Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2017

ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC QUÁI ĐẢN CỦA “HOÀNG ĐẾ” MAO TRẠCH ĐÔNG

(Đoàn Mạnh Thế lược dịch từ «Tình dục, dối trá và chính trị» của tác giả Pierre Lunel, nhà xuất bản L’Archipel, Paris 2012)  
                                                      ***
Mao Trạch Đông - vị “tân hoàng đế đỏ” - muốn được lưu danh theo truyền thống các hoàng đế Trung Quốc, nhất là truyền thuyết trường sinh bất tử nhờ quan hệ với một ngàn thiếu nữ đồng trinh. Mao hy vọng theo gót được vị tổ sư này. Mao say mê thu thập tất cả những tin tức loan báo việc phát hiện các loại dược liệu giúp hoạt động tình dục cho đến chín mươi tuổi.
Trong khi chờ đợi thần dược ra đời, Mao nhồi nhét vào người đủ loại nhân sâm và đưa lên giường một số lượng đáng nể các thiếu nữ. 
Làm tình là thú tiêu khiển hàng đầu đối với Mao nhưng ông ta không yêu mến ai cả. Một bằng chứng cho sự tàn bạo của Mao Trạch Đông là câu trả lời của y trước Nehru:
Chúng tôi chẳng việc gì phải sợ bom nguyên tử cả. Nếu ai tấn công tôi bằng bom nguyên tử, thì tôi có thể trả đũa tương tự. Mười triệu hay vài chục triệu người chết cũng chẳng ăn nhằm gì đối với chúng tôi!
Nehru không phải từ bi hỉ xả gì, nhưng cũng phải dựng tóc gáy khi nghe câu nói của Mao khi y coi mạng người như cóc ngóe.
Không một điều gì có thể làm cho Mao xúc động. Trong chiến dịch Đại nhảy vọt, nhiều triệu người dân nông thôn đã chết đói, nhưng ông ta vẫn ăn ngon ngủ yên. Ngay cả đối với người thân trong gia đình cũng thế. Chỉ cần kể ra đây thái độ đối với chính người con trai lớn của Mao.
Trước khi Mao Ngạn Anh tử nạn ngày 25/11/1950, trong cuộc chiến 
(Dịch giả Đoàn Mạnh Thế - 2016)
tranh Triều Tiên, Ngạn Anh đã lấy vợ và vợ anh, Lưu Tư Tề, từ vài năm qua vẫn được xem như là con gái nuôi của Mao Trạch Đông. Ông ta thích Lưu Tư Tề đến nỗi tỏ ra vô cùng giận dữ khi nghe tin Mao Ngạn Anh và Lưu Tư Tề đính hôn. Sự thực đằng sau cơn giận dữ là Mao ghen với người con trai của y sẽ được ngủ với Lưu Tư Tề. Ông ta cản trở việc tổ chức đám cưới với những cái cớ kỳ lạ, chẳng hạn như phải chờ đến lúc tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc ngày 01/10/1949…Khi nghe tin con trai mình tử thương, Mao phát biểu câu này thay cho lời ai điếu:
- Đã là chiến tranh làm sao không có người chết cho được?
Ông ta không tỏ ra buồn phiền một chút nào, không hề nhỏ một giọt nước mắt. Lưu Tư Tề suốt một thời gian dài vẫn không hay biết về cái chết của chồng, và trong suốt hai năm rưỡi trời, chưa bao giờ Lưu Tư Tề thấy Mao tỏ vẻ u sầu. Thậm chí ông ta còn nói đùa với cô về Ngạn Anh, như là con trai của y vẫn còn sống…
Kể từ năm 1958, trong cơn say Đại nhảy vọt, Mao trở nên ít kín đáo hơn trong cuộc sống riêng tư. Đến nỗi nhiều người đều biết đến lối sống xa hoa, trụy lạc của ông ta, về những tòa biệt thự nằm rải rác khắp đất nước Trung Quốc, và về việc cung cấp gái đẹp mà chính Mao gọi là «tuyển lựa cung phi». Các nữ nghệ sĩ trẻ của các đội văn công tham gia các buổi dạ vũ, cạnh tranh với nhau để làm đẹp lòng Mao, và kết thúc bằng việc qua đêm với ông ta. Các cô ganh tị lẫn nhau, cô nào được Mao nắm tay dẫn vào phòng ngủ trở thành mục tiêu bị các cô khác thù ghét.
Những người thân tín của Mao luôn tìm cách làm vui lòng ông ta. Ban đầu mỗi tuần chỉ có một đêm dạ vũ, nhưng sau đó họ nhanh chóng thấy rằng để chiều lòng vị chủ tịch phóng đãng thì như thế chưa đủ. Thế là từ một buổi dạ vũ trở thành hai buổi mỗi tuần, có nghĩa là số cung phi dành cho Mao phải tăng gấp đôi. Tất cả các đoàn văn công đều phải đóng góp vào. Sự chăm sóc này không phải là nói quá đáng, vì vị chủ tịch này càng cao tuổi thì ham muốn tình dục lại tăng lên. 
Chưa bao giờ, ngay cả trong những giấc mơ điên rồ nhất, các cô gái được chọn lựa có thể tưởng tượng ra có ngày lại được phục vụ cho thú vui nhục cảm, hoang dâm vô độ của vị "tân hoàng đế" được hàng trăm triệu người tôn sùng. Rất ít người từ chối đề nghị làm tình của vị "hoàng đế đỏ" Trung Quốc. Có thể chỉ có vài cô y tá hay phụ nữ hơi cứng tuổi. Cô y tá nào từ chối thì đó là vì đạo đức nghề nghiệp không cho phép lẫn lộn vai trò, còn phụ nữ lớn tuổi thì do mắc cỡ khi phải gia nhập hậu cung gồm toàn các thiếu nữ tuổi xuân hơ hớ. Còn tất cả những cô gái khác đều phát cuồng vì Mao, và sẵn sàng thỏa mãn những đòi hỏi dù có quá quắt của ông ta.
Hầu hết là những cô gái rất nghèo khó. Chẳng hạn cô Lưu từng đi ăn xin trên đường phố cùng với mẹ, cô Chu là trẻ mồ côi... Thường thì cha mẹ các cô này, đã qua đời, được xem là «liệt sĩ cách mạng». Nhiều cô không được học hành gì cả, và trở thành diễn viên múa nhờ có Đảng. Các đoàn văn công đầy dẫy những thiếu nữ loại này, được tuyển mộ nhờ ngoại hình chuẩn, để giúp người của các cán bộ cao cấp trong Đảng giải trí.
Các cô được lên giường với Mao là «hàng tuyển trong số hàng tuyển», cho dù chỉ vài tiếng đồng hồ. Điều này chỉ có thể hiểu được nếu chúng ta nhớ lại nạn thần thánh hóa Mao Trạch Đông. Sự xuất hiện của Mao trong những dịp lễ trang trọng, oai vệ như một bức tượng đại đế tại quảng trường Thiên An Môn, là một kỷ niệm không thể quên đối với mỗi người tham dự. Chưa nói đến những người được đặc ân có một không hai là bắt tay với Mao, họ không rửa ráy trong nhiều tuần lễ để giữ trên người loại «nước thánh». Có thể nói, Mao gần như một huyền thoại, và còn được yêu mến và kính trọng hơn cả các đại đế Trung Hoa.
Làm thế nào trong điều kiện đó, các cô gái trẻ dốt nát lại không cảm thấy hãnh diện khi được vinh dự ngủ vài tiếng đồng hồ bên cạnh vị thánh sống? Tất cả những cô gái này đều chưa chồng, vừa mới tròn hai mươi, hai mươi hai tuổi, và một khi đã bị Mao chán chê thì cũng phải đợi đến khi chủ tịch cho phép mới được lập gia đình.
Gần đến tuổi bảy mươi, Mao có vẻ đã nói lời vĩnh biệt với chứng bất lực mà trước kia vẫn làm ông ta khiếp sợ mỗi khi nghĩ đến nguy cơ này. Trở thành tín đồ nhiệt thành của các phương pháp làm tình theo tinh thần Lão giáo, xem hành vi tình dục là nghi lễ phù hợp với luật âm dương của trời đất để trường thọ, Mao cần những thiếu nữ có đủ điều kiện tham gia và tỏ ra xuất sắc trong lĩnh vực này.
Từ đó, chiếc giường size «khủng» của Mao đón tiếp có thể đến một tá cô gái cùng một lúc. Thực tế, quan niệm Lão Tử chỉ là cái cớ cho tính dâm dục quái đản của ông ta. Những điều mà các người tình một đêm này cho là hạ cấp đối với những người đàn ông khác, thì với Mao lại được coi là tuyệt vời, và các cô tự hào kể lại những kỳ tích làm tình của ông ta.
Các cô gái không ngần ngại học hỏi kỹ năng làm tình để đáp ứng được những đòi hỏi trớ trêu của vị hoàng đế đỏ, vì thật là tệ hại nếu không phục vụ được ngang tầm, cô nàng đó sẽ bị loại ngay lập tức, trong khi có hàng tá cô gái khác đang chầu chực ngoài cổng. Một trong số các cô, một hôm đã ngây ngất thổ lộ :
- Tất cả những gì ông ấy làm hết sức tuyệt vời, đê mê!
Người ta đưa các cô đến phục vụ cho Mao như là thức ăn hàng ngày, tuyển lựa dựa theo các tiêu chuẩn cụ thể: phải thật đẹp và xuất thân từ thành phần vô sản. Mao chúa ghét những phụ nữ tinh tế, học thức và ở lứa tuổi chín chắn. Những cô gái trúng tuyển choáng ngợp trước vinh dự này.
Người cầm lái vĩ đại thực sự là một con sư tử trong lĩnh vực tình dục. Cho đến lúc chết, cuộc sống riêng tư của Mao là một loạt những cuộc truy hoan dâm loạn hết sức. Đó là thú vui duy nhất của ông ta, và ông ta tiêu thụ một số lượng thiếu nữ không thể đếm xuể.
