Thứ Hai, 28 tháng 8, 2017

Trịnh Vĩnh Bình và vụ án xuyên thế kỷ


Kỳ 1: Đi theo tiếng gọi ‘Về nước đầu tư’


Khánh An, VOA

Trước năm 1975, gia đình ông Trịnh Vĩnh Bình có một cửa hàng bán sỉ vải ở Thương xá Châu Hải Thành, quận 6, Sài Gòn.

Gia đình ông còn làm thêm nghề nuôi tằm, dệt vải.

Năm 1976, ông cùng vợ, 3 con và vài anh em vượt biên ra nước ngoài. Sống tại trại tạm cư Songkhla, Thái Lan, hơn 4 tháng thì gia đình được sắp xếp đi định cư theo diện tị nạn tại Hà Lan.

Năm ấy, ông Bình 29 tuổi.

“Vua Chả Giò”

Những năm đầu chân ướt chân ráo đến quốc gia Âu châu xa lạ, ông Bình kiếm sống bằng cách đi “làm hãng” và làm nghề thông dịch viên, mặc dù “vốn tiếng Hà Lan còn rất yếu.”

Nung nấu ý định tiếp tục kinh doanh, ngoài giờ làm, ông tranh thủ đăng ký học khóa vải sợi thời trang tại Đại học Mở Detex Amsterdam, với ý định sẽ làm giàu với nghề “gấm hoa” đã từng có nhiều kinh nghiệm từ Việt Nam.

Tuy nhiên, sau những lần đi khảo sát và phát hiện thị trường vải sợi châu Âu những năm đầu thập niên 1980 xuống dốc trầm trọng, trong khi ngành thực phẩm lại có nhiều cơ hội phát triển, ông Bình nảy ý định chuyển sang kinh doanh thực phẩm xuất khẩu ra thế giới.

Tốt nghiệp đại học năm 1984, ông bắt đầu đăng ký làm đại lý xuất khẩu các mặt hàng thực phẩm có tiếng như sữa đặc Omela của hãng C.C. Firesland (tức sữa “Cô Gái Hà Lan” hiện nay), xì dầu Maggi của hãng Nestle…

Ông Trịnh Vĩnh Bình trong một chuyến về thăm dò thị trường đầu tư ở Việt Nam cùng nhóm doanh nghiệp Hà Lan.

Nhập quốc tịch Hà Lan năm 1985, ông tiếp tục học lấy bằng Quản trị Kinh doanh. Sau khi tốt nghiệp năm 1986, ông mở thêm hai tiệm thực phẩm (loại mini market) tại Hà Lan và bắt đầu nghiên cứu sản xuất chả giò, món ăn khai vị rất được ưa thích của Việt Nam, theo công nghệ tự động.

Năm 1989, sau khi xây dựng xong nhà máy sản xuất chả giò, ông Bình bắt đầu cung cấp chả giò cho các hệ thống siêu thị tại Hà Lan, sau đó là Bỉ và Anh quốc.

Trong một thời gian ngắn, thương hiệu chả giò Trinh’s (Trịnh) đã được biết tiếng và xếp hàng thứ 3 trên thế giới, chỉ sau Mora của Unilever và Duif của Bols Wassanen.

Ông Trịnh Vĩnh Bình trở thành triệu phú tại Hà Lan với biệt hiệu “Vua Chả Giò.”


Trở về

Ý định về Việt Nam đầu tư xuất phát từ một lần ông Bình đến Tòa đại sứ Việt Nam tại Pháp (lúc đó Việt Nam chưa có đại sứ quán tại Hà Lan) để xin visa về nước thăm gia đình.

“Khi tôi đến xin visa, bên sứ quán ra tiếp chuyện. Khi biết tôi có làm ăn bên Hà Lan, họ bắt chuyện và tìm cách khuyến khích tôi về Việt Nam nghiên cứu đầu tư.” Ông Bình nói với VOA.

Những ngày sau đó, vào dịp Tết hay bất cứ cuộc hội thảo khuyến khích đầu tư nào của Việt Nam, ông Bình đều nhận được thư mời của chính phủ Việt Nam và đến tham dự.

Tháng Hai, 1990, ông Bình quyết định về “khảo sát thị trường.”

Trong cuộc phỏng vấn với VOA ngày 7 tháng Tám, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan giai đoạn 1998 – 2001, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nhớ lại, ông Trịnh Vĩnh Bình “không chỉ xin tư vấn về pháp lý,” mà còn “xây dựng các quan hệ rất chặt chẽ với các địa phương nơi ông ấy cư trú và hoạt động kinh doanh.”
Ông Bình tham quan địa điểm đầu tư tiềm năng tại Việt Nam vào tháng 4/1990.

Cựu Đại sứ Việt Nam cũng cho biết công tác ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn này tập trung vào chiến lược hội nhập quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Chính sách khuyến khích đầu tư vào Việt Nam được đưa ra nhằm “khai thác tối đa lợi ích của đầu tư trực tiếp từ nước ngoài” (FDI), vì so với viện trợ ODA, “nguồn tiền FDI có chỗ linh hoạt hơn rất nhiều.”

Việt Nam, sau 10 năm trở lại, khác xa với những gì ông Bình hình dung.

“Khi về Việt Nam, tôi thấy rõ ràng, Việt Nam sau một thời gian xa vắng đã thay đổi quá nhiều. Thay đổi tệ đi quá nhiều. Là một người làm kinh doanh, tôi thấy rõ bây giờ mình có sự chọn lựa: tiếp tục kinh doanh ở xứ người hay là về đầu tư thử ở Việt Nam. Lúc đó tôi chỉ nghĩ là thử thôi.”

Khi bàn bạc với gia đình về quyết định đầu tư vào Việt Nam, ông Trịnh Vĩnh Bình cho biết gia đình ông “chia làm 2 phe.”

Một bên ngăn cản, cho là về Việt Nam “rất nguy hiểm.”

Một bên ủng hộ, cho là “sớm, có nguy hiểm, nhưng cũng là cơ hội.”

Bản thân ông Bình đánh giá Việt Nam lúc này “có một khoảng trống lớn” để đầu tư.


Ông nói với VOA: “Lá rụng về cội, thâm tâm tôi cũng đã nghĩ một ngày nào đó sẽ về Việt Nam đầu tư.”

Quyết định bán cơ sở kinh doanh tại Hà Lan, tháng Sáu, 1990, ông Trịnh Vĩnh Bình bắt đầu chuyển những đồng đôla đầu tiên về nước.

Sau gần 60 lần nhập cảnh, ông Bình mang về nước 2,328,250 đôla và 96 ký vàng, với sự hỗ trợ của Đại sứ quán, Tổng cục hải quan Việt Nam và Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất.

Kỳ sau: Quyết định đầu tư vào Việt Nam của ông Bình có “nguy hiểm” như cảnh báo của thân nhân không? Làm thế nào chỉ trong khoảng hơn 6 năm, ông Trịnh Vĩnh Bình đã nhân giá trị đầu tư ban đầu lên hơn 8 lần? Xin theo dõi tiếp Kỳ 2: “Lên như diều gặp gió”.

______________

Kỳ 2: Lên như diều gặp gió


Khánh An

VOA – Trịnh Vĩnh Bình, “Vua Chả Giò” tại Hà Lan, vào năm 1990 quyết định về Việt Nam “khảo sát thị trường” sau khi được giới chức ngoại giao Việt Nam tại Châu Âu khuyến khích. Sau gần 60 lần nhập cảnh, ông mang về nước gần 2,5 triệu đô la và 96 ký vàng, với sự hỗ trợ của Đại sứ quán, Tổng cục hải quan Việt Nam và Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất. Từ đây, ông bắt đầu sự nghiệp bằng cách đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhau, thành công rất nhanh, theo như nhận định của cựu Đại Sứ Việt Nam tại Hà Lan thời đó, tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng: “Nhờ tính năng động và chủ động như vậy mà giai đoạn đầu, ông Bình trở nên thành công và khá nổi tiếng ở Việt Nam.” Và cũng chính sự thành công vượt bậc này đặt ông Bình vào thế rủi ro. Mời độc giả theo dõi sau đây.


***


Sài Gòn năm 1998. (Ảnh: Reuters)

Những ngày đầu về Việt Nam đầu tư, ông Trịnh Vĩnh Bình nhìn đâu cũng thấy cơ hội kiếm tiền.

Đặt chân tới Sài Gòn, ông thấy ngay thành phố vốn từng mệnh danh “Hòn ngọc Viễn Đông” này rất thiếu khách sạn, nhất là khách sạn cao cấp dành cho khách phương xa.

“Tôi thấy rõ ràng Việt Nam thiếu khách sạn tốt. Thời đó chỉ có khách sạn mini, 5, 6 phòng trong gia đình lấy ra làm. Nên đầu tiên, tôi đầu tư mua mấy căn nhà ở đường Trần Hưng Đạo, đó là cao ốc 10 tầng xây dang dở, bỏ từ năm 1995 tới giờ, sát bên Công an thành phố,” ông Bình kể.

Cao ốc khách sạn 286 Trần Hưng Đạo đang được xây dựng thì bị ngưng vì vụ án.

Với kinh nghiệm làm thủy sản và xuất khẩu, thương gia mang quốc tịch Hà Lan tiếp tục về Hậu Giang thuê một xí nghiệp đông lạnh và thu mua thủy sản về gia công xuất khẩu.

“Nhưng bị họ đổi hàng, rồi họ làm theo cách nói tóm tắt là tôi thấy không được, hoặc tôi quán xuyến không được. Rốt cuộc, sau một thời gian làm, tôi lỗ khoảng 70.000 đôla”.

Nhận thấy đầu tư theo cách đó không ổn, ông Bình nghĩ đến hướng làm ăn lâu dài.
Cải tổ xí nghiệp

Ông tìm hiểu thị trường ở một số nơi khác và quyết định chọn Vũng Tàu để đầu tư.

Trịnh Vĩnh Bình bắt đầu bằng việc mua lại xí nghiệp Liên doanh Nuôi trồng Thủy sản ở Phước Cơ.


“Họ hợp tác với thành phố Vũng Tàu nhưng họ làm lỗ. Họ có mấy chục công nhân và sắp phá sản. Tôi vô thấy cơ ngơi của họ và nghĩ rằng mình có thể thay đổi được”.

“Lúc đó họ có khoảng 50-60 công nhân thôi, mà phần đông là dưới tuổi thành niên”.

Bắt tay vào gầy dựng lại nhà máy, việc đầu tiên ông Bình làm là cho đội ngũ lao động dưới tuổi thành niên nghỉ việc. Ông trả thêm cho họ một số tháng lương và khuyên họ quay trở lại trường học, đồng thời hứa sẽ ưu tiên nhận họ trở lại làm việc sau khi tốt nghiệp.

Sau đó, ông bắt đầu thay đổi thiết bị và cải tổ quy trình sản xuất.

Bên cạnh các mặt hàng thủy hải sản, ông Bình còn đưa vào chế biến thêm các mặt hàng nông sản, rau quả để xuất khẩu như chuối lá xiêm, thơm, xoài đông lạnh… xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ.

Trong một tài liệu ông Trịnh Vĩnh Bình gửi cho chính phủ Việt Nam khoảng 7 năm trước để trình bày về mục đích đầu tư cũng như ước mơ làm kinh tế tại Việt Nam, doanh nhân này cho biết chỉ trong vòng hai năm (1993 – 1995), sản lượng xí nghiệp từ 80-100 tấn/năm đã tăng lên thành 1.500 tấn/năm, trong khi tổng sản lượng cả tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu lúc đó chỉ 6.675 tấn (năm 1995).

