu nỗ lực cải cách thể chế của Việt Nam sẽ có biên độ lớn đến đâu, bà nói:

"Càng ngày Việt Nam càng thấy rõ hơn sức ép về việc cải cách thể chế và cảm thấy cần làm nhanh hơn nữa".

"Những phát triển trong thời gian qua không được như mong muốn và nhiều chương trình tái cơ cấu chưa được đẩy mạnh lên do việc cải cách thể chế chưa tiến hành được bao nhiêu."

"Mặt khác, sức ép từ những cuộc hội nhập mà Việt Nam sắp tham gia từ 2015 trở đi cũng như từ các hoạt động đối ngoại sẽ khiến chính quyền không cải cách không được".

"Tôi nghĩ thực sự trong thời gian tới Việt Nam sẽ phải thúc đẩy cải cách thể chế mặc dù trong nước còn ngần ngại".

"Đến lúc không thể không làm được nữa rồi."

Giảm lệ thuộc



Ngành xuất khẩu của Việt Nam sử dụng một lượng lớn nguyên vật liệu nhập từ Trung Quốc

Thống kê tăng trưởng được GSO công bố một tuần sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định điều chỉnh tỷ giá đôla/VNĐ trong nỗ lực nhằm thúc đẩy xuất khẩu.

Mặc dù vậy, bà Lan cho rằng quyết định này "không có tác động lớn" về ngắn hạn.

"Nhiều ngành xuất khẩu của Việt Nam vẫn dựa rất nhiều vào hàng nhập khẩu từ bên ngoài, nhất là sản phẩm trung gian," bà nói.

"Vì vậy tác động đối với xuất khẩu được cải thiện một chút thì lại bị phần nhập khẩu vào với giá cao hơn bù lại".

Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam đang có nỗ lực để khắc phục điều này, bà cho biết.

"Ngành xuất khẩu đang cố gắng phát triển những khâu có thể làm được ở Việt Nam để giảm bớt sự lệ thuộc từ bên ngoài, nhất là các sản phẩm trung gian."

"Kinh tế Việt Nam đã đủ phát triển để có thể sản xuất ra các sản phẩm trung gian ở trong nước."

Nguồn: www.bbc.co.uk

GS Thayer: ‘Việt Nam phải lên tiếng bây giờ nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi’



Hoài Hương

27-06-2014


Giáo sư Carl Thayer nói việc Trung Quốc điều máy bay quân sự tới gần giàn khoan có thể là để thử nghiệm trước khi tuyên bố một khu phòng không trên Biển Đông.

Một giới chức hàng hải cao cấp của Việt Nam tiết lộ rằng cho tới thời điểm này, hơn 27 tàu của lực lượng kiểm ngư Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc cố ý đâm va hơn 100 lần, gây thiệt hại nặng cho các tàu kiểm ngư Việt Nam.

Trong một cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều hôm qua, Phó Cục Trưởng Cục Kiểm Ngư Việt Nam Hà Lê còn cho biết là từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế Việt Nam, các tàu của Trung Quốc thường xuyên có hành động nguy hiểm để “tấn công và uy hiếp” nhân viên của lực lượng kiểm ngư và cảnh sát biển Việt Nam, ngăn cản không cho họ thi hành phận sự, và vì những hành động này mà từ hồi đầu tháng 6 tới giờ, 15 nhân viên của lực lượng kiểm ngư Việt Nam bị thương.

Trang mạng Đời sống Pháp luật.com đăng tải nội dung của buổi họp báo, nêu lên những vụ điển hình gần đây nhất, xảy ra hôm 17 tháng 6, 18 tháng 8, và đáng chú ý nhất, theo bài báo là vụ xảy ra hôm 23 tháng Sáu, khi tàu kiểm ngư Việt Nam mang số hiệu KN-951 đang thi hành nhiệm vụ thực thi pháp luật trên biển, thì bị 4 chiếc tàu Trung Quốc bao vây, đâm va, gây hư hỏng nặng.

Phía Việt Nam cáo buộc rằng hành động hung hăng nguy hiểm đó của Trung Quốc cho thấy một sự tính toán trước, cố tình đâm vào chiếc tàu kiểm ngư 951 của Việt Nam để gây thiệt hại nặng cho tàu này.

Tin của VnExpress hôm nay tường trình rằng Trung Quốc đã điều thêm máy bay chiến đấu tới giàn khoan HD 981. VnExpress nói rằng chiều ngày 26 tháng từ 6 giờ tới 7g 40, Trung Quốc đã cho máy bay trinh sát bay ba lượt qua khu vực các tàu Việt Nam, và từ 8 g 45 tới 8g 55, lực lượng kiểm ngư phát hiện hai chiến đấu cơ Trung Quốc lượn ở độ thấp cách giàn khoan 12 hải lý.