Sự ham mê sắc dục của Mao Trạch Đông không chỉ giới hạn ở những cô gái trẻ.Ông ta cũng rất thích được “chung đụng thể xác” với các thanh niên đẹp trai lực lưỡng, và đa số các nam nhân viên phục vụ này vẫn thường xuyên phải "đấm bóp" cho ông ta dễ ngủ. Mao đòi hỏi các chàng thanh niên này phải xoa bóp cả bộ phận sinh dục của ông ta. Và cũng không ít trường hợp khi đã được làm nóng, Mao cũng hăm hở cuồng nhiệt với bộ phận kín của chàng trai.
Vào năm 1960 một trong đám thanh niên phục vụ Mao không chịu làm công việc này và xin chuyển công tác. Trước khi đi y đã thổ lộ với tôi: - "Ðó là công việc của đàn bà chứ không phải của đàn ông.". Tôi cũng đã chứng kiến một dịp khác xảy ra trên xe lửa vào năm 1964, trong lúc một nam phục dịch chuẩn bị chỗ ngủ cho Mao thì Mao đã vồ lấy anh thanh niên để mò mẫm bộ phận sinh dục của anh ta và ráng kéo anh ta vào giường ngủ của y... Đây có thể chưa hẳn đã là khuynh hướng đồng tính luyến ái ở Mao, nhưng đúng ra là một nhu cầu tình dục mãnh liệt dưới mọi dạng thức.
Có vài ba lần Mao say đắm tài năng của một trong số các tì thiếp cho đến nỗi không cho cô ta kết hôn, khi cô phải lòng một anh chàng đẹp trai. Thế là nhiều nhân chứng đã phải chứng kiến những vụ cãi cọ chẳng khác ngoài chợ. Một cô ái phi khác thì dần dà có ảnh hưởng lớn đến mức cô ta tự cho phép mắng Mao sa sả. Nhưng cô này làm tình rất nghệ thuật cho nên Mao bỏ qua tất cả. Hơn nữa cô ta còn giới thiệu với Mao một lô một lốc các người đẹp trong gia đình mình, cô sau lại còn đẹp hơn cô trước.
Vào thời kỳ đó, cuộc sống tình dục của Mao Trạch Đông gần như trở thành quan hệ gia đình. Ông ta nhanh chóng sủng ái một trong các cô em của cô bồ đương nhiệm, và cô này đương nhiên bị hất cẳng. Cô em đã có chồng, nhưng điều này có can hệ gì…Một buổi tối, Mao mời cả gia đình đến ăn tiệc. Lúc đến món tráng miệng, ông ta bất thần nảy sinh ham muốn. Mao yêu cầu anh chồng đi nơi khác để có thể «chăm sóc» cô vợ. Đương nhiên là người chồng chẳng dám hé miệng, thậm chí còn cho rằng việc vợ mình được Mao chọn lựa là một sự ưu ái. Mao ưa thích các phụ nữ trong gia đình này đến nỗi ông ta có thể ngủ cả với người mẹ nếu bà ta còn sống…

*.
ĐOÀN MẠNH THẾ
(lược dịch)                      
Địa chỉ: Số nhà 12 Ngách 32 Ngõ 133 phố Hồng Mai,
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2017

TRẦN THỊNH VÀ HAI SỐ BÁO SÁNG TẠO 1956


Nghệ sỹ Trần Thịnh sinh 1932 tại Hà Nội . Ông là con rể của Thị trưởng Hà Nội Thẩm Hoàng Tín được đi học quay phim tại trường điện ảnh IDHEC của Pháp. Học điện ảnh cùng thời với ông còn có các đạo diễn Phạm Kỳ Nam, Lê Dân, Lê Mộng Hoàng, Thẩm Võ Hoàng. Năm 1955 ông và đạo diễn Phạm Kỳ Nam, Thẩm Võ Hoàng về Hà Nội phục vụ nền điện ảnh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong khi những người bạn học khác của các ông đã chọn chế độ Việt nam cộng hòa ở Sài Gòn.
Trần Anh Tú con trai út cho tôi hai bản sơ yếu lý lịch của ông.
Bản thứ nhất :
Trần Thịnh sinh tại Hà nội ( 1932 – 1986 )
Bút danh : Kim Thoa
Trình độ học vấn biết đọc biết viết triếng Việt , tiếng Anh và tiếng Pháp .
Trường điện ảnh IDHEC tai Paris
1955 trở lại Hà nội
Chủ bút , xuất bản tờ báo Sáng tạo lĩnh vực Sân khấu và điện ảnh
Bị đưa đi cải tạo tại Nông cống – Thanh hóa , Cẩm phả - Quảng ninh và bị quản thúc tại Hà nội .
Tác Phẩm :
Đạo diễn phim tài liệu ; Đời cây lúa , Người đẹp trong tranh , Lời cuối , Tội ác còn mãi sau chiến tranh , hoa Tây bắc , Tấm lòng son , Hát cửa đình … Đã có giải tại các liên hoan phim tài liệu quốc tế và trong nước .
Bản này có lẽ do chính ông tự viết.
Bản thứ hai, có lẽ do bạn bè và gia đình soạn sau khi ông mất :
Trần Thịnh tên thật Trần Quí Thịnh , sinh ngày 12.12.1932 , địa chỉ 34 Thuốc Bắc, Hoàn Kiếm Hà Nội. Quê xã Tam Hưng , huyện Thanh Oai , tỉnh Hà Sơn Bình cũ . Lớn lên trong một gia đình buôn bán sắt nổi tiếng tại Hà nội .
2.1950 xuất ngoại bằng đường thủy , đỗ tú tài và học đại học tại trường điện ảnh Idhec tại Paris.
1955 trở lại Hà nội . Người đặt những viên gạch đầu tiên cho nghành điện ảnh , xưởng phim Việt nam tại phố Trần phú , Hà nội.
Kết hôn với bà Thẩm Thị Đôn Thư , sinh ngày 28.6.1932 . Con gái thị trưởng thành phố Hà nội ,dược sỹ Thẩm Hoàng Tín , ( thời Pháp thuộc , người tham gia đổi tên các phố ở Hà nội từ tên Pháp sang tên Việt , chủ trì xây dựng cầu thế Húc và ủng hộ thuốc hàng hóa ra hậu phương )
Có 3 con : Trần Thị Kim Thoa sinh ngày 16.11.1957 , Trần Anh Tuấn sinh ngày 10.4.1959 và Trần Anh Tú sinh ngày 5.5.1961
Chủ bút , xuất bản tờ báo Sáng tạo lĩnh vực Sân khấu và điện ảnh. Quyết định buộc thôi việc 10-8-1958 )
Trần Dần , Phùng Quán , Trần Công ,Bùi Xuân phái , Nguyễn Sáng ,Trịnh công Sơn ,Văn Cao , Phan Vũ , Vũ thư Hiên , Xuân Đài, Trần Duy , Lê Đạt , Phùng Cung …. là những nhân chứng và bạn bè .
Bị đưa đi cải tạo tại Nông cống – Thanh hóa , Cẩm phả - Quảng ninh và bị quản thúc tại Hà nội .
Từ năm 1979, do sự can thiệp của ông Lệ Thành Khôi lúc đó là khách danh dự của chính phủ về làm việc với thủ tướng Phạm văn Đồng và ông nhà thơ Hoàng Trung Thông phụ trách văn nghệ trong đảng và Họa sỹ Mai văn Hiến đã can thiệp, cũng như được sự ủng hộ của nhiều bạn bè trở về công tác đạo diễn tại xưởng phim Tài liệu khoa học Trung ương tại 122 Hoàng Hoa Thám , Hà nội
Tác Phẩm :
Đạo diễn phim tài liệu ; Đời cây lúa , Người đẹp trong tranh , Lời cuối , Tội ác còn mãi sau chiến tranh , hoa Tây bắc , Tấm lòng son , Hát cửa đình … Đã có giải tại các liên hoan phim tài liệu quốc tế và trong nước .
Mất ngày 11.5.1986 tại 20 đê Yên Phụ , Quận Ba Đình , Hà Nội.
Trong lễ tang của ông nhà thơ Phùng Quán đã đọc bài thơ :
THƠ ĐỌC TRƯỚC LINH CỮU TRẦN THỊNH
HIỆU LÀ THỊNH RÂU ĐẠO DIỄN ĐIỆN ẢNH
Bộ phim đời bạn
Khuôn hình cuối cùng vừa lặn
Và chữ Hết hiện lên màn ảnh trắng.
Một chữ Hết viết hoa…
Nhưng tất cả bạn hữu vẫn ngồi chờ…
Phim khá thế chắc phải còn tập tiếp!
Nhưng bạn đã hiện ra
Bộ ria đốm bạc và cái dáng cao gầy thân quen
Bạn nói:
-Cảm ơn và vĩnh biệt!
Phim đời tôi
Tôi dư sức làm nhiều tập tiếp
Nhưng theo ý tôi đến đây kết thúc là vừa đẹp!
Bạn là một nghệ sỹ đãng trí có một không hai
Phim chiếu xong rồi
Mà tên phim chưa đặt!
Tôi biết bạn từ ba mươi năm trước
Tôi xin được đặt tên phim đời bạn là:
CHƠI !
Có được không, Thịnh râu ơi!
Thế gian kim cổ triệu người chơi
 Chơi như bạn mới là chơi hết cỡ!
Tất cả những gì bạn nếm trải suốt cuộc đời
Tận cùng niềm vui
Tận cùng nỗi khổ
Với bạn cũng chỉ là chơi
Khi không còn cách gì chơi mới nữa
Bạn chơi UNG THƯ !...
Bạn sẽ xuống địa ngục?
Hay bạn lên thiên đường?
Tôi chắc bạn đến cả hai nơi
Bạn chơi luôn cả Thiên đường, Địa ngục!
Cái chết làm nhiều người khủng khiếp
Nhưng với bạn, chết cũng là chơi!
Bạn cụng ly với tử thần giữa một chiều trời đẹp
Và ra đi một chuyến chơi dài…
Vĩnh biệt bạn
Thịnh- râu- chơi!