Các công nhân tại Nhà máy Hải sản ở Phước Cơ, Thành phố Vũng Tàu.

Số lượng công nhân của xí nghiệp cũng tăng, từ vài chục người lên gần 400 người vào năm 1996.

Thời gian này, luật Việt Nam chưa cho phép người nước ngoài hay Việt kiều đứng tên trong các doanh nghiệp trong nước, nên ông Trịnh Vĩnh Bình nhờ thân nhân và bạn bè đứng tên hộ. Việc đứng tên hộ được xác nhận qua giấy ủy quyền và giấy giới thiệu có chứng nhận của Lãnh sự quán Việt Nam tại Pháp.

Luật gia Lê Mai Anh, nguyên cán bộ Viện Kiểm sát Tối cao, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng Hội Luật gia Việt Nam, người chỉ biết ông Trịnh Vĩnh Bình qua hồ sơ vụ án, cũng chứng thực điều này với VOA.

“Ông ấy đứng tên người khác theo đúng hướng dẫn của chính phủ Việt Nam là ông phải đứng tên người khác. Vì lúc ấy, luật không cho người nước ngoài, người có quốc tịch nước ngoài mua, nên ông ấy phải đứng tên người khác.”


Những công ty mà ông Trịnh Vĩnh Bình thành lập, như Công ty TNHH Tín Thành tại TP.HCM (năm 1992) và Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Phát triển Công nghiệp Bình Châu tại Vũng Tàu (năm 1993), đều dưới hình thức “đội nón” trên, vốn là xu hướng phổ biến tại Việt Nam trong giai đoạn này.

Mãi đến tháng 11/1996, ông Trịnh Vĩnh Bình mới có tên chính thức trong Công ty Bình Châu, dựa vào Luật khuyến khích Đầu tư Việt Nam ban hành năm 1995.
Nghiên cứu, trồng rừng

Ngoài sản xuất trực tiếp, Công ty Bình Châu còn xây dựng Trung tâm nghiên cứu, quy tụ một số chuyên viên giỏi từng học ở châu Âu và các chuyên viên thủy sản trong nước để nghiên cứu các chủng loại thủy hải sản mới và thực hiện các đề án phòng chống bệnh, nhân giống thủy hải sản cung cấp cho nông dân.

Ông Trịnh Vĩnh Bình cho biết trong năm 1996, Công ty Bình Châu nhận được tài trợ quốc tế cho hai đề án: Đề án cua tự sinh sản và đề án phòng chống bệnh cho tôm, cá.

Trung tâm nghiên cứu gây giống nuôi trồng thủy sản đặt ngay tại ao nuôi tôm, cá, cua. Hiện đang bị bỏ hoang. (Ảnh chụp tháng 11/1998)

Trong tờ tường trình gửi chính phủ Việt Nam, ông Trịnh Vĩnh Bình cho biết đề án cua tự sinh là đề án mà thế giới đang đeo đuổi vào thời điểm đó, nhưng chưa thành công vì tỉ lệ sống rất thấp, chỉ đạt 3% – 4%.

Trong khi đề án nghiên cứu của Công ty Bình Châu đang tiến triển tốt thì xảy ra vụ bắt ông Trịnh Vĩnh Bình, khiến dự án này bị bỏ ngang. Một trong những chuyên viên nghiên cứu đề án này sau đó đã đoạt giải xuất sắc trong kỳ thi cho cua đẻ nhân tạo ở Philippines, với tỉ lệ cua sống đến 17%.

Với ước mơ nhân rộng các rừng thông tại Việt Nam, theo mô hình vùng Quinta Do Lago của Bồ Đào Nha, cộng thêm chính sách khuyến khích trồng rừng, phủ xanh đồi trống, đồi trọc của Việt Nam vào thời điểm này, ông Trịnh Vĩnh Bình cùng một số chuyên viên bắt đầu nghiên cứu trồng thí nghiệm thông ở Đèo Nước Ngọt Long Hải và lập các vườn ươm thông giống.

Ông Trịnh Vĩnh Bình mua nhiều khu đất để trồng rừng, hưởng ứng chính sách khuyến khích phủ xanh đồi trống, đồi trọc của Việt Nam.

Ông Bình cho biết lúc ông bị bắt, vườn ươm với gần 500.000 cây thông giống đã được 3,5 tuổi, đủ để trồng khoảng 200 ha. Theo dự tính, số thông này khi được 8 tuổi sẽ bắt đầu cho hạt giống. Khoảng 200 ha trồng đợt đầu sẽ được nhân giống và đủ cung cấp cho cả nước.
Kinh doanh tương lai

Không dừng lại ở sản xuất, xuất khẩu, ông Trịnh Vĩnh Bình còn “lấn sân” sang lĩnh vực du lịch.

“Tôi nghĩ thành phố Vũng Tàu mạnh về du lịch. Tôi lại có được bản vẽ quy hoạch ở khu vực sông Thị Vải. Dọc sông này sẽ là cả một khu kỹ nghệ. Thời đó, tôi có một bài toán…”

Bài toán kinh doanh của ông Bình bắt nguồn từ những cuộc triển lãm ở châu Âu mà năm nào ông Bình cũng tham dự.

Lần gặp gỡ với Giám đốc tập đoàn Janssen, chuyên sản xuất bìa hồ sơ nổi tiếng của Đức, khiến ông nảy ra ý tưởng kinh doanh trong tương lai.

Ông tính toán cho vị thương gia người Đức thấy việc chuyển cơ sở sản xuất về Việt Nam mang lại lợi nhuận như thế nào.


“Tôi nghĩ là mình dùng cách di chuyển những kỹ nghệ của Hòa Lan, và sau này có thể là các nước lân cận nữa, sang Việt Nam. Thì một thị trường còn non trẻ, với thị trường lao động đang khát, nếu họ [các nước châu Âu] đầu tư thì cả hai đều có lợi. Việt Nam có lợi và phía đầu tư cũng có lợi”.

“Lúc đó, tôi có bài toán đơn giản lắm. Bây giờ tôi có miếng đất. Tôi không cần làm gì hết, mà chỉ đem nó đi góp vốn cho ông. Tôi trở thành 25%, 30% [cổ phần]. Ông có lãi, có lợi nhuận, ông chia cho tôi. Ông không cần phải trả tiền thuê gì hết. Đại khái như vậy. Do đó, lúc sau này tôi mua một lúc nhiều đất ở khu vực đó là như vậy. Lý do là vì tôi biết sau này nó sẽ trở thành một khu công nghệ”.

Từ Vũng Tàu, ông Trịnh Vĩnh Bình tiếp tục mua thêm đất đai ở các khu vực khác để thực hiện ý tưởng này.

“Lúc đó, tôi lên Sở Quy hoạch TP.HCM và biết được có một bản đồ [quy hoạch] và biết được trong tương lai, Long Thành sẽ có một sân bay lớn để thay thế phi trường Tân Sơn Nhất. Lúc đó, tôi mua một số mặt bằng ở đó và tính là một số công ty sẽ cần trụ sở hoặc nhà kho sát phi trường. Ngoài ra, tôi cũng tìm ở những địa điểm du lịch, mua những căn nhà ở Bãi Trước [Vũng Tàu]… Nói chung là tôi có những bài toán lâu dài, chứ không phải như Việt Nam nói là kinh doanh địa ốc.”

Cứ như thế, trong vòng hơn 6 năm, giá trị số vốn ban đầu ông Bình đưa về Việt Nam được nhân lên hơn 8 lần.

Trụ sở của Công ty Bình Châu tại 16B phố Võ Thị Sáu, Phường 2, Thành phố Vũng Tàu. (Hình chụp trước năm 1997)

Báo Công An Nhân Dân ngày 6/6/2005 cho biết đến ngày ông Bình bị Cơ quan An ninh Điều tra tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bắt giữ (5/12/1996), ông nắm trong tay 11 căn nhà, 114 nền nhà và 2.847.745 m2 đất.

Tuy nhiên, với nhu cầu mở rộng quy mô và nâng cấp xí nghiệp nhằm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, ông Trịnh Vĩnh Bình cho biết ông bị kẹt vốn nên phải bán đi một số căn nhà, đất đai.

“Có một điểm mà trong hồ sơ của tôi, mà Việt Nam cũng biết, là tôi chưa từng chuyển một đồng nào về bên đây [Hà Lan] hết. Cứ chuyển nhượng được một vài miếng đất thì lấy tiền đó đắp vô việc mở rộng đầu tư,” ông Bình cho biết.

Cựu Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nhận định với VOA:

“Cũng nhờ tính năng động và chủ động như vậy mà giai đoạn đầu, ông Bình trở nên thành công và khá nổi tiếng ở Việt Nam.”

Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng nói thêm rằng “chính sự thành công quá nhanh và sự nổi trội trong tư cách một doanh nhân Việt kiều của ông Bình đã tạo ra một sự cuốn hút không bình thường”.

Kỳ sau: Vì sao sự thành công quá nhanh của ông Bình tại Việt Nam đã gây ra “sức cuốn hút không bình thường”? Đâu là những cái “bẫy” và những con “cò” lợi dụng làn “nước đục” trong vụ án Trịnh Vĩnh Bình? Chuyên gia đánh giá thế nào về khía cạnh pháp lý của vụ án? Xin theo dõi tiếp Kỳ 3: Vụ án “lên đến Bộ Chính trị”.

________________________

Kỳ 3: Vụ án ‘lên đến Bộ Chính trị’


Khánh An

VOA – Với số tiền gần 2,5 triệu đô la và 96 kg vàng mang về Việt Nam đầu tư, ông Trịnh Vĩnh Bình kinh doanh ở mọi lãnh vực: khách sạn, thủy sản, hải sản, xuất khẩu, nông sản, rau quả, trồng rừng… Nhưng chiến lược nhất, có lẽ là lãnh vực đất đai, vì theo như lời ông, “tôi có những bài toán lâu dài chứ không phải như Việt Nam nói là kinh doanh địa ốc.” Ngay vào thời điểm đó, ông đã mua nhiều mặt bằng sát nơi được quy hoạch sau này xây phi trường Long Thành, để làm trụ sở công ty và xây nhà kho. Trong vòng 6 năm, giá trị số vốn ban đầu ông Bình đưa về Việt Nam được nhân lên hơn 8 lần. Và cũng từ đây, con đường lao lý bắt đầu mở ra, đưa đến “vụ án Trịnh Vĩnh Bình” mà việc giải quyết phải “theo ý kiến chỉ đạo và báo cáo kết quả với Thường vụ Bộ Chính trị.” Xin theo dõi sau đây.


***

Với những dự án tiềm năng đang tiến triển nhanh và mạnh, con diều đầu tư đang “no gió” của Trịnh Vĩnh Bình bắt đầu đi vào vùng bão tố.

“Năm 1996, phát sinh từ chuyện trong công ty, những người làm trong đó, có cả người trong gia đình, tìm cách ăn cắp một số tiền khá lớn, khoảng mấy trăm ngàn đôla.” Ông Bình nhớ lại.

Câu chuyện đổ bể. Ban giám đốc cũ bị sa thải. Ban giám đốc mới của Công ty Bình Châu muốn đem vụ việc giải quyết rõ ràng nên trình báo công an.
Ra công đường

Theo lời ông Bình, nhóm bị sa thải gồm 3 người, trong đó có người ông nhờ đứng tên doanh nghiệp và tài sản. Sau đó, lo sợ bị bắt và phải trả lại tiền, nhóm này đút lót cho phía an ninh để tìm sự che chở.