Nói chuyện với Ban Việt ngữ –Đài VOA, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam, từng làm việc cho Học viện Quốc phòng Australia, nhận định về những diễn biến này và những vụ đụng độ trên biển giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc hồi gần đây.

Giáo sư Thayer nói: “Dường như đây là dấu hiệu cuộc tranh chấp đang được quân sự hóa. Trung Quốc đã điều nhiều phi cơ, phần lớn là phi cơ dân sự nhưng cũng có các máy bay quân sự khi nước này băt đầu triển khai giàn khoan dầu Hải Dương 981, và từ đó đã có nhiều máy bay quân sự khác được báo cáo trong khu vực này. Gửi thêm máy bay tới khu vực chỉ quân sự hóa cuộc tranh chấp, nhưng điều đó cho thấy là có thể Trung Quốc đang thử nghiệm khả năng của họ để thiết lập một khu phòng không, buộc các máy bay khác phải báo cáo khi bay ngang qua một vùng không phận giới hạn trên Biển Đông, từ phía Nam đảo Hải Nam và đảo Hoàng Sa, rồi hướng về phía Tây dọc theo bờ biển tới khoảng Đà Nẵng.”

Nhận định về phản ứng có phần không mấy quyết liệt của giới lãnh đạo Việt Nam trước những hành động leo thang và đụng độ trên biển hồi gần đây, Giáo sư Thayer nói:

“Dựa vào những báo cáo đến được tay tôi, thì Bộ Chính Trị hoàn toàn chia rẽ về liệu có nên ra mang vấn đề ra trước tòa án để thách thức Trung Quốc, hay là cứ tiếp tục phản ứng một cách không ồn ào. Giới lãnh đạo Việt Nam rất sợ rằng nếu họ tỏ thái độ quyết liệt hơn phản đối Trung Quốc, thì Trung Quốc sẽ lại leo thang vấn đề lên hơn bây giờ nữa, và trừng phạt Việt Nam phải chịu những hậu quả nặng nề hơn nữa, và có thể phơi bày ra trước ánh sáng công luận Việt Nam rằng giới lanõn đạo Việt Nam không có khả năng hành động một cách cương quyết. Đó là thực tế của tình hình. Quả thực, chính phủ Việt Nam không có khả năng hành động một cách cương quyết.”

Giáo sư Thayer nói trong giới lãnh đạo hàng đầu trong Bộ Chính Trị Việt Nam, sự lo sợ cao tới mức khi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Kerry mời Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh sang Washington để thảo luận về vấn đề Biển Đông, Bộ Chính Trị đã quyết định phái một Thứ Trưởng Ngoại giao đi thay vì ông Phạm Bình Minh, bởi vì Hà nội sợ phái Bộ trưởng Ngoại giao tới Washington sẽ là hành động quá nhạy cảm vào thời điểm này, và điều đó cho thấy là có một số ủy viên Bộ Chính Trị muốn hòa hoãn, và nhượng bộ Trung Quốc, với hy vọng sẽ có thể giải quyết được cuộc tranh chấp này.

Được hỏi liệu hòa hoãn quá có làm cho tình hình xấu đi hơn nữa hay không, Giáo sư Thayer trả lời:

“Vâng, theo tôi đây là một trường hợp phải lên tiếng bây giờ, nếu không sẽ mất cơ hội mãi mãi. Trung Quốc muốn tăng mức độ uy hiếp các nước ở Á Châu, bằng cách trừng phạt và áp lực các nước này, để họ đừng lên tiếng phản đối những gì mà Trung Quốc đang làm. Nếu ngoan ngoãn im lặng thì có thể làm ăn hợp tác với Trung Quốc, nhưng đây không phải là một quan hệ ngang hàng giữa hai quốc gia ngang nhau, mà phải trở về quan hệ giữa một nước lớn và chư hầu như thời phong kiến khi xưa. Trung Quốc muốn mình là số Một, các nước khác phải thừa nhận điều đó, và không muốn các nước khác liên kết với các thế lực bên ngoài khác.”

Mới đây Ủy viên Quốc Vụ Viện Trung Quốc đã đến Việt Nam, và đòi hỏi Việt Nam với thái độ khá gay gắt phải ngưng leo thang những lời tố cáo Trung Quốc về vấn đề tranh chấp Biển Đông.

​Giáo sư Thayer khuyến cáo rằng nếu các nước nhỏ tiếp tục nhượng bộ, Trung Quốc dần dà sẽ thực hiện ý định chiếm thêm biển đảo, xây cất trên biển, và tất cả những gì mà Bắc Kinh muốn làm, và càng để lâu sẽ càng khó giải quyết một cách có lợi cho các nước nhỏ hơn.