Có thể nói Phạm Kỳ Nam và Trần Thịnh là trong số hiếm hoi những người được đào tạo bài bản về điện ảnh ở Bắc Việt Nam lúc đó, đặc biệt họ đã sống, chịu ảnh hưởng những tinh hoa của nền văn hóa, dân chủ nước Pháp. Chính vì thế cùng những nghệ sỹ cấp tiến hai ông nhiệt tình bắt tay vào việc xây dựng một nền điện ảnh nhân văn, dân chủ và hiện đại theo xu hướng phát triển của điện ảnh thế giới trong bối cảnh đang mở ra nhiều hy vọng của Hà Nội sau hòa bình lập lại.
Cùng nhiều nghệ sỹ sân khấu, điện ảnh, âm nhạc từ vùng kháng chiến trở về, hoặc ở nội thành, hoặc từ miền Nam tập kết… họ đã hưởng ứng mạnh mẽ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Lâu nay, trên báo chí và ấn phẩm nghiên cứu người ta dường như quên mất hoạt động và vai trò của họ, một bộ phận quan trọng, không nhỏ của trào lưu dân chủ, cách tân văn hóa đó.
Trần Thịnh tham gia nhóm Sáng Tạo ở Hà Nội, một câu lạc bộ sân khấu điện ảnh của nghệ sĩ Phan Tại một trong vài đạo diễn điện ảnh làm phim truyện đầu tiên ở Hà Nội. Nhóm Sáng Tạo đã mang lại cho đời sống điện ảnh – sân khấu Hà Nội những sắc thái mới, trong đó nhiều văn nghệ sỹ vốn sống ở Hà Nội thời tạm chiếm có nhiều tài liệu và thông tin về tình hình văn nghệ của phương Tây những thứ mà những văn nghệ sỹ từ Việt Bắc về đang thiếu, đói. Nhóm Sáng Tạo có một đoàn kịch cũng lấy tên là Sáng Tạo, đã dựng được một số vở kịch, đã bắt đầu định dựng vở Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng. Đối với ông Tưởng việc này làm cho ông vui vì suốt từ lúc vở kịch ra đời nó không được đánh giá đúng. Một người đẹp nổi tiếng Hà Nội là Linh Phi đã được nhắm chọn sẽ đóng vai Đan Thiềm. Câu lạc bộ Sáng Tạo còn tổ chức chiếu một số phim theo chủ nghiã hiện thực mới của Pháp, Ý, Nhật.
“Với khả năng kinh tế tài chính của gia đình Trần Thịnh đã nhận sứ mệnh ra tờ báo tư nhân của nhóm lấy tên là Sáng Tạo. Lúc ấy giới sân khấu - điện ảnh còn chưa có một tờ báo phát ngôn riêng.
Trong xã luận số đầu tiên Ban Biên tập tuyên ngôn:
“Nhìn lại con đường văn nghệ đã qua trong chin năm kháng chiến và hai năm hòa bình chúng ta đã cos gắng đóng góp được khá nhiều để phục vụ nhân dân. Tuy nhiên còn vấp váp nhiều trên đường lối tư tưởng cũng như phương pháp thể hiện. Riêng về hai ngành sân khầu và điện ảnh thì còn yếu ớt, chưa thỏa đáp được bao nhiêu cho nhu cầu của nhân dân quần chúng. Hưởng ứng tinh thần Đại hội Đảng Cộng sản Liên – xô lần thứ 20, hưởng ứng chính sách Trăm hoa đua nở và nhất là Nghị quyết lần thứ 10 vằ rồi của Đảng Lao động Việt nam, nhóm Sáng Tạo chúng tôi, một nhóm những người nghệ sỹ sân khấu điện ảnh, cho ra tờ báo Sáng tạo.
… Mục đích của nó cũng như mục đích của nhóm, là tạo mọi phương tiện khả năng để phát triển kịch nói, để góp phần xây dựng một nền điện ảnh tương lai cho nước nhà… Sáng tạo theo đường lối văn học Mác – Lê- nin, cụ thể là theo đường lối lãnh đạo của Đảng Lao động Việt nam.”
Báo Sáng Tạo số 1 ra ngày 5-11-1956, mỗi tháng hai kỳ, là Báo Điện ảnh Sân khấu của nhóm Sáng Tạo. Báo quán 4 Ngõ Bà Triệu.
Ban Biên tập: Hoàng Tích Linh, Trần Công, Cao Nhị, Thanh Châu, Nắng Mai Hồng, Trúc Lâm, Phan Vũ, Phan Tại, Nguyễn Đình Phúc, Sỹ Ngọc, Kỳ Nam, Trung Sơn, Vũ Phạm Từ, Anh Tâm, Lửa Mới, Nguyễn Sáng.
Chủ nhiệm : Trần Thịnh. Thư ký tòa soạn: Cao Nhị. Quản trị: Trần Quang Quế. In tại nhà in Lê Cường Hà Nội.
Sáng Tạo số 1 có các bài:
Lời mở- cũng như Xã Luận
Tiến tới thành lập Hội những người công tác nghệ thuật điện ảnh của Trần Công.
Cần xét lại quan niệm của những người lãnh đạo nghệ thuật điện ảnh của Nắng Mai Hồng
Góp thêm ý kiến với đồng chí Ni-Cô_Lai của Kỳ Nam
Mục tiếng nói Nghệ sĩ có bài Cám ơn Phồn Y của Trúc Quỳnh
Thiếu tướng Nguyễn Sơn người bạn của sân khấu, của văn nghệ sĩ của Thanh Châu.
Tiếng nói kịch nói của Phan Vũ.
Bạn thấy phim Liên –Xô thế nào của Cao Nhị.
Về đời sống Sân khấu, Điện ảnh có các bài phim Liên Xô, phim Mỹ, về chuẩn bị cho bộ phim truyện đầu tiên, về các đoàn kịch ở Hà Nội, về Vũ Trọng Phụng và kịch Không một tiếng vang.
Bìa Ai sẽ là Đan Thiềm trong Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng. Ở báo Nhân Văn thì nói rõ đó là Linh Phi.
Một bảng quảng cáo Cuộc thi đánh giá phim của báo Sáng Tạo
Hai tranh châm biếm. Bức một chế giễu người xem thiếu văn hóa trong rạp chiếu phim. Bức hai chế giễu lãnh đạo kỷ luật diễn viên bằng cách cho xuống bếp nấu cơm.
Mục tin tức sân khấu điện ảnh có tin đáng chú nhất là Ban vận động thành lập Hội những người công tác nghệ thuật điện ảnh. Ban thường trực gồm 3 người: Vũ Phạm Từ Trưởng ban, Trần Công và Phan Tại đạo diễn Ủy viên thường trực. 8 ủy viên BVĐ là Phạm Văn Khoa đạo diễn, Nguyễn Văn Vinh nhà sản xuất phim, Vũ Minh nhà sản xuất phim, Trúc Lâm đạo diễn, Trần Phương diễn viên, Nguyễn Đăng Bẩy quay phim, Nguyễn Tiến Lợi quay phim, Khương Mễ quay phim. Như vậy quan niệm tập hợp những người làm công tác điện ảnh tương đối cởi mở, gồm cả người miền Bắc, người miền Nam tập kết, người từ Việt Bắc về và người đô thị.
Sáng Tạo số 2 có các bài sau:
Tiếp bài Cần xét lại quan niệm của những người lãnh đạo nghệ thuật điện ảnh của Nắng Mai Hồng.
Một màn kịch Ba- Lan Người mẹ của S-da-ni-at-ski
Đề nghị chiếu phim Bel-ami
Hai giờ với đạo diễn Liên- Xô Ê-gô-rốp.
Có bệnh sùng bái phim Liên- Xô không ? của Vũ Phạm Từ
Điểm phim của Phạm Kỳ Nam
Phỏng vấn rạp Kim Đồng
Trong phong trào phản kích Nhân Văn - Giai Phẩm tất nhiên là báo Sáng Tạo cũng chịu búa rìu không kém các tờ Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới, Tự do diễn đàn. Chỉ có điều mãi đến khi cuộc chiến đã ngã ngũ, tờ báo Điện ảnh chính thống mới ra đời, giới điện ảnh quốc doanh mới ra đòn với nhóm Sáng Tạo.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên ân đã thuật lại như sau :
“Từ số 14 (ra ngày 1/5/1958), báo này ( tờ Điện ảnh) bắt đầu tham gia đợt đấu tranh chống Nhân văn–Giai phẩm do Trung ương Đảng phát động bằng bài ‘Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh’ của Trần Đức Hinh, chủ nhiệm tờ Điện ảnh. Trong loạt bài tiếp theo, ta thấy báo đăng những ý kiến của những bạn đọc một mực đề cao phim ảnh Liên Xô và đả kích bất cứ ai có ý nghi ngờ giá trị các bộ phim Liên Xô, hoặc những bài phê phán của chuyên gia: ‘Luận điệu phản động và âm mưu nguy hiểm của những phần tử Nhân văn–Giai phẩm về vấn đề tổ chức và lãnh đạo sản xuất phim ảnh’ của Bảo Kính (số 17, ra ngày 15/6/1958), Cần bóc trần âm mưu bôi nhọ lãnh đạo của một số người viết báo Sáng tạo’ của Nguyễn Duy Cẩn (số 18, ra ngày 1/7/1958); bên cạnh đó là một số bài tự kiểm điểm như ‘Tôi đã mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng trong việc giới thiệu phê bình phim ảnh’ của Cao Nhị (số 15, ra ngày 15/5/1958), ‘Tôi đã phạm sai lầm nghiêm trọng đối với Đảng’ của Vũ Phạm Từ (số 19, ngày 15/7/1958), ‘Đảng đã thức tỉnh tôi’ của Nắng Mai Hồng (số 20, ngày 1/8/1958).”