“Khi họ [an ninh] nhảy vô, thì bên này những người ăn cắp đồ lại trở thành người hợp tác với họ. Họ ra tay trước. Họ chụp mũ tôi đầu tiên về tội trốn thuế rồi họ bắt tôi.” Ông Bình kể với VOA.

Trụ sở của Công ty Bình Châu tại 16B phố Võ Thị Sáu, Phường 2, Thành phố Vũng Tàu. (Hình chụp trước năm 1997)

Ông Bình cho biết khi công an đến khám xét và tịch thu đồ đạc trong Công ty Bình Châu, ông đang ở Hà Lan và nhận được cảnh báo từ luật sư của mình lúc bấy giờ: “Đừng về, bên an ninh đang chuẩn bị bắt anh đấy.”

“Tôi nghĩ tôi đâu có làm gì sai đâu mà sợ. Tôi vẫn về. Đầu tiên là Thiếu tá Ngô Chí Đan mời tôi lên văn phòng. Vì ở Hà Lan làm ăn theo kiểu mở cửa minh bạch, tôi không biết đút lót. Nếu lúc đó mà tôi biết đưa cho họ một số tiền, đưa cho họ một bì thư lớn thì họ đã dẹp vụ này rồi. Nhưng tôi không biết.” Vẫn lời ông Bình.

Trong cuộc nói chuyện với viên chức đứng đầu phòng điều tra Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (PA 24), ông Bình cho biết ông đã cố gắng trình bày những ý nguyện, hoài bão tốt đẹp mà ông ấp ủ muốn làm tại Việt Nam.

Nhưng, những điều ông nghĩ không giống với điều “họ” nghĩ. Ông Bình nói: “Họ đâu cần nghe những điều đó đâu. Họ cần nhìn thấy cái bì thư. Nhưng tôi lại không biết”. “Khi chuẩn bị về, ảnh có nói một câu ‘Thôi, tôi nghe rồi. Anh cứ về đi rồi tôi suy nghĩ lại’”.

Trả lời phỏng vấn VOA ngày 14/7/2017, ông Trịnh Vĩnh Bình nói sau này ông mới biết Ngô Chí Đan cùng với người anh rể là Phạm Văn Phương (thường được gọi là “Phương Xoăn” hay “Phương Vicarrent”), “dính” đến nhiều vụ khác, được báo chí trong nước nhắc nhiều trong hai năm 2003, 2004.

Chẳng hạn, báo chí tường thuật lời khai của các nhân chứng, bị can, bị hại… trong Vụ án Phương Vicarrent cho biết thế lực của nhóm này lớn đến nỗi có thể thay cả Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, khiến hầu hết doanh nghiệp, kể cả nhiều quan chức địa phương, đều phải khiếp sợ và tự động nộp tiền để được yên thân, theo báo Người Lao Động ngày 9 tháng Tư, 2004.

Giám đốc Công ty Xây dựng và Phát triển Đô thị Bà Rịa-Vũng Tàu thời đó, ông Nguyễn Minh Hoàng, khai ông nộp tiền “không phải do sợ Phương mà là sợ những người đứng phía sau bị cáo”, theo VnExpress ngày 3/12/2003.

Vị giám đốc này còn cho biết “Phương nắm rất nhiều thông tin về chuyện làm ăn của công ty mà tôi chắc rằng những thông tin này chỉ có từ cơ quan chuyên môn. Tôi rất sợ quyền lực đen của Phương vì tôi thấy nó cực kỳ mạnh”, vẫn theo VnExpress.

Bị bắt

Ngày 5/12/1996, ông Trịnh Vĩnh Bình chính thức bị bắt với cáo buộc tội “trốn thuế.”

Cáo buộc ban đầu này sau đó nhanh chóng được chuyển đổi thành “vi phạm các quy định về quản lý đất đai” và tội “hối lộ,” vì “thiếu căn cứ,” theo lời Luật sư Nguyễn Minh Tâm, một trong những luật sư của ông Bình lúc bấy giờ, nói với VOA:

“Đầu tiên là khởi tố về tội trốn thuế. Quan điểm của chúng tôi cho rằng không [đủ chứng cứ] cấu thành tội trốn thuế. Sau đó chuyển sang tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và một số việc khác.”

Ông Bình cho biết sau khi cơ quan chức năng đọc lệnh bắt, ông lên tiếng phản đối, nói “Tôi vô tội,” và yêu cầu thông báo vụ việc cho Đại sứ quán Hà Lan.

Ông Trịnh Vĩnh Bình bị tạm giam hơn 18 tháng trước khi được đưa ra xét xử.

Trong thời gian này, ông Bình cho biết ông không được phép tự ý chọn luật sư, mà PA 24 chỉ định luật sư cho ông và buộc ông phải trả 50 triệu đồng cho luật sư này.

Ông Bình kể với VOA rằng điều kiện giam giữ khắc nghiệt trong thời gian này đã khiến ông suy sụp hoàn toàn và từng nghĩ đến chuyện tự tử.

Chỉ đạo

Bị tạm giam, có lẽ ông Bình không biết được rằng, chuyện của ông được thảo luận căng thẳng ở nhiều cấp, từ địa phương đến trung ương, xoay quanh việc “xử lý” mình.

Văn bản VOA Việt Ngữ có được, ghi lại cuộc họp ngày 3/5/1998 tại trụ sở Tổng cục I-Bộ Nội vụ TP.HCM của Ban chỉ đạo liên ngành bao gồm Bộ Nội vụ, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao Ban Nội chính Trung ương cho thấy cuộc họp có sự hiện diện của hàng chục giới chức cấp cao như Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Khánh Toàn, Phó Viện trưởng VKSNDTC Phạm Sỹ Chiến, Phó Chánh án TANDTC Mai Ngọc Trinh, Vụ trưởng Ban Nội chính Trung ương Trần Đại Hưng…


Theo văn bản này, “hoạt động của ông Trịnh Vĩnh Bình từ năm 1990 đến khi bị bắt là vi phạm pháp luật Việt Nam rất nghiêm trọng” và việc “xử lý Trịnh Vĩnh Bình đúng pháp luật vừa đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật, vừa bảo vệ chủ quyền Việt Nam và giải quyết được vấn đề đối ngoại”.

Văn bản ghi rõ “hành vi phạm tội cụ thể của Bình là: Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai (điều 180 BLHS) và tội hối lộ cho Nguyễn Văn Huề 100 triệu đồng thông qua trung gian là các tên Thanh và Luyện (điều 227 BLSH).”

VOA đề nghị phỏng vấn và xác minh văn bản này với đại diện Bộ Tư Pháp Việt Nam nhưng không nhận được câu trả lời.

Một trong hai nhân vật có tên trong văn bản này, sau này, vào tháng Bảy, 2002, làm một “Đơn xin minh oan cho ông Trịnh Vĩnh Bình,” trong đó có đoạn, do biết có xung đột giữa mình và Trịnh Vĩnh Bình, “Ngô Chí Đan và ông Nguyễn Đức Trịnh đã lợi dụng cơ hội này xúi tôi vu cáo ông Trịnh Vĩnh Bình, mục đích để tịch thu tài sản.”

Ngày 12/6/1998, Ban Thường vụ Đảng Cộng sản của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu gửi một văn bản gửi cho Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Thủ tướng Phan Văn Khải để xin ý kiến chỉ đạo. Văn bản có đoạn viết: “Vụ án [Trịnh Vĩnh Bình] này dư luận trong xã hội đang quan tâm, nhất là cán bộ hưu trí cựu chiến binh là: Ta xử hay không xử.”


Ngoài ra, văn bản này cũng nêu lên những “khó khăn” của địa phương về ý kiến trước đó của Viện Kiểm sát Tối cao đề nghị cho phép ông Bình tại ngoại. Ban Thường vụ tỉnh cho biết gặp khó khăn trong việc xác định mức tiền đóng tại ngoại “tương xứng với sự vi phạm nghiêm trọng” và sẽ khó đảm bảo ngăn chặn việc thông cung, nội bộ công ty [của ông Bình] thanh toán lẫn nhau và ông Bình có thể bỏ trốn ra nước ngoài.

Do đó, vẫn theo văn bản ngày 12/6/1998, Ban Thường vụ tỉnh đề nghị tòa án xét xử ngay vì “đã có kết luận tội của Bình. Sau khi có bản án thi hành, sẽ thực hiện chính sách khoan hồng của ta. Như vậy Bình sẽ không nói xấu ta được vì đã tuyên án. (Phương án này ta nắm đằng chuôi).”

VOA Việt Ngữ không nhận được hồi âm từ đại diện Bộ Tư pháp Việt Nam liên quan đến đề nghị phỏng vấn và xác minh văn bản nêu trên.

Tiếp đó, một văn bản được đóng dấu “Mật” do Trưởng ban Thường vụ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Trần Đình Hoan, gửi Ban Thường vụ tỉnh ủy Bà Rịa-Vũng Tàu, Đảng ủy Công an Trung ương, Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Ban cán sự đảng TAND Tối cao, Ban Nội chính Trung ương ngày 23/6/1998, chỉ đạo “việc tổ chức xét xử cần được chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ,” “giải quyết vụ án theo ý kiến chỉ đạo trên và báo cáo kết quả với Thường vụ Bộ Chính trị”, “có thể cho [ông Bình được] tại ngoại theo yêu cầu của Đại sứ quán Hà Lan” và “sau khi Bình được xét xử thì trục xuất khỏi nước ta.”


Ngày 2/8/2017, VOA liên lạc với ông Trần Văn Khánh, nguyên Bí thư tỉnh ủy tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, nhưng cựu viên chức này cho biết ông đang bận và từ chối trả lời các câu hỏi về vụ án Trịnh Vĩnh Bình.
Bản án

Ngày 11/12/1998, Tòa án Nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tuyên án 13 năm tù đối với ông Trịnh Vĩnh Bình về tội vị phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai và tội đưa hối lộ, phạt 400 triệu đồng, tịch thu tài sản được cho là “sang nhượng bất hợp pháp”.

Đại tá, Luật sư Lê Mai Anh, nguyên cán bộ Viện Kiểm sát Tối cao, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng Hội Luật gia Việt Nam, sau khi xem hồ sơ vụ án Trịnh Vĩnh Bình, nhận định “hồ sơ không có chứng cứ cụ thể, chính xác”. Ông nói bản án chỉ dựa chủ yếu vào lời cung của các nhân chứng:

“[Họ] trọng cung hơn là trọng chứng. Mà cung cũng là ép cung, mớm cung hoặc dọa cung là có. [Họ] sử dụng cung nhiều quá mà chứng lại không có”.

Vị luật gia từng làm việc tại Viện Kiểm sát Tối cao biện luận:

“Ông ấy đứng tên người khác theo đúng hướng dẫn của chính phủ Việt Nam là ông phải đứng tên người khác. Vì lúc ấy, nó không cho người nước ngoài, người có quốc tịch nước ngoài mua nên ông ấy phải đứng tên người khác. Ông đã thực hiện đúng như ý của họ. Sau đấy họ lại cho là ông ấy mua đất đai, nhà xưởng… là không hợp pháp. Thì chẳng hiểu thế nào là hợp pháp nữa. Bảo ông ấy thế nào thì ông ấy làm đúng như thế. Chứ ông ấy có làm sai đâu”.

Ngày 24/7/2017, VOA liên lạc với Thứ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam, Tiến sĩ Phan Chí Hiếu, để tìm hiểu về vụ án. Nhưng ông Hiếu cho biết Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc là người phụ trách vụ này. Ngày 25/7, VOA nhận được trả lời từ Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc rằng ông đang “bận” và từ chối trả lời các câu hỏi liên quan đến vụ Trịnh Vĩnh Bình.

Bản án của ông Trịnh Vĩnh Bình cũng gây nhiều tranh cãi trong dư luận vào thời điểm đó.