Trong bài ‘Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh’ của chủ nhiệm báo Điện ảnh Trần Đức Hinh có những đoạn đáng lưu ý sau:
“– Nửa tháng ‘Liên hoan phim Liên Xô’ khai mạc ngày 1/11/56, thì đúng ngày 5/11/56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản, trong đó có đăng bài ‘Chúng ta gắng nuôi con’, hoạt cảnh của Chu Ngọc, đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5/11/56, báo Sáng tạo ra số đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô.
Ngày 20/11/56, báo Nhân văn số 5 lại đăng bài ‘Mấy bộ phim dở’ của Cao Nhị. Cùng ngày ấy, báo Sáng tạo ra số 2, càng đả kích sống sượng hơn nữa vào các phim Liên Xô đang chiếu. Có phải đó chỉ là những hiện tượng ngẫu nhiên không? Đến nay trắng đen đã rõ: Trần Thịnh, người bỏ tiền ra làm báo Sáng tạo và là chủ nhiệm tờ báo đó, cũng chính là một người hùn nhiều vốn, một phần tử tích cực của báo Nhân văn.
Trong lời phi lộ, báo Sáng tạo đã tự nhận là cơ quan ngôn luận của “nhóm Sáng tạo”. Mà “nhóm Sáng tạo” thì lại gồm những mặt không xa lạ gì: Phan Tại, Trần Thịnh, Trần Công, Chu Ngọc, Phan Vũ, v.v… Và chính những người viết báo Sáng tạo, đến nay, đều phải thừa nhận Sáng tạo thực chất là một chi nhánh của Nhân văn, Giai phẩm.
– … Trước hết một luận điệu chung của họ là xuyên tạc và khoét sâu những khuyết điểm mà các nhà điện ảnh Liên Xô đã tự phê bình. Luận điệu này rất rõ nét trong bài ‘Góp thêm ý kiến với đồng chí Ni-cô-lai’ của Kỳ Nam. Kỳ Nam không hề nhắc tới những thành tựu của nền điện ảnh Liên Xô mà đồng chí Ni-cô-lai (đại biểu công ty xuất khẩu phim Liên Xô ở Việt Nam) đã trình bày. Trái lại, Kỳ Nam cố tình móc ra những khuyết điểm của phim Liên Xô xuyên tạc thổi phồng lên để gây một ấn tượng rất xấu đối với phim Liên Xô.
Như để dẫn chứng thêm cho Kỳ Nam, Cao Nhị đã đả kích một cách hằn học vào một số phim đang chiếu trong ‘Nửa tháng liên hoan phim Liên Xô’ nhất là vào phim Ngai vàng sụp đổ (được chọn chiếu trong lễ khai mạc). Theo Cao Nhị thì bộ phim khai mạc ấy tồi đến nỗi xem xong, đầu óc người ta “mờ mịt hẳn đi”, “cái đầu quên, mà thực cả tấm lòng lưu luyến, vấn vương với người trong phim cũng không có nữa”.
Mỉa mai và độc địa hơn, trong mục ‘điểm phim’ (Sáng tạo số 2), Kỳ Nam đã nêu những dòng ‘tít’ như sau: “Câu chuyện bỏ dở, câu chuyện nên bỏ vì dở; Họ là những người đầu tiên, không phải phim đầu tiên trong loại này’ (ý nói bộ phim chỉ là do những mẩu góp nhặt ở các phim khác chắp nối lại). Đây là một hành động nhỏ nhen và khiêu khích, vì đạo diễn bộ phim Họ là những người đầu tiên chính là đồng chí Ê-gô-rốp (lúc đó đang có mặt trong đoàn văn hóa Liên Xô sang thăm Việt Nam).
Hơn thế nữa, Trần Thịnh, Trần Công và một số nhân viên tòa soạn báo Sáng tạo còn tổ chức phỏng vấn đồng chí Ê-gô-rốp với dã tâm định dồn đồng chí vào thế bí bằng những câu hỏi hóc hiểm về những khuyết điểm của phim Liên Xô. Họ lại gay go với đồng chí Ê-gô-rốp trong một cuộc họp mặt ở xưởng phim. Rõ ràng là nọc độc của chủ nghĩa dân tộc tư sản hẹp hòi đã làm một số người trong tòa soạn báo Sáng tạo lúc ấy đả kích một cách lồng lộn, mù quáng vào phim Liên Xô và những người đại diện của điện ảnh Liên Xô.
Nọc độc của chủ nghĩa dân tộc tư sản cũng lộ liễu cả trong bài ‘Có hiện tượng sùng bái phim Liên Xô không?’ (của Vũ Phạm Từ, Sáng tạo số 2).
Song song với việc dè bỉu, bôi nhọ phim Liên Xô là sự ‘lo lắng thái quá’ cho giá trị phim của các nước tư sản. Họ lo rằng, chúng ta đối với phim tư sản, vì ‘không ưa’ cho nên ‘dưa hóa ròi’. Họ khó chịu khi chúng ta đặt phim Ô-ten-lô của Y-ut-kê-vich (Liên Xô) trên phim Ô-ten-lô của Oóc-xơn Oen-xơ (Mỹ) mặc dù điều này cũng đã được các nhà điện ảnh thế giới xác nhận (cũng trong bài ‘Có hiện tượng sùng bái phim Liên Xô không?’). Phan Vũ (trong Nhân văn số 2) và Chu Ngọc (trong Giai phẩm mùa thu tập 3) đều thi nhau tán tụng phim Anh gắng nuôi con (của Nhật) tới mức lố bịch. Điều này cũng không có gì lạ, nếu chúng ta biết cuối năm 1956, đi đôi với nhiều cuộc tấn công về các mặt khác, nhiều nhóm tư sản đang đấu tranh đòi Cục Điện ảnh phải cho chiếu lại những phim cũ mà họ đã thầu của các hãng tư bản trong thời gian Hà Nội còn bị tạm chiếm. Phạn Tại đã đứng ra đầu cơ trong cuộc đấu tranh đó để ăn hoa hồng. Và một số lớn các phim cũ đều giao cho Thụy An viết bản thuyết minh.
… Nhưng đây không phải chỉ là câu chuyện văn nghệ. Xuyên qua việc phê bình điện ảnh, họ nhắm đả kích cả vào chế độ. Điển hình hơn cả, độc ác hơn cả về mặt này là cái hoạt cảnh ‘Chúng ta gắng nuôi con’của Chu Ngọc đăng trong Giai phẩm mùa thu tập 3. Trong hoạt cảnh này thông qua cuộc bàn cãi về phim giữa hai vợ chồng một anh cán bộ, Chu Ngọc đã cố tình vẽ ra một đời sống ngột ngạt, lo sợ, hoài nghi. Ngột ngạt lo sợ đến nỗi không biết có “tự do khen chê” nữa không? Đến nỗi hai vợ chồng đọc tới tờ báo Nhân dân thì phải đỡ đứa con nhỏ cho nó “khỏi giật mình”; và hoài nghi hoang mang đến nỗi chồng hỏi vợ: “Này em, mình có phải là người nữa không?” Và vợ hỏi chồng: “Thế xưa nay, anh vẫn thấy bộ óc, trái tim là không phải của anh ư?”
… Những bài như trên phải được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v… đang nhan nhản lúc bấy giờ ở các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của nó.”
Sau khi báo Nhân văn bị đình bản và thu hồi, các tập Giai phẩm và các tờ Sáng tạo vẫn chưa bị cấm lưu hành. Nó vẫn còn tác động tới tư tưởng của những người còn giữ nó và những người xung quanh. Ảnh hưởng của những nọc độc ấy đã có dịp bộc lộ rõ rệt ngay cả trong báo Điện ảnh (của Cục Điện ảnh) nhân dịp tuần lễ phim Liên Xô kỷ niệm 40 năm Cách mạng tháng Mười, cuối năm 1957 (về những sai lầm này, tòa soạn báo Điện ảnh đã sơ bộ tự kiểm điểm trong số báo Tết Mậu Tuất)…
Ở một bài đấu tranh khác, hậu thế cũng sẽ chỉ rút được rất ít thông tin: bài‘Luận điệu phản động và âm mưu nguy hiểm của những phần tử Nhân văn–Giai phẩm về vấn đề tổ chức và lãnh đạo sản xuất phim ảnh’, ký bút danh Bảo Kính, (Điện ảnh số 17, ra ngày 15/6/1958). Xin dẫn một số đoạn:
“– Trong khi Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Phan Khôi, v.v… đả kích thậm tệ vào sự lãnh đạo của Đảng nói chung, thì Trần Công, giống như một tên lâu la đã nghe thấy tiếng mõ thúc quân xuống núi, liền tấn công điên cuồng vào tổ chức lãnh đạo ngành sản xuất phim.
Dưới đầu đề ‘Tiến tới thành lập Hội những người công tác điện ảnh’ (báo Sáng tạo số 1, ra ngày 5/11/1956), Trần Công đòi “xét lại tổ chức hiện tại đang lãnh đạo công tác làm phim”. Hắn chê bai những “người lãnh đạo”: nào là “quan niệm không đúng về văn nghệ và chính trị”, nào là “dùng mệnh lệnh bắt văn nghệ sĩ hành chính hóa cuộc sống, bắt họ đẻ non đẻ vội cho phục vụ kịp thời”. Hắn kêu la, cào mặt ăn vạ: “Tự do sáng tác bị ngăn trở, tự do dân chủ, tự do tư tưởng của người nghệ sĩ làm phim bị vi phạm nặng nề, sức sáng tác bị kìm hãm nặng nề”, v.v… Hắn kết luận trắng trợn: “Đã đến lúc phải xét lại toàn bộ vấn đề… phải định rõ vị trí và quyền hạn của Xưởng phim Việt Nam… Do những tệ lậu, những sai lầm nghiêm trọng của những người lãnh đạo nghệ thuật điện ảnh mà phải nhận định rằng tổ chức điện ảnh hiện nay không còn hợp lý nữa!”
–… Hoạt động của Trần Công hồi đó đã bị một số lớn anh em công tác điện ảnh phản đối; có những ý kiến đòi tống cổ hắn ra ngoài tổ chức. Tuy vậy, theo đường lối kiên trì giáo dục của Đảng ta, cơ quan Xưởng phim Việt Nam vẫn lưu hắn lại và giao cho làm công việc phiên dịch. Hắn không tự biểt mình, thường tự xưng là “nhà” đạo diễn điện ảnh, khuếch khoác đến cái mức lố bịch, khiến cho rất nhiều anh chị em công tác trong các bộ phận của Xưởng phim phải khó chịu. Thế nhưng rất đáng tiếc là cũng có một số anh em chúng ta lúc đó đã bị mắc vào cái thòng lọng của hắn mà viết những bài có tác dụng “chứng minh” hoặc “phát triển” những nhận định của hắn. Thí dụ như Nắng Mai Hồng viết bài ‘Cần xét lại quan niệm của những người lãnh đạo nghệ thuật điện ảnh’. Bài này đăng lòng thòng liền trong hai số báo Sáng tạo, đả kích lãnh đạo bằng những lời mỉa mai cay cú, kích động nhiều anh em khác.
Báo Sáng tạo chỉ mới ra được đến số 2 thì đã chết theo báo Nhân văn. Nhưng chỉ mới trong hai tờ Sáng tạo, chúng ta đã thấy đầy rẫy những bài, những đoạn, những mẩu vụn vặt (cả thủ đoạn trích đăng một phần vở kịch Không một tiếng vang của Vũ Trọng Phụng nữa) xoay quanh cái luận điệu đả kích của Trần Công, hoặc trắng trợn, hoặc lập lờ nham hiểm. Đối tượng đả kích nói chung là Xưởng phim Việt Nam, là Quốc doanh chiếu bóng, những cơ sở của nền điện ảnh xã hội chủ nghĩa.
– Cao Nhị (“Tôi đã mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng trong việc giới thiệu phê bình phim ảnh”, Điện ảnh số 15, ra ngày 15/5/1958) cho biết ông viết khá nhiều bài phê bình phim ảnh, đã đăng các báo ở Hà Nội hồi 1956 như Nhân văn, Cứu quốc, Hà Nội hàng ngày, Độc lập,… và tất nhiên, báo Sáng tạo. Với tờ này, ông cho biết ông đã nhận lời làm thư ký tòa soạn; trên tờ này ông đã viết những bài như ‘Bạn thấy phim Liên Xô thế nào?’, ‘Phỏng vấn rạp Kim Đồng’ (ký P.V.), ‘Hai giờ với đạo diễn Ê-gô-rốp’, (nhưng không ghi rõ là bài nào đăng số nào). Với vai trò là người chịu trách nhiệm về bài vở của tòa soạn Sáng tạo, Cao Nhị cho rằng ông đã cho đăng những bài “đả kích phim ảnh Liên Xô” của Trần Công, Nắng Mai Hồng, Phan Vũ, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam, v.v… trong số này ông chỉ kể tên một bài ‘Có hiện tượng sùng bái phim Liên Xô không?’ của Vũ Phạm Từ.
– Vũ Phạm Từ (“Tôi đã phạm sai lầm nghiêm trọng đối với Đảng”, Điện ảnh số 19, ngày 15/7/1958) cho biết ông là đảng viên được Đảng giao công tác trong ngành điện ảnh từ 1952; bài của ông tập trung nói về sai lầm của ông trong việc tham gia Ban biên tập báo Sáng tạo và trong việc viết bài ‘Có hiện tượng sùng bái phim Liên Xô không?’ đăng Sáng tạo số 2.
– Bài tự kiểm điểm của Nắng Mai Hồng (“Đảng đã thức tỉnh tôi”, Điện ảnh số 20, ngày 1/8/1958) chỉ được báo Điện ảnh trích đăng một đoạn. Tác giả kể lại, bài báo ‘Cần xét lại quan niệm của những người lãnh đạo nghệ thuật điện ảnh’ (đăng Sáng tạo số 1 và 2) vốn là tham luận dự định đọc trong hội nghị tổng kết phim thời sự của Xưởng phim; tác giả tập hợp những mắc míu trong công tác làm phim và một số hiện tượng “mà lúc ấy, với lối nhìn bi quan, lệch lạc trên kia, tôi cho rằng đó toàn là ‘tai nạn của anh em’ do các đồng chí cán bộ phụ trách Xưởng và đồng chí thứ trưởng phụ trách điện ảnh gây ra”. Ông nhận rằng mình đã sai lầm khi đồng ý để Trần Thịnh, Trần Công đưa đăng bài tham luận ấy trong báo Sáng tạo.”
Nhận xét của ông Lại Nguyên Ân đã nói tương đối rõ nội dung những bài cơ bản của hai số Sáng Tạo rồi. Đó là những tiếng nói trung thực và dũng cảm của những nghệ sỹ cấp tiến muốn khắc phục ngay những nhược điểm của nền sân khấu điện ảnh miền Bắc nhằm xây dựng nền sân khấu điện ảnh theo kịp thời đại cải cách dân chủ lần thứ nhất của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Trước khi báo Sáng Tạo ra đời, Trần Thịnh đã cùng Trần Công lên tiếng trên báo Nhân Văn số 3 ngày 15-10-1958 “ Đã tiến được một bước cần tiến thêm bước nữa”. Trên cơ sở đánh giá thành công của Hội nghị văn nghệ tháng 8-1956, thái độ nhận khuyết điểm về lãnh đạo văn nghệ của các ông Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, hai ông chưa tán thành thái độ tự phê bình nửa vời của lãnh đạo Hội Văn nghệ, lảng tránh việc thừa nhận nguyên nhân của tình trạng đó là tư tưởng sùng bái cá nhân, đường lối văn nghệ bảo thủ và động cơ cá nhân.
“ Tất cả những điều chưa thỏa đáng nói trên biểu hiện sự rụt rè của lãnh đạo, một sự rụt rè rất không hợp thời. Quần chúng mong đợi một thay đổi lớn chứ không muốn chứng kiến một cuộc vá víu.
Và trên tinh thần đó, anh chị em văn nghệ rất phấn khởi đón tin Trung ương Đảng sẽ gặp đoàn đại biểu của anh chị em trong một cuộc tọa đàm sắp tới.
Để gần nhau, chúng ta đã tiến được một bước đầu. Chúng ta sẽ cố gắng tiến thêm bước nữa.”
Khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm thất bại các hội văn học nghệ thuật vẫn được thành lập quãng giữa năm 1957, chỉ riêng có Hội Điện ảnh là không được ra đời. Có thể đó là hệ lụy do Ban vận động thành lập hội và nhóm Sáng Tạo gây ra. Mãi đến 1970 tức là sau vụ lớp nghệ sỹ điện ảnh thứ hai bị ảnh hưởng Liên Xô không còn là đáng ngại nữa Hội Điện ảnh Việt Nam mới được thành lập.
Những người tham gia nhóm Sáng Tạo và báo Sáng Tạo tất nhiên là đã chịu sự đối xử nghiệt ngã cho mãi đến sau này. Đạo diễn Phan Tại và nhà văn Thụy An thì bị đi tù. Bà Trúc Quỳnh thì bị rút khỏi thường vụ Ban chấp hành Hội Sân khấu. Các nhà văn Thanh Châu, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, Phan Vũ… im lặng một thời gian dài hoặc ngừng hẳn sáng tác.Còn vở kịch Vũ Như Tô thì mãi gần 40 năm sau mới được đạo diễn Phạm Thị Thành dựng cho Nhà hát Tuổi Trẻ.
Còn đạo diễn Trần Thịnh thì số phận như trong lý lịch của ông. Trần Anh Tú cho biết:
“Bố cháu dịch sách , viết bài gửi các báo bút danh Kim Thoa.
Mẹ cháu nhờ bạn bè lấy hợp đồng dịch sách
Mua xe ba gác cho thuê cũng bị cấm ( tội bôi nhọ chế độ) làm lò gốm họ không cấp giấy phép cho sản xuất....
Cứ bán nhà to mua nhà nhỏ và bán dần đồ đạc đến trắng tay. Họ hàng bên Pháp ( chị ruột mẹ cháu) thỉnh thoảng gửi chút quà ủng hộ”
Trần Thịnh vẫn ham mê làm phim với bạn bè. Ông nhận lời làm bộ phim Tội ác còn mãi sau chiến tranh về cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ ở Việt Nam. Trong thời gian sống ở những vùng nhiễm độc chính chất dioxin đã ủ bệnh cho ông.
Bệnh ung thư đã mang ông ra đi lúc 55 tuổi, ở cái tuổi một người bình thường vẫn còn sức làm việc và sáng tạo. Thật tiếc, có thể Trần Thịnh chưa được hưởng một chút mát lành của luồng gió đổi mới bắt đầu thổi trên đất nước.

Hà Nội 2016- 2017
Ảnh: Đạo diễn Trần Thịnh- Quyết định ra khỏi Xưởng phim, nhà thơ Phùng Quán đọc diếu văn bằng thơ- Báo Sáng Tạo số 1

Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017

Đấu đá giữa kỳ & Vận mệnh quốc gia

Tác giả: Nguyễn Quang Dy
  • Hội nghi TW5 đã bắt đầu. Sự cố Đồng Tâm chưa kịp lắng xuống thì tin kỷ luật ông Đinh La Thăng lại rộ lên. Không khí Hà nội lại nóng bỏng và ngột ngạt như trước ĐH XII, với những tin tức đồn đoán dồn dập. Sau ông Thăng sẽ đến lượt ai? Liệu ông Nguyễn Tấn Dũng có còn an toàn? Ai sẽ thay ông Thăng tại thành phố Hồ Chí Minh? Nhưng quan trọng hơn cả là ai sẽ giành được chiếc ghế Tổng Bí thư? Phải chăng những ân oán chưa kịp thanh toán tại ĐH XII thì nay phải thanh lý? Có lẽ vấn đề nhân sự còn quan trọng hơn cả vận mệnh quốc gia.