Thư khẩn của Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 25/2/1999, yêu cầu chính phủ Việt Nam hoãn thi hành án cho trường hợp của ông Trịnh Vĩnh Bình.

Báo Pháp Luật TP.HCM trong bài viết ngày 29/12/1998 đặt câu hỏi: Bản án Trịnh Vĩnh Bình – “Liệu có phù hợp với chủ trương khuyến khích Việt kiều về nước đầu tư?”

Trong mục “Đầu tư chui cũng không có tội,” bài báo này khẳng định tình trạng phổ biến “có hàng ngàn nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư chui” tại Việt Nam vào lúc này và “Nếu việc này là sai trái thì liệu có đến mức xử lý hình sự không?”

Bài báo khẳng định vào thời điểm xử vụ án, việc đầu tư chui này đã được “hợp pháp hóa” qua Quyết định 767/TTg do Thủ tướng Việt Nam ban hành ngày 17/9/1997.

Ngày 25/2/1999, Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan có thư khẩn gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam. Trong đó trích dẫn các khoản, mục trong Quyết định trên của Thủ tướng, đồng thời yêu cầu chính phủ Việt Nam hoãn thi hành án cho trường hợp của ông Trịnh Vĩnh Bình cho đến khi các chính sách mới trên được làm rõ.

Sau bản án sơ thẩm, ông Bình làm đơn kháng cáo, gửi đơn thư khiếu nại, cầu cứu lên khắp các cơ quan nhà nước, thậm chí lên các quan chức cấp cao ở trung ương.


“Lúc tôi bị giữ, gia đình tôi có làm đơn. Thủ tướng Phan Văn Khải thấy rõ ràng, theo giấy ông ấy viết và có gửi một bản copy cho gia đình, ông ấy yêu cầu Bộ trưởng Lê Minh Hương. Ông ấy viết rằng ‘Bộ trưởng Lê Minh Hương, anh xem lại trường hợp của anh Bình. Không sai phạm đến nỗi phải giữ. Anh chỉ đạo công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, anh Bình không có lỗi đến phải xử. Vì ảnh nghe lời người trong nước, bị họ lấy tiền rồi làm bậy’, đại khái vậy”.

Tuy nhiên, nỗ lực của ông Bình và một số quan chức Việt Nam không mang lại hiệu quả.

Theo nhận định của cựu Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, khi các “thế lực khác vào cuộc,” nội vụ “trở nên phức tạp muôn phần.”

Cựu Đại sứ Việt Nam nói: “Việt Nam có câu ‘đục nước béo cò’ có lẽ khá đúng trong trường hợp này. Mà ‘cò’ ở đây lại là những con cò lớn và nhiều khi không xuất đầu lộ diện.”

Sau phiên phúc thẩm, bản án của ông Bình giảm từ 13 năm xuống thành 11 năm tù (năm 1999). Báo Thanh Niên ngày 14/7/2012 cho hay nhiều tài sản (nhà và đất) của ông Bình được tòa phúc thẩm giao cho UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai tịch thu. Hai cơ sở sản xuất (diện tích gần 40.000 m2) cùng 9 căn nhà trên địa bàn tỉnh được UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giao cho Cục Thi hành án dân sự bán đấu giá.


“Phiên xử sơ thẩm đến phúc thẩm không thay đổi gì mấy. Tôi thấy tình hình không êm rồi. Họ có giấy triệu tập tôi trở lại trại tù. Họ cho tôi thời gian 7 ngày. Trong thời gian đó, tôi tiếp tục làm đơn khiếu nại, nhưng thấy không êm rồi. Tới giờ chót, tức ngày hôm sau đi trình diện thì tôi trốn.” Ông Bình nhớ lại thời điểm quyết định liên quan đến vận mệnh mình cách đây gần 20 năm.

Kỳ sau: Bản án Trịnh Vĩnh Bình tạo căng thẳng ngoại giao Việt Nam – Hà Lan ra sao? Làm thế nào ông Trịnh Vịnh Bình đưa được chính phủ Việt Nam vào vị trí Bị đơn ở Tòa trọng tài Quốc tế? Thỏa thuận Singapore bao gồm những gì? Xin xem tiếp kỳ sau.

________________

Kỳ 4: Căng thẳng Việt Nam – Hà Lan và Tòa trọng tài


Khánh An

VOA – Chỉ trong 6 năm, qua hàng loạt lãnh vực kinh doanh và đầu tư sắc bén, giá trị số vốn ban đầu ông Trịnh Vĩnh Bình đưa về Việt Nam được nhân lên hơn 8 lần. Sự thành công của ông tạo ra “sức cuốn hút không bình thường,” đưa đến con đường lao lý, dẫn “Vụ án Trịnh Vĩnh Bình” lên đến Bộ Chính Trị. Cựu Đại Sứ Việt Nam tại Hà Lan thời điểm ấy nhận định: “Việt Nam có câu ‘đục nước béo cò’ có lẽ khá đúng trong trường hợp này. Mà ‘cò’ ở đây lại là những con cò lớn và nhiều khi không xuất đầu lộ diện.” Vụ án này đã ảnh hưởng quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hà Lan ra sao? Việt Nam và ông Bình “đáo tụng đình” như thế nào? Mời độc giả theo dõi dưới đây.


***

Chính phủ Hà Lan, thông qua Đại sứ quán của hai nước, đã có những can thiệp ngay từ những ngày đầu khi ông Trịnh Vĩnh Bình bị bắt và suốt những năm sau này.

“Chính phủ Hà Lan rất tốt. Họ rất bênh vực công dân của mình. Họ đã cực lực phản đối và làm đủ mọi việc hết. Bộ Ngoại giao Hà Lan đã gọi cả Đại sứ Hà Lan [tại Việt Nam] về nước để phản ánh vụ này”. Ông Trịnh Vĩnh Bình nói với VOA.
Sức ép

Một số nhà ngoại giao Việt Nam cũng thừa nhận mối lưu tâm đặc biệt chính phủ Hà Lan dành cho vụ án Trịnh Vĩnh Bình. Theo họ, Hà Lan xem đây là một vụ vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Đầu tư Song phương (BIT) giữa hai nước.

“Vụ này là một obstacle [trở ngại] trong quan hệ Việt Nam-Hà Lan, và tôi đã phải đứng mũi chịu sào trực tiếp giải quyết. Tôi đã phải liên lạc giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và Bộ Ngoại giao Hà Lan, giữa Quốc hội hai nước và giữa rất nhiều cơ quan khác”. Cựu Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nói với VOA.

Cảm nhận được độ “nóng” của vụ Trịnh Vĩnh Bình đối với quan hệ song phương, Đại sứ Đinh Hoàng Thắng đã sang Paris báo cáo trực tiếp cho Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm nhân dịp ông Cầm có công vụ tại Pháp.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 7/8/2017, vị đại sứ cho biết ông đã phải chịu rất nhiều sức ép từ Bộ Ngoại giao Hà Lan, đặc biệt là từ Quốc hội và một số nghị sĩ từ các đảng đối lập trong Quốc hội Hà Lan.

“Sức ép mạnh nhất và nặng nhất là vào thời điểm chuyến thăm của Thủ tướng Phan Văn Khải tới Hà Lan, khi tôi ra sân bay đón thủ tướng, thì ngay trước đó 1 giờ đồng hồ, Bộ trưởng quốc phòng Hà Lan còn cho thư ký đến và thu xếp cuộc gặp để ông ấy đến trực tiếp trao toàn bộ hồ sơ của vụ án và quan điểm của phía Hà Lan, yêu cầu Chính phủ Việt Nam xem xét lại vụ án”.

Bộ trưởng Quốc phòng Hà Lan, Joris Voorhoeve, sau đó còn yêu cầu Thủ tướng Wim Kok và Ngoại trưởng Hà Lan gửi thư trực tiếp cho Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương để yêu cầu giải quyết vụ ông Trịnh Vĩnh Bình.

Phía Quốc hội Hà Lan cũng liên tục gây sức ép lên Chính phủ Việt Nam qua những động thái như không ủng hộ việc thông qua các hiệp ước, đề nghị cắt giảm viện trợ hay gửi các thông điệp gay gắt, chất vấn các quan chức Việt Nam khi họ đến thăm nước này.

Bộ trưởng Quốc phòng Hà Lan Joris Voorhoeve (Ảnh tư liệu năm 1997/Reuters)

Các dân biểu còn đưa vụ Trịnh Vĩnh Bình lên Quốc hội châu Âu vào những dịp phái đoàn Việt Nam đến thăm. Một văn kiện ghi lại bài phát biểu của Dân biểu Jules Maaten, thuộc Ủy ban Đối ngoại Quốc hội châu Âu, ngày 14/10/2001, có đoạn: “Tôi mạnh mẽ ủng hộ một cuộc điều tra độc lập tình trạng của ông Trịnh Vĩnh Bình và các nhà đầu tư khác ở Việt Nam.”

Dân biểu này cho rằng việc Việt Nam tuyên án tù và tịch thu tài sản của ông Bình đã “gây cản trở và có tác động rất tiêu cực đến quyết định của các nhà đầu tư khác” và đề nghị Việt Nam “phải có sự bảo vệ thích hợp cho các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư ở Việt Nam, phải chấm dứt nạn tham nhũng. Đây là điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự phát triển kinh tế và chính trị trong tương lai ở Việt Nam cũng như những nối kết của Việt Nam với nền kinh tế thế giới.”
Nỗ lực không thành


Thủ tướng Võ Văn Kiệt (Ảnh tư liệu năm 1998/Reuters)

Về phía Chính phủ Việt Nam, một số giới chức cũng nỗ lực giải quyết ổn thỏa vụ này. Trong đó phải kể đến Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và một số giới chức khác.

Nguyên Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, trong cuộc trả lời phỏng vấn với VOA ngày 8/8/2017, cho biết: “Ý kiến chỉ đạo quan trọng là từ thủ tướng lúc bấy giờ là Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Bản thân tôi là một Bộ trưởng, một thành viên Chính phủ cũng đã kết nối và chỉ đạo Bộ Ngoại giao, chỉ đạo Đại sứ ở Hà Lan, và các ngành liên quan thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng. Tinh thần chung hồi bấy giờ là Thủ tướng muốn dàn xếp sao cho vụ việc không ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai nước Việt Nam — Hà Lan, cũng như giữa Việt Nam với Liên minh châu Âu.”

Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm trong một buổi trả lời phỏng vấn truyền thông quốc tế. (Ảnh tư liệu)

Trong nước, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cũng lên tiếng công khai về vụ này trong một phiên chất vấn tại Quốc hội Việt Nam vào năm 1998.

Trong cuốn Hồi ký “Gia Đình, Bạn Bè và Đất Nước,” bà Nguyễn Thị Bình tiết lộ sau khi tìm hiểu thấy Luật pháp Việt Nam vẫn “đang trong quá trình hoàn thiện” và “thấy cách làm của Bà Rịa – Vũng Tàu không đúng, không phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với Việt kiều, là đối tượng ta đang kêu gọi họ về xây dựng đất nước,” đã đề nghị “nếu họ [Việt kiều] không có gì sai phạm lớn, nguy hiểm, thì nên cảnh báo, hướng dẫn họ là tốt nhất.”

Tuy nhiên, kiến nghị của bà đã không được chấp nhận, nên cuối cùng bà đã phải sử dụng quyền Đại biểu Quốc hội của mình để công khai lên tiếng về vụ này.

Ông Trịnh Vĩnh Bình, lúc đó đang ở Sài Gòn, vẫn còn nhớ như in buổi chất vấn được truyền hình trực tiếp.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình (Ảnh tư liệu năm 2007/AP)

“Bà Bình, tôi nhớ trong một phiên họp ngày 20/5/1999, bà ấy đưa vụ này ra Quốc hội và chất vấn ông Trịnh Hồng Dương, Chánh án Tối cao. Bà ấy cho rằng ông Bình về làm ăn là có lợi cho kinh tế, không có tội. Tại sao phải làm như vậy? Phải xem xét lại. Lúc đó, ông Nông Đức Mạnh là Chủ tịch Quốc hội. Đó là buổi chất vấn trực tuyến, ở Sài Gòn mở tivi ra là xem được. Tôi đích thân theo dõi buổi đó và đã khóc. Tôi thấy bà Bình đưa ra điều đúng với tâm trạng, nỗi uất ức của tôi. Tôi khóc.”

Chủ tịch Quốc hội lúc đó, ông Nông Đức Mạnh, đã ghi nhận ý kiến của bà Nguyễn Thị Bình. “Nhưng sau đó Ủy ban Pháp luật được giao nhiệm vụ giám sát đã không làm việc nghiêm túc, không giúp làm rõ được vấn đề nên để sự việc kéo dài, và về sau đã gây ra nhiều rắc rối,” bà Bình cho biết trong cuốn Hồi ký.

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (Ảnh tư liệu năm 2006/Reuters)

Các cấp chuyên viên cũng đã có những can thiệp.

Đại tá, Luật gia Lê Mai Anh, nguyên cán bộ Viện Kiểm sát Tối cao, cho biết sau khi xem hồ sơ vụ án, ông cũng đã trình bày quan điểm của mình cho các cơ quan tòa án và Ban Bí thư Bộ Chính trị. Ông khẳng định với VOA rằng vụ án Trịnh Vĩnh Bình không có chứng cứ rõ ràng.

“Không thể làm ăn vô lý như thế được. Anh phải có chứng cứ cụ thể, chính xác, khoa học. Anh đặt [mình] vào địa vị người ta về nước như thế, đóng góp cho anh tiền và mua bán chính đáng như vậy, mua những đồ không làm được của các anh, người ta cải tạo lại, bổ sung để làm ăn, thuế má người ta đóng đầy đủ, thậm chí người ta làm từ thiện rất tích cực, thì tại sao các anh lại làm ăn quá đáng như thế? Tôi nói đầy đủ cho họ như vậy.”

Nhưng sau khi trình bày ý kiến, ông Lê Mai Anh cho biết cấp trên khuyên ông rằng “họ có quyền” và “trên đã có ý kiến như thế rồi thì thôi,” nhưng ông Mai Anh nói “Tôi có thể ‘thôi’ theo quan điểm của tổ chức, nhưng cá nhân tôi vẫn giữ quan điểm của mình.”

Theo cựu giới chức của Viện Kiểm sát Tối cao, phía “bên kia” giữ chức vụ cao nên cũng “khó nói lại.” Ông cho rằng vấn đề nằm ở chỗ “quan điểm” của một số người nào đó “có quan hệ lợi ích trong đó nên bảo vệ lẫn nhau, chứ không phải là ý kiến chung của Đảng và Nhà nước.”

Thủ tướng Phan Văn Khải (Ảnh tư liệu năm 1998/Reuters)

Nguyên Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cũng khẳng định “vụ việc không chỉ liên quan đến các cơ quan chức năng ở Vũng Tàu, mà còn liên quan đến một số cơ quan trung ương khác. Đặc biệt hồi đó, theo anh em báo cáo lại, liên quan đến cả một số bộ phận bên an ninh.”

Chính “nội vụ phức tạp” của vụ án, mà theo lời Đại sứ Đinh Hoàng Thắng, tất cả những nỗ lực giải quyết êm thắm vụ việc đều như “đánh vào bị bông.”
Ra tòa quốc tế

Sau khi nhận thấy tất cả những nỗ lực can thiệp từ cả phía Chính phủ Hà Lan và một số giới chức cấp cao Việt Nam đều không mang lại kết quả, ông Trịnh Vĩnh Bình quyết định đưa vụ án ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế.

Tháng 10/2003, ông Trịnh Vĩnh Bình chính thức nhờ tổ hợp luật sư nổi tiếng của Mỹ, Covington & Burlington, đứng ra kiện Chính phủ Việt Nam trước Tòa trọng tài Quốc tế. Chính phủ Việt Nam cũng thuê một tổ hợp luật sư nổi tiếng của Pháp, Glyde Loyrette Rouel, đại diện mình.

Phía ông Bình đòi Chính phủ Việt Nam bồi thường 100 triệu đôla vì vi phạm Hiệp định Thương mại Song phương.

Trong thư gửi cho Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Văn Hiện, Luật sư của Covington & Burlington cho biết họ “xác định được rất nhiều quyền lợi của ông Trịnh, quyền của nhà đầu tư vào Việt Nam bị vi phạm nghiêm trọng.” Chẳng hạn như “ông Trịnh đã bị tước đoạt quyền được ‘đối xử bình đẳng và công bằng’ cho nhà đầu tư Hà Lan tại Việt Nam theo điều khoản 3(1) của Hiệp ước quy định.”

Trước khi diễn ra phiên xử đầu tiên, được ấn định vào ngày 4/12/2006, Việt Nam đã gửi nhiều đoàn đàm phán đến làm việc với ông Trịnh Vĩnh Bình, theo lời ông Bình nói với VOA.

“Một hai năm đó là thời Thủ tướng Phan Văn Khải (chú Sáu Khải). Phải nói chú Sáu Khải là một thủ tướng muốn làm một bộ Luật hoàn chỉnh. Một bộ Luật tốt. Ông rất chú trọng tới những vấn đề sai lầm này. Ngoài việc viết thư cho ông Lê Minh Hương, ông cũng đã thấy vụ này là sai nên đã cho một người làm con thoi cố gắng thương lượng vụ này.”

Sau gần cả chục lần đàm phán, kể cả trực tiếp và gián tiếp qua điện thoại, email, ông Bình cho biết hai bên đã đạt được một “thỏa thuận ngoài tòa.”

“Cuối cùng vào tháng 11/2006, trước khi xử khoảng 10 ngày, [hai bên] đã ký được Bản Thỏa Thuận. Họ ghi rõ phía ‘Chính phủ Việt Nam cam kết’ trên văn bản đàng hoàng nên tôi đinh ninh rằng họ sẽ làm hết, sẽ giải quyết cho tôi. Tôi nghĩ thôi thì cố gắng về gầy dựng lại”.


Thỏa thuận, theo lời ông Bình, được ký kết tại Singapore vào tháng 11/2006, bao gồm 3 điều khoản.

Điều 1: Ông Trịnh Vĩnh Bình cam kết chấm dứt hoàn toàn vụ kiện tại Tòa trọng tài ở Stockholm và sẽ không có phiên tòa đã được ấn định trước đó.

Điều 2: Phía Chính phủ Việt Nam hỗ trợ cho ông Bình 15 triệu đôla; miễn thi hành án tù và tạo điều kiện cho ông Trịnh Vĩnh Bình về nước thực hiện các dự án đầu tư; khi ông Bình có đơn kiến nghị, Chính phủ Việt Nam xem xét trả lại những tài sản “hợp lý” của ông Bình.

Điều 3: Chính phủ Việt Nam bảo đảm quyền cư trú, đi lại và làm ăn cho ông Trịnh Vĩnh Bình.

Doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình (Ảnh tư liệu)

Ngày 31/7/2017, VOA gửi thư chính thức cho Vụ Báo chí của Bộ Ngoại giao Việt Nam để xác nhận nội dung “Thỏa thuận Singapore.”

Ngày 8/8/2017, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Trà trả lời VOA như sau:

“Chúng tôi sẽ chuyển những câu hỏi này của phóng viên đến các cơ quan chức năng.

Việt Nam luôn hoan nghênh và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tại Việt Nam. Mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. Những hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý theo đúng các quy định pháp luật”.

Trong khi đó, doanh nhân Trịnh Vĩnh Bình, người tự nhận là mình “ngu,” nói với VOA về Thỏa thuận này: “Tôi bị lừa. Cú đó là tôi bị lừa…”

Kỳ cuối: Vì sao ông Trịnh Vĩnh Bình cho rằng mình “bị lừa”? Nguyên nhân nào khiến vụ kiện 100 triệu USD năm 2006 biến thành “ít nhất 1,25 tỷ USD” hiện nay? Cơ hội thắng thua giữa hai bên? Những ảnh hưởng của vụ kiện đối với Việt Nam? Kỳ cuối: 1,25 tỷ USD? Đau!

______________

Kỳ cuối: Hai chữ ‘hợp lý’ trị giá tỷ đô


Khánh An

VOA – Vụ án Trịnh Vĩnh Bình, từ vụ việc mang tính địa phương tại Bà Rịa – Vũng Tàu, đã mau chóng lên đến trung ương, cả Bộ Chính trị. Người biết chuyện lúc ấy nhận định, “Việt Nam có câu ‘đục nước béo cò’ có lẽ khá đúng trong trường hợp này. Mà ‘cò’ ở đây lại là những con cò lớn và nhiều khi không xuất đầu lộ diện.” Ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng Hà Lan thời ấy, trong cuộc trả lời phỏng vấn VOA ngày 18 tháng Tám, cũng nói “vấn đề là từ các cá nhân. Đó là một vụ tham nhũng nhằm chiếm đoạt tài sản của ông Bình ở Việt Nam.” Sau khi ký thỏa thuận ngoài tòa tại Singapore, ông Bình nói rằng mình bị lừa trong một tiêu chí của một điều khoản liên quan đến việc trả lại tài sản của mình tại Việt Nam. Chính điều này đưa đến vụ kiện lần thứ hai, tại Paris vào ngày 21 tháng Tám, với số tiền bồi thường ông Bình đòi “ít nhất 1,25 tỷ đô la.” Xin theo dõi phần cuối dưới đây.

***

Thời điểm ông Trịnh Vĩnh Bình kiện Chính phủ Việt Nam ra Tòa trọng tài Quốc tế, báo chí trong nước gần như im tiếng. Rải rác chỉ một vài bài phỏng vấn các chuyên gia pháp luật về các thủ tục kiện tụng tại Tòa trọng tài.

Khi hai bên đạt được thỏa thuận ngoài tòa, dòng tin tức bị cắt đứt hoàn toàn, cả trong nước lẫn quốc tế. Các phóng viên quốc tế chuyên theo dõi những vụ kiện tại Tòa trọng tài cũng chỉ biết rằng hai bên đã đạt được thỏa thuận. Còn nội dung thỏa thuận như thế nào không ai rõ.

Nguyên nhân, theo lời ông Bình, là vì đây là điều kiện phía Việt Nam đưa ra trong thỏa thuận: Không tiết lộ thông tin cho truyền thông, báo chí.

Tòa án Trọng tài Quốc tế thuộc Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) (Hình minh họa)

Điều này, theo nhận định của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc, là một bất lợi cho ông Trịnh Vĩnh Bình:

“Cái khó của ông Trịnh Vĩnh Bình là báo chí thế giới rất ít nói về vụ này. Thành ra họ [Việt Nam] nghĩ là họ lờ đi.”
“Lấy mỡ nó rán nó”

Sau thỏa thuận ký kết tại Singapore năm 2006, ông Trịnh Vĩnh Bình trở về Việt Nam.

Đúng theo cam kết, Việt Nam miễn án tù và cho phép ông Bình ra vào nước dễ dàng. Dù không hề đề cập đến Bản thỏa thuận, báo Lao Động ngày 11/6/2012 vẫn đưa tin ông Bình “được Chính phủ ta giải quyết miễn chấp hành hình phạt tù, cho về Việt Nam.”