Đối với nhiệm kỳ của một chính phủ mới, việc kiểm điểm hay đánh giá giữa kỳ (mid-term review) là một thông lệ cần thiết (đúng quy trình). Muốn đánh giá khách quan để có một bức tranh phản ánh đúng hiện trạng, nhằm cải cách thể chế theo định hướng “kiến tạo, phục vụ, liêm chính và hành động”, người ta thường tham vấn ý kiến của các chuyên gia tư vấn độc lập. Dưới đây là một số đánh giá khái quát về thực trạng Việt Nam trước TW5.     
Chính phủ kiến tạo
Ngay tại đại hội doanh nghiệp nhỏ và vừa (3/12/2016) thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh “phải xóa bỏ ngay tình trạng quan hệ thân hữu đang bóp chết việc làm ăn chân chính, xóa bỏ tư tưởng quan hệ tốt với chính quyền sẽ có cơ hội tiếp cận tốt hơn các tài nguyên đất đai, thể chế và các ưu đãi ngầm”. Chính phủ xác định trọng tâm trách nhiệm của mình là “cải cách thể chế” để xây dựng chính sách và thực hiện chiến lược đúng quy hoạch. Trong chỉ đạo và điều hành phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng, xóa bỏ cơ chế “xin-cho”, chống lại lợi ích nhóm, tham nhũng và trục lợi. (Người Lao Động, 3/12/2016).
Từ khi nhậm chức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cam kết trước toàn dân về một chính phủ “kiến tạo, phục vụ, liêm chính và hành động”. Ngay từ đầu, Thủ tướng đã tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Ông đã tạo được dấu ấn nhất định với cộng đồng doanh nghiệp bằng cách đối thoại trực tiếp, và đưa ra Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 (năm 2016) và Nghị quyết 19 (năm 2017) để thúc đẩy “cải cách môi trường kinh doanh”. Đó là một định hướng đúng, nhưng các nghị quyết ở cấp chính phủ chưa đủ. Nhưng nếu thiếu hoặc chậm tiến hành cuộc cải cách thể chế mạnh mẽ vào lúc này thì sẽ không thể có được một chính phủ kiến tạo để dẫn dắt sự phát triển.
Ngay với ba nghị quyết nói trên, muốn có kết quả thực sự, Thủ tướng phải có sự đồng hành của lãnh đạo các cấp, đặc biệt là các bộ trưởng và chủ tịch các tỉnh/thành phố. Nhưng trên thực tế, chưa thấy có sự đồng hành đó. Lãnh đạo các cấp vẫn còn “đủng đỉnh, ỳ ạch, đẩy qua đẩy lại công việc cho nhau và chậm giải quyết theo chức trách của mình”. Một số bộ, ngành vẫn bám giữ những chính sách lỗi thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp và một số ngành nghề. Giữa lời nói và việc làm vẫn còn một khoảng cách xa vời, chưa khắc phục được. (“Thể chế cho một chính phủ kiến tạo”, Doanh nhân Saigon cuối tuần, 24/01/2017).
Theo bà Phạm Chi Lan, trong số các di sản của chính phủ trước, vấn đề nan giải số một là nợ công, thứ hai là nợ xấu ngân hàng, và thứ ba là ba đột phá chiến lược thực hiện chậm. Nhưng đến nay các vấn đề này vẫn còn rất nan giải. “Tiền đề quan trọng nhất là đổi mới tư duy thì vẫn chưa làm được” trong đông đảo đội ngũ nhà nước(“Bà Phạm Chi Lan trả lời phỏng vấn về thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc”, Huỳnh Phan, VietnamNet, 10/9/2016).
Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp nhận xét rằng thủ tướng Nguyễn xuân Phúc đã tập trung cải cách môi trường kinh doanh để khắc phục hậu quả do chính phủ trước để lại: hệ thống ngân hàng yếu kém, thâm hụt ngân sách lớn, các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ và tham nhũng. Chủ trương đó đã làm cộng đồng doanh nghiệp tin tưởng hơn vào chương trình cải cách của chính phủ mới và một số thay đổi ban đầu đã được quốc tế thừa nhận. Tuy nhiên chương trình cải cách gặp phải nhiều thách thức, nhất là xu hướng bảo hộ ngày càng tăng trên thế giới, và hiệp định thương mại TPP bị Mỹ bỏ rơi. Đó là những rào cản làm ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế và làm chậm đà cải cách của Việt Nam trong mấy năm tới. (“Reviewing Vietnam’s Economic Reforms since the CPV’s 12th Congress”, Lê Hồng Hiệp, January 5, 2017).    
Theo giáo sư Carl Thayer, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc “có tinh thần đồng đội”, và những kinh nghiệm chuyên sâu trong việc điều hành chính quyền địa phương ở Quảng Nam trước đây cũng như  khi làm Bộ trưởng – Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ, và Phó thủ tướng sau này. Tuy vậy,  Carl Thayer chỉ ra 4 thách thức mà ông Nguyễn Xuân Phúc đang đối mặt: (1) giảm nợ công, (2) cải cách hệ thống ngân hàng, (3) cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, (4) chống tham nhũng. Carl Thayer nhận xét, “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là một nhà điều hành và thực thi chính sách có năng lực. Chúng ta có thể kỳ vọng vào những thành quả trong nhiệm kỳ của ông ấy”. (“Một năm của Chính phủ kiến tạo và hành động”, Zing, 10/4/2017).
Theo giáo sư Alexander Vuving, chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cần cải cách thể chế để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng. Tuy còn hơi sớm để kết luận có đột phá được không, nhưng có nhiều lý do để hy vọng đổi mới sẽ tiếp tục diễn ra. Ngoài đổi mới nhân sự lãnh đạo cấp cao sau Đại hội đảng lần thứ XII, có một số xu thế lớn đang thúc đẩy chính trị và kinh tế Việt Nam theo hướng đổi mới hơn nữa. Mục tiêu này cần trải qua nhiều bước, mà bước đầu tiên có thể tiến hành ngay là rà soát lại các văn bản dưới luật, như các quy định, thủ tục, nghị định, thông tư, chỉ thị. Cần mạnh tay loại bỏ các rào cản để giảm mạnh chi phí kinh doanh, đồng thời sửa lại các quy định theo hướng bảo vệ lợi ích chung, và giảm thiểu lợi ích nhóm.
Song song với quá trình này, cần tinh giản và sắp xếp lại bộ máy nhân sự nhà nước, bao gồm các cơ quan công quyền và doanh nghiệp nhà nước để tăng hiệu quả, hiệu lực và năng suất của khu vực công. Hiện tượng hiệu quả thấp và năng suất thấp không chỉ phổ biến ở khu vực nhà nước mà cả ở khu vực tư nhân. Việc tăng hiệu quả đầu tư và tăng năng suất lao động là những thách thức lớn mà chính phủ mới cần phải tìm mọi cách vượt qua.
Tiến sỹ Huỳnh Thế Du (Đại học Fulbright, Việt Nam) nhận xét “Ấn tượng lớn nhất của tôi là những hành động thực tiễn, đúng với khẩu hiệu Chính phủ hành động mà thủ tướng đã đề ra”. Thủ tướng đã có nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, cố gắng cải cách thể chế để tạo ra sự minh bạch trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, “nhưng chưa thấy một chiến lược rõ ràng để giải quyết căn bản vấn đề bộ máy hành chính cồng kềnh, thể chế thiếu minh bạch, làm rõ trách nhiệm giải trình của cán bộ lãnh đạo”. Trong năm đầu tiên giữ cương vị đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đi thăm nhiều nước (Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Mông Cổ, Lào, Campuchia và Thụy Sĩ), nhằm thúc đẩy quan hệ đối ngoại. 
Đại sứ Anh Giles Lever nói, “Tôi ấn tượng nhất với thành tựu của Chính phủ trong cải thiện môi trường kinh doanh. Trong xếp hạng của Ngân hàng Thế giới năm nay, Việt Nam đã tăng tới 9 bậc, trở thành một trong 60 nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới”.
Tuy các chuyên gia nhận xét khá tích cực về chủ trương cải cách của chính phủ mới, nhưng họ cũng vạch ra nhiều thách thức và rủi ro có thể làm thui chột kết quả. Liệu đấu đá tranh giành quyền lực giữa kỳ sẽ thúc đẩy hay cản trở cải cách thể chế? 12 dự án lớn thua lỗ hàng chục ngàn tỷ đồng, đang được bàn hướng xử lý, nhưng dường như vẫn chưa có ai chịu trách nhiệm. Sau PVN sẽ là vụ nào tiếp ? Vấn đề cải cách thể chế và “nhất thể hóa” bộ máy và chức danh lãnh đạo (mở rộng đề án 25) liệu có được xác quyết lần này (TW5) hay lần sau (TW6)? Đây là những hội nghị trù bị cho Đại hội giữa nhiệm kỳ vào năm 2018, nên qua vụ PVN và 12 vụ án lớn phải xét xử trong năm nay, chắc có nhiều quan chức phải vào tù.
Bàn cờ đối ngoại
Chủ nghĩa biệt lập và xu hướng bảo hộ trong nước (đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới), thay vì toàn cầu hóa và thương mại tự do, sẽ cản trở Việt Nam tiếp tục đổi mới và phát triển. Không có hiệp định TPP, Việt Nam sẽ bị hẫng hụt vì mất một cơ hội lớn để mở rộng thị trường ngoài nước, đồng thời mất một sức ép mạnh từ bên ngoài để thực hiện cải cách thể chế trong nước. Việt Nam có nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Manila (26-29/4/2017), Tuyên bố Chung của ASEAN không nhắc gì đến việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, vì ASEAN bị Trung Quốc phân hóa.   