Nhưng điều khoản trả lại tài sản đã không được thực hiện như những hứa hẹn trong thời gian đôi bên thương lượng thỏa thuận, theo lời ông Bình.

“Tôi lại ngây ngô tôi về. Tôi cứ nghĩ là trên nguyên tắc có bản thỏa thuận. Bên chính phủ Việt Nam cam kết, họ ghi rất rõ, 1… 2… 3… Vậy mà họ về họ âm thầm họ làm.”

Không bỏ cuộc, suốt những năm từ 2006-2014, số đơn từ ông Bình gửi để xin giải quyết việc trả lại mấy chục địa điểm tài sản có thể “cân ký được,” ông nói.

Phía Việt Nam thời gian đầu khi nhận được đơn yêu cầu trả lại tài sản của ông Bình cũng có văn thư trả lời cho ông. Một văn bản Bộ Tư pháp Việt Nam gửi cho ông Trịnh Vĩnh Bình vào tháng 9/2008 nói Bộ này “đang nghiên cứu, xem xét theo quy định của pháp luật.” Nhưng theo lời ông Bình, kể từ sau văn thư này, Bộ Tư pháp “bặt vô âm tín.”


Trong các ngày 24/7 và 25/7/2017, VOA liên lạc trực tiếp với lãnh đạo Bộ Tư pháp để xác minh việc này nhưng chỉ được trả lời “bận” và từ chối trả lời các câu hỏi liên quan đến vụ Trịnh Vĩnh Bình.

Cũng trong thời gian này, ông Bình nhận được lời giải thích từ phía đại diện Việt Nam về việc không hoàn trả các tài sản đã tịch biên. Ông Bình kể cho VOA:

“Đoàn đàm phán Việt Nam trình bày lý do tài sản bị sang tay, không thể trả lại.

Họ nói như thế này: ‘Chúng tôi cũng đã nghiên cứu để giải quyết cho ông Bình theo thỏa thuận Singapore. Nhưng khi về, chúng tôi gặp khó khăn là những tài sản đó bây giờ đứng tên người thứ 2, thứ 3…’, tức là họ sang tay, bán mấy lần rồi. Cái câu ‘thứ 2, thứ 3’ là đúng. Nhưng tôi muốn nói cái dối của họ là họ qua họp khoảng năm 2014, 2015. Trong khi chính người phát ngôn đó hồi năm 2009, 2010, trong một văn bản, tìm cách lý giải ‘tiêu chí’ mà trong Bản Thỏa Thuận có ghi là từ ‘hợp lý’. Họ đưa ra hàng lô những cái mà họ cho là không hợp lý để không trả tài sản lại.”

Tiêu chí “hợp lý” nằm trong một điều khoản của bản thỏa thuận mà Chính phủ Việt Nam và ông Trịnh Vĩnh Bình đã ký kết tại Singapore năm 2006 về việc giải quyết trả lại tài sản cho ông Bình. Một phần của điều khoản này có nội dung, khi ông Bình có đơn kiến nghị, Chính phủ Việt Nam xem xét trả lại những tài sản “hợp lý” của ông Bình.

Một số xe hơi cổ của ông Trịnh Vĩnh Bình.

Theo lời ông Bình, Việt Nam đã cố tình thêm chữ “hợp lý” vào bản thỏa thuận, trong khi trước đó trong các bản thảo thương lượng, Việt Nam cam kết trả lại toàn bộ tài sản cho ông.

Tại Việt Nam, báo chí thời gian này cũng đưa tin về chuyện nhiều tài sản của ông Trịnh Vĩnh Bình đã bị “xà xẻo”, tự ý bán một cách “tùy tiện và cẩu thả”, đi kèm với tin truy tố một vài cán bộ thuộc Cục thi hành án dân sự, mà theo lời ông Bình, chỉ là “những con tép riu” ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có dính líu đến vụ án của ông. Báo Thanh Niên ngày 11/6/2012 nói “đã có nhiều sai phạm” trong thời kỳ hậu vụ án Trịnh Vĩnh Bình. Nhiều tài sản của ông Bình bị bán một cách “bất minh”, “trong đó có khu ‘đất đẹp’ giá rẻ về tay người nhà [của 3 cán bộ thi hành án]”.

Vẫn theo tờ báo này, “trong quá trình kê biên khu nhà kho thuộc tài sản của ông Bình, các cán bộ này đã phát hiện ra 12 xe ô tô trong nhà kho không được tuyên trong bản án. Thay vì phải xác minh làm rõ nguồn gốc, chủ sở hữu, Hoàng và Linh [2 trong số 3 cán bộ] vội vàng tiến hành cưỡng chế, kê biên số tài sản này.”


Cũng trong thời gian tài sản của ông Bình bị sang tay, “xà xẻo” vô tội vạ ở địa phương, ở cấp trung ương cũng có những “chỉ đạo” xuống cho các bộ, ngành và địa phương liên quan đến vấn đề tài sản của ông Trịnh Vĩnh Bình.

Một văn bản đóng dấu “Hỏa tốc” của Văn phòng chính phủ gửi cho Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án Nhân dân Tối cao và Tòa phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM vào ngày 2/4/2010 ghi rõ: “Giao Bộ Tư pháp chủ trì họp với Tòa án Nhân dân Tối cao, Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban Nhân dân các địa phương có liên quan bàn thống nhất biện pháp xử lý tài sản liên quan đến vụ kiện Trịnh Vĩnh Bình theo đúng quy định của pháp luật; báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ trong tháng 4 năm 2010.”


Trước đó, một văn bản từ Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ngày 12/10/2009 gửi Lãnh đạo Bộ Tư pháp cũng đề nghị Bộ này “có ý kiến” với UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, “chỉ đạo Ủy ban nhân dân thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành dừng việc san lấp, sử dụng đất có liên quan tới việc khiếu tố để chờ ý kiến kết luận giải quyết cuối cùng của cơ quan chức năng, tránh việc khiếu tố kéo dài, phá vỡ cam kết.”

Tuy nhiên, những chỉ đạo từ bên trên đã không hề có hiệu lực trên thực tế tại địa phương.

“Vì những người đi làm [việc giải quyết trả lại tài sản] xuống tới Vũng Tàu thì bị câu móc. Miền Bắc có từ hay lắm ‘Lấy mỡ nó rán nó’. Họ dùng tài sản của mình chia nhau. Ai xuống thì ‘Thôi, đừng làm gì hết. Mình chia nhau’. Rồi họ sang tay ngầm. Họ kéo vào chia chác nhau. Họ làm đủ thứ hồ sơ. Ví dụ từ 10.000 m2, họ làm thành 8.000 m2, 7.000 m2… Rồi cuối cùng họ nói ‘Cái này không giao cho ông Bình được vì hồi xưa có bản án như vậy, vi phạm thế nọ thế kia. Tóm tắt là họ lấy hết của tôi.” Ông Bình nói với VOA.


Ngày 26/7/2017, VOA liên lạc với ông Nguyễn Cao Lục, phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam, để xác minh nội dung các văn bản thì được ông trả lời: “Rất xin lỗi là nó không thuộc lĩnh vực của tôi phụ trách. Cái này bên Bộ Ngoại giao [phụ trách] thôi. Liên hệ với bên Bộ Ngoại giao nhá.”

Sau nhiều lần liên lạc với lãnh đạo và Vụ Báo chí của Bộ Ngoại giao, VOA nhận được trả lời từ Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Trà vào ngày 8/8/2017: “Chúng tôi sẽ chuyển những câu hỏi này của phóng viên đến các cơ quan chức năng.”

Đơn từ không giải quyết được việc, năm 2012, ông Trịnh Vĩnh Bình về Việt Nam và đến gặp bà Nguyễn Thị Bình, người mà ông từng tận tai nghe trực tiếp trên truyền hình bà chất vấn trước Quốc hội về vụ án của ông.

“Tôi đến cầu cứu bà ấy. Bà Bình thở dài, ngả người ra sau ghế và nói ‘Bình ơi, chị bây giờ không còn quyền chức, không làm gì hết. Thời chị còn quyền chức, chị nói còn chưa nghe nữa mà. Thôi để chị thử.”


Ngày 26/12/2012, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình gửi thư cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và “đề nghị đ/c [đồng chí] có thể dành ra một ít thời gian chủ trì cuộc họp với các bộ ngành và các tỉnh có liên quan để giải quyết dứt điểm việc này, giữ uy tín cho Chính phủ, đảm bảo công bằng và nghiêm minh của pháp luật, tránh những phức tạp có thể xảy ra không cần thiết.”

Chờ thêm 2 năm nữa, những nỗ lực đòi lại tài sản của ông Bình vẫn chẳng đi tới đâu.

“Để lâu cứt trâu hóa bùn. Kệ. Cứ kéo dài vậy.” Ông Bình chua chát, vì trước đó, Đại tá-Luật gia Lê Mai Anh, nguyên cán bộ Viện Kiểm sát Tối cao, sau khi nhận được kêu cứu từ ông Bình, đã cảnh báo:

“Trả lại tiền cho ông ấy bây giờ là khó khăn lắm. Không thể có chuyện ấy được đâu. Nhưng mà ông ấy vẫn cứ tin Nhà nước mình nên ông ấy cứ chờ đợi từ năm này sang năm khác.”
Kiện lần 2

Tháng 1/2015, ông Trịnh Vĩnh Bình quyết định khởi kiện Chính phủ Việt Nam ra Tòa trọng tài Quốc tế lần thứ hai.

Hồ sơ của ông lần này được chuyển cho tổ hợp luật sư nổi tiếng của Mỹ: King & Spalding.

Trong vụ kiện lần này, ông Trịnh Vĩnh Bình đòi nhà nước Việt Nam phải bồi thường “ít nhất 1,25 tỷ đôla”.

“Tôi đòi hai mục. (1a) là những tài sản mà chính phủ Việt Nam tịch thu hay chiếm đoạt trái phép, vi phạm luật pháp quốc tế về hiệp thương. (1b) Do vụ án gây ra một số hệ quả, nên những hệ quả đó cũng được liệt kê vào để đòi đền bù. Điểm thứ 2 là điểm nhức nhối.”

Ông Trịnh Vĩnh Bình cho biết điểm đòi bồi thường thứ 2 dựa trên tiền lệ của một vụ kiện nhốt tù oan sai ở Mỹ. Trong vụ kiện này, người bị nhốt tù oan 4,5 ngày đã được tòa ra phán quyết buộc Chính phủ Mỹ phải bồi thường 5 triệu đôla. Như vậy, một ngày bị tù oan được bồi thường khoảng 800.000 đôla. Ông Trịnh Vĩnh Bình dựa trên tiền lệ này để quy ra số tiền đòi Chính phủ Việt Nam phải bồi thường cho hơn 18 tháng Việt Nam giam giữ ông.

Hình minh họa.

“Tôi rất tiếc là chính phủ Việt Nam thay vì một vụ việc mà mình thấy mình sai, mình biết mình sai rồi thì giải quyết cho người ta êm đẹp, tức là ngăn ngừa không cho vụ này xảy ra tiếp. Đây là việc nên làm. Nhưng không, Việt Nam thường thường khi có một vụ xảy ra, người ta có khiếu nại hay muốn nói lên sự thật, thì lại tìm cách đàn áp nó xuống, dùng mọi hình thức đe dọa, đàn áp. Tôi cho đây là một cách thức mà khi sử dụng với những người Việt kiều thì gần như 80%, 90% là vô hiệu. Là vì những người Việt sống ở nước ngoài người ta đã hấp thụ được cái gọi là trật tự xã hội, pháp luật ở bên ngoài. Người ta cho rằng đó là quyền của người ta. Người ta được bảo vệ. Còn Việt Nam thì không vậy. Quyền ở trong tay tôi. Trong tay tôi thì tôi có thể làm.”

Về phía mình, Chính phủ Việt Nam lần này thuê tổ hợp Luật sư nổi tiếng của Anh, Freshfields Bruckhaus Deringer LLP. VOA nhiều lần liên lạc chuyên viên tư vấn pháp lý hiện đang làm việc với tổ hợp luật sư trên, nhưng đều không nhận được câu trả lời.

Trong văn bản gửi VOA ngày 8/8/2017, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Trà chỉ trả lời chung cho gần 10 câu hỏi của VOA rằng:

“Chúng tôi sẽ chuyển những câu hỏi này của phóng viên đến các cơ quan chức năng.

Việt Nam luôn hoan nghênh và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tại Việt Nam. Mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. Những hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý theo đúng các quy định pháp luật”.

Hình minh họa.

Tiến sĩ Vũ Quang Việt, Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc, cho biết về quy trình xử kiện sắp tới:

“Xử, xong rồi giả dụ [Tòa trọng tài] có đưa ra một kết luận là phải trả, thì đương nhiên họ sẽ có quyền và bằng cách nào đó nắm tài sản của Việt Nam. Cả cái Âu châu nó lớn. Nếu là Tòa quốc tế thì họ phải chặn account [tài khoản] của chính phủ Việt Nam”.

Cựu chuyên viên của Liên Hiệp Quốc nói thêm: “Tôi nghĩ là để cho họ [Trung tâm Trọng tài Quốc tế] làm. Rồi sau đó Việt Nam học được một bài học. Chả có cách gì khác. Phải để cho nó xảy ra. Trừ phi bây giờ Việt Nam xin nộp lại tất cả những thứ đó, trả lại ngay lập tức, rồi thì quan tòa có thể kêu thôi và bỏ [việc xét xử]”.

Tiến sĩ Joris Voorhoeve, người trước đây trong tư cách Bộ trưởng Quốc phòng của Hà Lan đã có rất nhiều can thiệp, yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải xem xét lại vụ án, trong cuộc phỏng vấn với VOA ngày 18/8/2017, nói bản án của Việt Nam đối với ông Trịnh Vĩnh Bình là “bất công”.

“Vấn đề là từ các cá nhân. Đó là một vụ tham nhũng nhằm chiếm đoạt tài sản của ông Bình ở Việt Nam”.

Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Voorhoeve nhận định vụ án này là một “thử nghiệm” về lòng tin, không chỉ từ phía Hà Lan mà còn ở Hoa Kỳ và các nước khác, đối với việc tuân thủ Luật pháp quốc tế và trong nước của Việt Nam.

Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Voorhoeve trong cuộc phỏng vấn qua Skype với VOA, 18/8/2017.
Thắng, thua? Đau!

Nguyên đơn vụ kiện, ông Trịnh Vĩnh Bình, khá tự tin về khả năng thắng kiện.

“Dĩ nhiên quyết định cuối cùng vẫn là ở tòa. Nhưng tôi thấy chính phủ Việt Nam, đừng nói là phần trăm, mà tôi dám nói mạnh miệng rằng phần ngàn cũng không có. Bởi vì trong vụ này không phải là sai ít, mà là sai từ Luật của Việt Nam, mà chính chính phủ Việt Nam bây giờ cũng biết sai.”

Trong khi đó, những người dân ở phía “Bị đơn,” cũng không hề tỏ ra lạc quan.

Nhà báo Nguyên Bình, con gái tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nói với VOA:“Làm sao mà thắng được? Một là mình không có thầy kiện giỏi. Hai là người ta đã nghiên cứu kỹ rồi. Người ta cũng thông thạo luật pháp quốc tế rồi. Thế thì chuyện thua là phần lớn hơn là không thua. Mà đã thua rồi thì mất rất nhiều thứ. Không những về kinh tế, mà còn về chính trị, ngoại giao. Cái đấy là chắc chắn rồi”.

Theo bà, Việt Nam “chỉ có cách thương lượng với ông Trịnh Vĩnh Bình và xin lỗi ông ấy.”

“Việt Nam bây giờ đang thiếu tiền, thiếu vốn, muốn kêu gọi Việt kiều cũng như các nhà đầu tư ở các nước vào đầu tư, mà nếu vụ này phanh phui ra và bị thất bại thì ảnh hưởng sẽ rất lớn. Chẳng biết ai người ta còn muốn vào Việt Nam đầu tư kiểu này nữa không?”

Theo bà Nguyên Bình, “về lâu dài, phải dân chủ hóa. Phải không được kỳ thị những người giỏi về luật pháp và có kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Chứ còn bây giờ cái gì cũng Đảng. Mà Đảng thì không hiểu biết gì về làm ăn kinh tế. Một ông chưa bao giờ đọc một cuốn sách về kinh tế mà lại cứ lãnh đạo và quyết định mọi thứ, thì thua là cái chắc. Không phải thua một ông Trịnh Vĩnh Bình này, mà còn có thể thua rất nhiều trong những vụ làm ăn với châu Âu”.

Hầu hết các giới chức Việt Nam mà VOA phỏng vấn khi thực hiện loạt bài này đều dè dặt trong việc đưa ra tiên đoán về khả năng thắng, thua của Việt Nam.

Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng (Ảnh tư liệu)

Cựu Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, nói: “Trước đây đã có thỏa thuận ngoài tòa, nghĩa là Việt Nam đã phải lùi một bước. Lần này liệu còn có đất lùi nữa hay không là tùy vào sự chuẩn bị của đội ngũ luật sư mà trong nước đã phải bỏ tiền ra thuê rất đắt. Nhóm lợi ích thu về được một ít tiền của ông Bình, không biết có nổi dăm triệu không, mà bây giờ nếu phải đền bù có thể lên đến nhiều trăm triệu đôla. Tiền này ai gánh chịu? Người dân và doanh nghiệp Việt Nam đóng thuế ở Việt Nam è cổ bỏ tiền thuê luật sư để cãi cho những người mà chính luật pháp Việt Nam cũng đã bỏ tù họ”.

Phiên xử đầu tiên của vụ kiện sẽ diễn ra vào ngày 21/8/2017 tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế ở Paris, Pháp.

Trong những năm tháng chuẩn bị cho vụ kiện, ông Bình nói với VOA rằng ông luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với tình huống xấu nhất.

“Qua vụ này, tôi nghĩ Việt Nam sẽ trả một giá rất đắt. Tôi cam đoan như vậy. Đừng có nghĩ là đe dọa tôi, không ăn thua gì. Tôi không là gì cả. Văn bản của tôi bây giờ nằm trong tay luật sư. Từ lâu, khi vào cuộc chơi, tôi đã chấp nhận cuộc chơi. Tôi đã chuẩn bị di chúc và ủy quyền hết rồi. Tôi chả là gì hết. Nếu còn tôi, thì còn có thể ở một mức nào đó thương lượng để giải quyết những thiệt hại và ngăn ngừa trong tương lai để không cho những quan tham làm chuyện này tiếp”.

Ông Bình tham quan địa điểm đầu tư tiềm năng tại Việt Nam vào tháng 4/1990.

Khi được hỏi nếu được lựa chọn lại, ông có quyết định về Việt Nam đầu tư?

Ông Trịnh Vĩnh Bình trả lời:

“Tôi có thể nói rằng thuê tôi cũng không dám. Cho tiền tôi một ngày bao nhiêu tôi cũng không dám. Thực ra không phải là không dám, mà tôi không muốn. Tại sao mình phải phí thời giờ như vậy? Tâm sức của mình phải được tưởng thưởng ít nhất trên tinh thần.”

Ước mơ, hoài bão xây dựng quê hương đã được ông Trịnh Vĩnh Bình rất nhiều lần, bằng nhiều cách, trình bày với các cơ quan chức năng của Việt Nam, như trong một văn bản ông đã gửi cách đây 7 năm:

“Nếu tài sản nhỏ nhoi của gia đình tôi có bị quan chức Vũng Tàu tìm cách tịch thu (để họ ngấm ngầm chia chác nhau bằng nhiều cách, như họ đang luồn lách, tha hồ mà làm như hiện nay), thì nó sẽ không có giá trị gì đối với đất nước Việt Nam. Điều làm cho tài sản gia đình tôi có lợi ích đối với đất nước Việt Nam chính là phải để nó tiếp tục sản xuất sinh nở ra những lợi ích tự nhiên, làm tấm bảng quảng cáo mạnh cho việc thu hút thêm đầu tư nước ngoài, khích lệ thu hút sự đóng góp tích cực từ khối kiều bào… đó mới là có lợi.”

Cả ông Trịnh Vĩnh Bình lẫn một số giới chức của Việt Nam mà VOA phỏng vấn đều tỏ ra không vui vẻ gì trong vụ kiện này.

Ông Trịnh Vĩnh Bình nói “đấu tranh” tại tòa quốc tế là lựa chọn cuối cùng của ông. Vì theo lời ông, “cái gì cũng vậy, cũng phải có đấu tranh để theo luật đào thải.”

Tất cả họ, cả bên bị đơn lẫn nguyên đơn, nói như lời Đại sứ Đinh Hoàng Thắng, đều “đau” trong vụ án xuyên thế kỷ này.

VOA

Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

Những bí ẩn trong việc ông Trịnh Vĩnh Bình đào thoát khỏi Việt Nam ngay sau khi bị kết án 11 năm tù giam



Trúc Giang MN


1* Mở bài

Ông Trịnh Vĩnh Bình bị kết án 11 năm tù giam nhưng làm thế nào thoát ra khỏi Việt Nam để về Hòa Lan?. Đó là một bí ẩn đầy phức tạp của vụ án.

“Thời bao cấp” của nền kinh tế quốc doanh đưa Việt Nam đến chỗ kiệt quệ. Để được sống còn, đảng CSVN buộc phải mở cửa hội nhập vào kinh tế thế giới. Chính phủ mời gọi Việt kiều về nước đầu tư kinh doanh. Đó là thời kỳ vàng son của Việt kiều. Người trong nước có cái tâm lý trấn lột, “chặt đẹp” Việt kiều. Ngay cả bạn bè, bà con và công an cũng có cái não trạng đó. Và Trịnh Vĩnh Bình là một nạn nhân.

Những người bà con trong ban quản trị công ty cấu kết nhau ăn cắp một số tiền mấy trăm ngàn đô la trong một thời gian dài. Bị phát hiện, họ hối lộ cho công an và công an nhân cơ hội đó chụp mũ công ty trốn thuế, bắt giam và khám nhà tịch thu tài sản của Trịnh Vĩnh Bình.

Chính phủ Hòa Lan can thiệp. Thủ tướng Phan Văn Khải ra chỉ thị cho Bộ Công An không truy tố ra tòa, nhưng công an địa phương không thi hành. Phan Văn Khải, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên binh vực cho người về nước đầu tư.

Tổng Cục 2 Bộ Quốc Phòng nhảy vào, ngụy tạo hồ sơ, biến vụ án kinh tế thành vụ án chính trị. Những người binh vực Trịnh Vĩnh Bình đó co vòi, nằm yên. Trịnh Vĩnh Bình bị kết án 11 năm tù, bị tịch thu tài sản, nhưng lại trốn thoát về Hòa Lan và sau đó đâm đơn kiện nhà nước VN. Hai bên thỏa thuận dàn xếp bên ngoài tòa án. Nhưng VN không thi hành thỏa thuận, nên Trịnh Vĩnh Bình lại lôi nhà nước CS nầy ra tòa án quốc tế một lần nữa về tội lừa đảo.