Tuy hy vọng đến một lúc nào đó ông Donald Trump sẽ đổi ý (như các vấn đề khác) và quay lại với TPP, nhưng đừng nên trông đợi vào khả năng này. Việt Nam phải mau chóng đàm phán để thực hiện một “TPP minus” (trừ Mỹ), nhằm tận dụng các cơ hội của hiệp định này trong khuôn khổ 11 nước, đồng thời có những nỗ lực rất lớn để thúc đẩy xuất nhập khẩu và đầu tư với thị trường Mỹ. Việt Nam cũng phải khai thác tối đa các cơ hội thị trường với những đối tác quan trọng khác như Liên Minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, AEC. Tăng cường nội lực vừa là tiền đề tối cần thiết cho phát triển của Việt Nam, vừa là điều kiện không thể thiếu để Việt Nam có thể hội nhập, hợp tác kinh tế tốt với các đối tác bên ngoài.
Quan hệ Mỹ-Trung dưới thời Tổng thống Donald Trump tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cả hai kịch bản sau đều nguy hiểm cho Việt Nam: (1) Căng thẳng gia tăng dẫn đến xung đôt Mỹ-Trung (về thương mại hay Biển Đông) và (2) hòa hoãn dẫn đến bắt tay hợp tác Mỹ-Trung (đi đêm) hy sinh lợi ích của đồng minh và bạn bè (như năm 1972-1975). Việc tái cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc trong tam giác Mỹ-Trung-Việt sẽ khó hơn. Vì vậy ngoài Mỹ, Việt Nam phải mau chóng tăng cường đối tác chiến lược với các cường quốc Tây Âu (như Anh, Pháp, Đức), và với các cường quốc Châu Á (như Nhật, Ấn Độ, Úc) trong khuôn khổ đối tác chiến lược mới ở Châu Á-TBD để đối phó với Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông.  
Việt Nam có chủ trương “làm bạn với tất cả”. Nhưng theo tiến sỹ Vũ Quang Việt (chuyên gia LHQ) “Từ xưa tới giờ, Việt Nam chưa bao giờ là đồng minh của Mỹ. Có thể nói thật ra Việt Nam tưởng Trung Quốc là đồng minh của mình nhưng không phải như vậy. Cho nên, Việt Nam không có đồng minh, mà cơ bản là không có bạn. Ngay cả Nga cũng không phải là bạn của Việt Nam, mà Nga cũng không coi Việt Nam là bạn”. Ông Việt cho rằng Việt Nam phải nhận thấy thực tế đó để không ảo tưởng, và có đường lối độc lập tự chủ.
Ngay sau khi Donald Trump đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Xuân phúc đã có cuộc điện đàm ngắn với ông Trump (14/12/2016), và khẳng định “Việt Nam coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Mỹ”. Tổng thống đắc cử Donald Trump đánh giá cao những thành tựu Việt Nam đạt được và những tiến triển tích cực trong quan hệ hai nước và “khẳng định mong muốn hợp tác với Việt Nam để cùng thúc đẩy quan hệ”. (VietnamNet, 15/12/2016).
Trong lần gặp Đại sứ Ted Osius (nhân dịp ông được tái cử làm đại sứ tại Việt Nam), Chủ tịch nước Trần Đại Quang cho biết ngày 23/2/2017, Tổng thống Donald Trump đã gửi thư cho Chủ tịch và “khẳng định mong muốn thúc đẩy hợp tác”. Đó là những tín hiệu tốt từ phía Mỹ, nhưng nên nhớ Donald Trump vẫn là một ẩn số khó lường. Việc Bộ Quốc phòng Mỹ không cho hải quân tiếp tục tuần tra (FONOPS) tại Biển Đông làm người ta lo ngại Trump có thể đổi chác vấn đề Biển Đông lấy vấn đề hạt nhân Triều Tiên. (“Trumps Turn Toward China Curtails Navy Patrols in Disputed Zones”, Helene Cooper, NYT, May 2, 2017). 
Các chuyên gia tại CSIS (như Phương Nguyên) cho rằng “phe người lớn” (the Axis of Adults) trong chính quyền Mỹ (như H.R. McMaster, James Mattis, Rex Tillerson) sẽ không dễ dàng để Tổng thống Trump có thể làm ảnh hưởng đến vị trí chiến lược của Mỹ ở châu Á-TBD. Năm 2014, khi TNS John McCain thăm Hà Nội (khi Trung Quốc hạ đặt dàn khoan HD981) ông McCain đã từng khuyên Việt Nam “Chúng ta phải nhanh lên”. Nhưng đáng tiếc lúc đó Việt Nam vẫn đang đánh đu với Mỹ và Trung Quốc, nên bỏ qua cơ hội.
Tại sao Tổng thống Donald Trump gửi thư cho Chủ tịch nước Trần Đại Quang (23/2/2017), chứ không phải là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hay Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc? Trong “Tứ trụ” hiện nay ông Trần Đại Quang vẫn là một ẩn số. Khi còn làm Bộ trưởng Bộ Công An, ông Trần Đại Quang đã đi thăm Mỹ gần một tháng (3/2015) nhưng vẫn chưa đi thăm Trung Quốc lần nào. Người ta cho rằng ông Trần Đại Quang có thể kế thừa đường lối đổi mới của ông Nguyễn Tấn Dũng. Quan điểm đổi mới của ông Lê Kiên Thành gần đây dường như phản ánh phần nào quan điểm của Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Bộ trưởng Tô Lâm. (“Nghĩ về cuộc đổi mới lần 2”, Lê Kiên Thành, CAND, 19/2/2017).  
Sau khi thăm Trung Quốc, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã sang thăm Mỹ, hội đàm với Ngoại trưởng Rex Tillerson tại Washington (20/4/2017). Ông Trần Bình Minh đã chính thức trao thư của Chủ tịch nước Trần Đại Quang mời Tổng thống Donald Trump tham dự Hội nghị cấp cao APEC 2017 và thăm chính thức Việt Nam. Ông Tillerson đã khẳng định Tổng thống Donald Trump sẽ tham dự Hội nghị cấp cao APEC 2017 tại Đà Nẵng. Tại cuộc hội đàm giữa Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh với Cố vấn Hội đồng An ninh quốc gia H.R. McMaster (21/4/2017) ông McMaster đã trao thư của Tổng thống Donald Trump chính thức mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Hoa Kỳ. (VietnamNet, 21/4/2017).
Thực trạng đất nước
Thứ nhất là suy thoái về kinh tế và khủng hoảng tài chính, do nợ công khổng lồ và nợ xấu ngân hàng ngày càng gia tăng. Tình trạng “thu không đủ chi” dẫn đến bội chi ngân sách làm thâm hụt ngân sách trầm trọng, buộc chính phủ phải bán tháo vốn ở một số doanh nghiệp lớn. Theo đồng hồ nợ công quốc tế (the Economist), nợ công của Việt Nam (nợ chính phủ) đã tới ngưỡng báo động (65% GDP). Nhưng theo tiến sĩ Vũ Quang Việt (chuyên gia thống kê của LHQ), tổng số nợ công (năm 2016) là 431 tỉ USD (bằng 210% GDP). Đây là tổng số nợ của chính phủ và nợ của các doanh nghiệp nhà nước, sau khi trừ đi phần chính phủ bảo lãnh trùng lặp. Theo ông Việt, riêng nợ của 3200 DNNN là 324 tỉ USD (2016), bằng 158% GDP. (“Nợ, trả nợ và khủng hoảng”, Vũ Quang Việt, TBKTSG, 9/2/2017).
Thứ hai là suy thoái của hệ thống chính quyền và khủng hoảng lòng tin trong nhân dân (kể cả “một bộ phận không nhỏ” cán bộ đảng viên). Chính quyền “của dân, do dân, vì dân” đã trở thành khẩu hiệu suông, hay nói khác đi là “của nhóm lợi ích, do nhóm lợi ích ,vì nhóm lợi ích”. Trong thực tế, các nhóm lợi ích đã lợi dụng các lỗ hổng về thể chế, đặc biệt là chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và các nguồn tài nguyên khoáng sản, để thao túng chính sách nhằm trục lợi. Có lẽ chế độ sở hữu ruộng đất bất cập này là quả bom nổ chậm lớn nhất hiện nay. Sự cố Đồng Tâm vừa qua là một ví dụ điển hình.
Thứ ba là suy thoái về hệ tư tưởng và khủng hoảng thể chế. Mô hình kinh tế thị trường “định hướng XHCN” và “sở hữu toàn dân” đã bộc lộ quá nhiều bất cập và rủi ro. Doanh nghiệp nhà nước (là “quả đấm thép”) đã bộc lộ quá nhiều yếu kém về quản trị, nên đánh mất vai trò chủ đạo, trở thành gánh nặng như tội đồ của nền kinh tế. Cổ phần hóa và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước vẫn chậm, vì bị các nhóm lợi ích thao túng. Có người lo nếu bỏ chính sách “hạn điền”, liệu các nhóm lợi ích có thao túng chiếm đoạt đất nhiều hơn không? 
Thứ tư là suy thoái về văn hóa, giáo dục và khủng hoảng nhân cách. Theo Dân Trí (31/5/2016) hiện nay có 225.000 cử nhân/thạc sĩ thất nghiệp. Cả nước có 412 trường đại học/cao đẳng, với 2,2 triệu sinh viên trong 95 triệu dân (một tỷ lệ còn cao hơn các nước phát triển). Theo Bộ Lao đông, Thương binh, Xã hội, đến quý III/2016, cả nước có hơn 1,1 triệu người trong độ tuổi lao động thất nghiệp, trong đó số có bằng cử nhân trở lên chiếm 1/3. Đó là cảnh báo về khủng hoảng giáo dục, làm chất lượng nguồn nhân lực và năng suất thấp. Trong khi đó giới trí thức vẫn tranh cãi gay gắt về chất lượng và tiêu chí phong hàm giáo sư. Hàng năm cả nước có 8000 lễ hội, tình trạng lãng phí, bạo lực và thiếu văn hóa tại các lễ hội đáng báo động.  
Thứ năm là suy thoái về môi trường (đặc biệt là môi trường biển, nguồn nước ngọt, rác thải và không khí). Nhiều dự án lớn đã gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường nghiêm trọng (như nhiệt điện/thủy điện). Điển hình nhất là siêu dự án thép Formosa đã gây ra thảm họa môi trường miền Trung (như một quả bom nổ chậm). Nguyên nhân chính là do tư duy chụp giật (vì dốt và tham lam) muốn đầu tư vào dự án lớn bằng mọi giá, bất chấp rủi ro về môi trường.
Bài học Vinashin   
Một ví dụ điển hình dẫn đến khủng hoảng tài chính và nợ công khổng lồ, là do những bê bối của “con tàu đắm Vinashin” và các tập đoàn kinh tế khác. Đó là một vòng tròn luẩn quẩn không có lối thoát, do tư duy quản trị sai lầm và yếu kém, bị các nhóm lợi ích thao túng lỗ hổng thể chế để tham nhũng trục lợi, dẫn đến vấn nạn kinh tế hiện nay. Vào thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Vinashin đã nợ tới 86 ngàn tỷ VNĐ (bằng 4 tỷ USD, chiếm 2,5% GDP). 
Năm 2005 chính phủ phát hành 750 triệu USD trái phiếu, kỳ hạn 10 năm, lãi xuất 7,125%/năm tại thị trường CK New York, hạn trả gốc và lãi là 2016. Chính phủ đã cho Vinashin vay lại toàn bộ 750 triệu USD để phát triển ngành đóng tàu. Nay khoản vay này đã tiêu tán hết, nhưng Vinashin không có khả năng trả nợ, và hồ sơ vụ này đã “khép lại”. Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành nói rằng giao toàn bộ 750 triệu USD cho Vinashin là “lỗi cực kỳ lớn”.
Năm 2010, chính phủ phát hành 1 tỷ USD trái phiếu, kỳ hạn 10 năm, lãi suất 6,75%/năm tại sở giao dịch CK Singapore. Chính phủ đã cho các tập đoàn dầu khí, điện lực, Vinalines vay lại. Số  tiền này cũng bị “nuốt chửng” như Vinashin. Năm 2014, chính phủ định phát hành 1 tỷ USD trái phiếu, nhưng lần này không thành. Cuối năm 2015, chính phủ lại một lần nữa định phát hành 3 tỷ USD trái phiếu, nhưng đến giữa 2016 thì kế hoạch này phá sản.
Đến năm 2017, món nợ Vinashin vẫn còn gần như nguyên vẹn, và trách nhiệm trả nợ chuyển sang chính phủ ông Nguyễn Xuân Phúc. Vào quý 1/2017 chính phủ lại “kêu trời” vì nếu trả nợ cho Vinashin trong 10 năm tới bằng tiền dự phòng ngân sách (như tiền lệ), thì phải có 63,2 ngàn tỷ đồng. Nay lấy đâu ra số tiền khổng lồ nói trên? Vinashin (nay là SBIC) đang ăn vạ chờ Bộ Tài chính xử lý, trong khi Bộ Tài chính phải đối phó với bội chi ngân sách khổng lồ, không biết lấy đâu ra tiền để nuôi hai bộ máy khổng lồ của đảng và chính phủ…
Bài học PVN
Dầu khí là ngành mũi nhọn, đóng góp nhiều nhất cho GDP (trước đây là 24%). Vì vậy PVN luôn đươc ưu tiên cao nhất và có nhiều đặc quyền nhất (nên rất khó kiểm soát/giám sát). Tuy nói đơn giản chỉ cần hút dầu thô lên bán, nhưng tại sao PVN và các công ty con vẫn thua lỗ? Phải chăng nhiệm vụ của PVN không phải chỉ đóng góp cho GDP, mà còn phải “nuôi” lãnh đạo (và nhóm lợi ích). Vì vậy, nhóm nào lên cầm quyền cũng nắm PVN.  
Ngày 27/4/2017, UBKTTW đề nghị xem xét kỷ luật uỷ viên BCT Đinh La Thăng. Luật sư Trần Quốc Thuận (nguyên Phó Chủ nhiệm VP Quốc hội) cho rằng đây là lần đầu tiên trong lịch sử UBKTTW đề nghị xem xét kỷ luật một Ủy viên BCT đương chức. Nhưng điều còn bất bình thường hơn là tại sao một cán bộ mắc nhiều sai phạm như vậy, nhưng lại được bổ nhiệm giữ chức vụ cao hơn. Cần phải làm rõ trách nhiệm của người bổ nhiệm.
Một điều đáng lưu ý nữa là trước đây, ông Đinh La Thăng đã từng được ca ngợi là “tư lệnh” năng động, táo bạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong công tác. Ông Vũ Mão (và nhiều người khác) đã từng khen Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng hết lời, “Tôi hoan nghênh và ủng hộ những việc làm thể hiện tư duy, phong cách mạnh mẽ của của Bộ trưởng Đinh La Thăng”. (VietnamNet, 11/2011). Vậy những vị đó nay nói gì? 
Báo cáo tài chính của PVN (năm 2010) đánh giá cao “thành tích” của ông Đinh La Thăng. Thông báo của BCHTW số 148-TB/TW, về tình hình hoạt động của PVN trong 7 năm (2007-2014) cũng đánh giá cao “Ngành Dầu khí đã phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện cả về chiều rộng và chiều sâu, trở thành ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng…”.
Nhưng nay UBKTTW kết luận là thời kì 2009-2011 ông Đinh La Thăng đã mắc phải các khuyết điểm như: “Đầu tư phân tán, dàn trải; thiếu kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các dự án ở thời kỳ làm lãnh đạo Tập đoàn, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp… Chịu trách nhiệm khi ký ban hành Nghị quyết 233/NQ-ĐU, ngày 17/3/2009 của Đảng uỷ Tập đoàn PVN có nội dung không phù hợp với quy định pháp luật…” Nếu trước đây BCHTW đã đánh giá sai thì nay những người có liên quan trong vụ việc này có chịu trách nhiệm không?
Trong một mô hình kinh tế (và thể chế) bất bình thường như hiện nay, thì việc phân định đâu là lỗi của cá nhân (ông Đinh La Thăng) và đâu là lỗi của hệ thống, là một việc khó nhưng cần làm rõ. Nếu “đánh chuột sợ vỡ bình” thì làm sao chống được tham nhũng? Nếu đã truy cứu trách nhiệm của ông Đinh La Thăng tại PVN, thì cũng phải truy cứu trách nhiệm những ai đã quyết định cho PVN đầu tư vào dự án Dung Quất và đầu tư sang Venezuela. Chỉ vì những lý do chính trị hồ đồ mà họ đã gây tổn thất nặng nề cho ngân sách (1,8 tỉ USD) trong tình hình tài chính khó khăn hiện nay. Vậy ai phải chịu trách nhiệm về những tổn thất này?
Cùng với ông Vũ Huy Hoàng và Trịnh Xuân Thanh, ông Đinh La Thăng khó thoát được tội, vì đã tìm cách tẩu tán 7 tỷ USD tiền lãi do chênh lệch giá bán dầu khí từ những năm 2009-2011. Chính ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Vũ Huy Hoàng đã phát hiện ra khoản tiền lãi “trời cho” như vô chủ này (do giá dầu tăng vọt từ 50 USD lên 140 USD/thùng). Tuy ông Trịnh Xuân Thanh cũng biết, nhưng chỉ có ông Đinh La Thăng và trợ lý là Vũ Đức Thuận mới biết cụ thể. Ông Thăng đã trình ông Nguyễn Tấn Dũng duyệt hàng loạt dự án ma để tẩu tán khoản tiền khổng lồ đó, mà tổng công ty PVC của ông Trịnh Xuân Thanh là đầu mối.
Thay lời kết
Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước 3 nguy cơ có thể cản đường đổi mới: Thứ nhất, đồng tiền Việt Nam có thể bị mất giá từ 4% đến 5% trong năm 2017. Thứ hai, tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu tiếp tục sụt giảm, ảnh hưởng đến thương mại và thu hút FDI của Việt Nam. Thứ ba, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế với các FTA mới đang gặp nhiều khó khăn, có thể làm suy giảm động lực cải cách thể chế của Việt Nam.
Tăng trưởng thực sự của Viêt Nam hiện nay chỉ bằng 5% (theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh). Thảm hoạ môi trường biển do nhà máy Formosa Vũng Áng gây ra từ tháng 4/2016 đến nay làm cho hàng trăm ngàn ngư dân phá sản. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, bị hạn hán và ngập mặn nặng nề, làm sản xuất lúa gạo bị tổn hại nghiêm trọng. Về chăn nuôi, giá heo giảm xuống mức kỷ lục hiện nay, đang làm nông dân điêu đứng.
Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cả khủng hoảng kinh tế lẫn xã hội và chính trị. Không phải chỉ có dân chúng mất niềm tin, doanh nghiệp hoang mang, mà cả cán bộ cao cấp cũng nhấp nhổm chuồn ra nước ngoài (mỗi khi bị truy cứu trách nhiệm). Hội nghị TW5 sẽ mở màn cho một đợt thanh trừng mới, đẩy tranh giành quyền lực lên một tầm cao mới. Nhưng nếu không cải cách thể chế (chính trị) thì không thể tránh được khủng hoảng chính trị.
Muốn chống tham nhũng, trước hết phải kiểm soát quyền lực (bằng tam quyền phân lập). Thứ hai là phải tư hữu hoá đất đai và tài sản công. “Đánh chuột sợ vỡ bình” là một nghịch lý chết người do thể chế hiện nay đang làm hệ thống phân liệt. Bắt xong sâu này sẽ có sâu khác, nếu cái lồng ấp sâu vẫn còn nguyên. Diệt xong hổ này sẽ có hổ khác nếu nguyên nhân sinh ra và nuôi dưỡng hổ báo vẫn còn. Đã đến lúc phải dũng cảm thay đổi thể chế (thậm chí phải thay bình mới) thì may ra mới giải được nghiệp chướng hiện nay để thoát hiểm. Xét cho cùng, nguy cơ của dân tộc Việt Nam không phải chỉ là “thù trong” mà còn là “giặc ngoài”.  Vì vậy, nếu không sớm dẹp được “thù trong”, thì làm sao có thể chống được “giặc ngoài”?
NQD. 5/5/2017