Ngày 21-8-2017, Tòa Trọng tài Thương mại Quốc Tế tại Paris khởi đầu phiên xử.

2* Những bí ẩn trong việc Trịnh Vĩnh Bình đào thoát khỏi Việt Nam sau khi bị kết án 11 năm tù.

Một người bị kết án 11 năm tù giam mà làm thế nào lên phi cơ bay về Hòa Lan?

Theo lời giải thích của một người trong nước, tên là Trần Quốc Hoàn, thì Tổng Cục 2 của Bộ Quốc Phòng do Đặng Vũ Chính và con rể là Nguyễn Chí Vịnh đã tham gia việc bắt giam và tịch thu tài sản của TVB.

Vì nhận thấy việc bắt giam không có cơ sở pháp lý, trái luật pháp quốc tế và luật VN sẽ tạo ra bất lợi cho VN trên trường quốc tế nên tạo cơ hội để cho Trịnh Vĩnh Bình trốn thoát, rồi sau đó thanh toán bằng một vụ án do các băng đảng thanh toán lẫn nhau, thì nhà nước VN không chịu trách nhiệm. Giết người cướp của.

Trong khi phiên tòa phúc thẩm mở ra ở TP/HCM, Trịnh Vĩnh Bình chạy vào nhà thương Chợ Rẫy xin cứu cấp vì cao huyết áp. Tòa phúc thẩm chỉ căn cứ vào hồ sơ của tòa sơ thẩm mà ra phán quyết. Không cần bị cáo có mặt tại tòa.

Trịnh Vĩnh Bình được người của Phan Văn Khải giúp đỡ cho về Hòa Lan.

3* Tòa Trọng tài Thương mại Quốc tế tại Paris mở ra xét xử ngày 21-8-2017



Trước kia, hồi năm 2003, Tổ hợp Luật sư Covington Burling (Hoa Kỳ), đại diện cho Trịnh Vĩnh Bình, nạp đơn tại tòa án quốc tế thuộc LHQ, khởi kiện Nhà Nước VN về việc giam giữ và tịch thu tài sản. Tòa truyên bố phiên xét xử mở ra từ ngày 4-12-2005 đến 12-12-2005.

Ba tuần lễ trước ngày xử, tòa tuyên bố tạm hoãn vì hai bên thỏa thuận dàn xếp ngoài tòa.

Bên ngoài tòa, hai bên thương lượng và đồng ý cam kết không tiết lộ số tiền mà Nhà Nước VN bồi thường cho Trịnh Vĩnh Bình, và VN sẽ hoàn trả tài sản lại cho đương sự. Thỏa thuận làm tại tòa Singapore năm 2006.

Vì VN không hoàn trả tài sản như đã cam kết nên ông Bình lại khởi kiện lần thứ hai, đòi bồi thường thiệt hại hàng tỷ đô la.

Tòa án Trọng tài Quốc tế thuộc Phòng Thương mại Quốc tế ICC (International Chamber of Commerce).

Ngày 21/8/2017, tòa án quốc tế xét vụ án này tại Paris với nguyên đơn là ông Trịnh Vĩnh Bình đòi nhà nước Việt Nam bồi thường vì :

- Vi phạm luật đầu tư liên quan đến Hiệp thương đầu tư song phương giữa Hà Lan Việt Nam (BIT)

- Vi phạm Nhân quyền: nhốt người oan sai

Luật sư của Trịnh Vĩnh Bình là Tổ hợp luật sư nổi tiếng Hoa Kỳ, King&Spalding. Luật sư của Nhà nước Việt Nam là nhóm luật sư nổi tiếng nước Anh, là Freshfields Bruckhaus Deringer LLP. (LLP=Limited Liability Partnership)

3.1. Nội dung Bản cam kết trước tòa án Singapore

Nhà nước Việt Nam đã thương lượng với ông Trịnh Vĩnh Bình để ký một thỏa thuận tại tòa Singapore năm 2006. Trong thỏa thuận này, về phía nhà nước Việt Nam đã cam kết:

- Việt Nam bồi thường các chi phí phát sinh từ việc theo đuổi phiên tòa

- Miễn án cho ông Trịnh Vĩnh Bình

- Trả lại toàn bộ tài sản cho ông Trịnh Vĩnh Bình

- Tạo điều kiện cho ông Trịnh Vĩnh Bình trở lại Việt Nam đầu tư

Về phía ông Trịnh Vĩnh Bình :

- Ngưng phiên tòa quốc tế ở Stockholm (Thụy Điển)

- Không tiết lộ về nội dung thỏa thuận với các cơ quan truyền thông

Ông Trịnh Vĩnh Bình tuyên bố: “Khi mà ký thỏa thuận ở Singapore thì chính phủ VN hứa trả lại toàn bộ tài sản. Nhưng sau 7 năm trời chính phủ VN không trả, dù một tài sản nhỏ cũng không trả”.

3.2. Những câu hỏi về pháp lý của Bản thỏa thuận

1. Bản thỏa thuận về những cam kết giữa ông Trịnh Vĩnh Bình với Nhà nước Việt Nam ở tòa Singapore có giá trị pháp lý đối với Tòa Trọng tài Quốc tế ICC hay không?. Nói rộng ra, những thỏa thuận của hai bên ở các tòa án như Campuchia, Lào, Trung Quốc…có giá trị pháp lý cho phiên tòa thứ hai ở Paris hay không?

Nếu không có giá trị thì xem như không có Bản cam kết đó. Không có cam kết thì không có bên nào vi phạm cả.

2. Bản thỏa thuận tại Singapore không có ấn định thời hạn nào. Nếu không có thời hạn thì không thể cáo buộc VN không thi hành cam kết. “Chưa thi hành” chớ không phải “không thi hành”

3. Bản cam kết không có biện pháp chế tài đối với bên vi phạm, vậy thì người vi phạm không có hề hấn gì cả.

4. Việc trả toàn bộ tài sản lại cho ông Trịnh Vĩnh Bình. Về mặt pháp lý, không có chứng từ hợp pháp nào xác định ông Trịnh Vĩnh Bình làm chủ tài sản nào cả. Người đứng tên công ty là bà con của ông. Ông nầy đứng tên làm giám đốc công ty, đã toa rập để ăn cắp tiền của ông. Lo hối lộ và đứng về phe công an chống lại ông.

Thẩm quyền chứng nhận sở hữu chủ là chính quyền Việt Nam. Nhất là tài sản đó do Việt Nam tước đoạt hoặc do cán bộ đảng viên cướp đoạt từ tay ông Trịnh Vĩnh Bình. Luật sư Mỹ của ông Bình có thể vào VN để mở cuộc điều tra xác định chủ quyền hay không? Về mặt pháp lý, chắc chắn là không.

Tóm lại, ông Trịnh Vĩnh Bình bị lừa gạt ở bản thỏa thuận tại tòa Singapore. Không có thời hạn thực hiện cam kết. Không có biện pháp chế tài đối với người vi phạm.

Nhà nước CSVN cầm đằng chuôi của con dao, Trịnh Vĩnh Bình nắm đằng lưỡi.

5. Nói thêm về pháp lý. Ông Trịnh Vĩnh Bình cho biết, ông đã làm di chúc, để tài sản của ông cho người của ông.

Người thực hiện di chúc, chuyển giao quyền sở hữu lại cho ai, là chính quyền và tòa án Việt Nam. Trước cái đám cướp của giết người nầy thì dễ gì họ chịu chuyển giao tài sản của người chết hoặc người ở nước ngoài lại cho người thân của ông Trịnh Vĩnh Bình. Trước kia Cộng Sản tuyên bố, nhà cửa, tài sản của người ở nước ngoài thì thuộc diện nhà nước quản lý. Một trường hợp cụ thể là ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách Khai Trí. Cuộc đời của ông chỉ mua bán sách thế mà bị bắt bỏ tù để cướp tài sản. Ông khiếu nại. Nhà nước VN ra điều kiện, chỉ trả nhà lại cho người về VN sinh sống. Ông và gia đình trở về, nhưng bên nầy đỗ thừa cho bên kia, và rốt cuộc ông không lấy lại được nhà.

Tòa Trọng tài Quốc tế tại Paris đã mở ra xét xử ngày 21-8-2017. Để xem hai nhóm luật sư Anh, Mỹ tranh hùng ra sao? Tuy nhiên quyền ra phán quyết thì thuộc về ông chánh án hay hội đồng xét xử.

4* Vụ án Trịnh Vĩnh Bình

4.1. Việc kinh doanh của ông Trịnh Vĩnh Bình



Ông Trịnh Vĩnh Bình sinh năm 1947 tại Sóc Trăng. Năm 1976, vượt biên qua định cư ở Hoà Lan với hai bàn tay trắng. Ông tiếp tục học và tốt nghiệp đại học. Được báo chí Hoà Lan ca ngợi là một thành công trong hội nhập, và thành công trong kinh doanh. Báo chí gọi là “Ông vua chả giò”. Ông tham gia đảng chính trị Dân Chủ Tự Do, là đảng cầm quyền cuối thập niên 1980 ở Hòa Lan.

Đầu năm 1990, TVB tháp tùng đoàn doanh nghiệp Hòa Lan, đến VN thăm dò khả năng đầu tư.

Ông quyết định đóng cửa công ty chả giò ở Hòa Lan, đem 2,328,250 USD tiền mặt, và 96 kí vàng về đầu tư ở VN.

Thành lập công ty Tín Thành ở Sài Gòn, xuất cảng nông, thủy sản. Công ty Bình Châu có nhà máy hải sản đông lạnh ở Vủng Tàu. Mua một số nhà đất ở Sài Gòn và BR/VT để phục vụ sản xuất. Xử dụng số vốn rất lớn trên 200 hecta đất ở Bà Rịa để trồng rừng, nghiên cứu việc nuôi tôm.

Xây dựng cơ sở biến chế thủy hải sản xuất cảng, với sản lượng 35% trên tổng số đánh bắt ở BR/VT. Dự án xây khách sạn 10 tầng.

Sau 8 năm thành công trong kinh doanh, tài sản lên tới 6 tỷ đồng VN.





Dự án xây khách sạn 10 tầng ở đường Trần Hưng Đạo Sài Gòn

4.2. Lòng tham của công an Việt Nam

Trịnh Vĩnh Bình nói tiếp: “Thấy Việt kiều về nước làm ăn phát đạt nên họ có ý cướp giật. Tôi không quen đút lót, làm ăn chân chính, cho nên trở thành nạn nhân. Ở VN, khi Việt kiều làm ăn phát đạt thì bị chính quyền địa phương gây khó dễ để đòi tiền. Đây là vụ án mà tôi bị hàm oan. Qua một thơi gian dài, gia đình tôi, bản thân tôi và một số người binh vực công lý, đã gởi nhiều đơn khiếu nại khắp nơi, nhưng không được cứu xét. Cuối cùng, tôi phải dựa vào Hiệp Ước thương mại giữa VN và HL, đưa vụ tranh chấp ra Toà án Quốc Tế thuộc Liên Hiệp Quốc.

Sau một thời gian tại ngoại, tôi rất lo ngại cho mạng sống của mình, có thể bị bắt và bị giết, cho nên tôi phải đào thoát khỏi VN.” (Trả lời phỏng vấn đài RFA)

4.3. Năm 1996 bị bắt về “tội trốn thuế”






Năm 1996 bị bắt về tội trốn thuế.

Trịnh Vĩnh Bình trả lời phỏng vấn của đài RFA như sau:

“Công ty tôi có một số anh em cấu kết nhau, ăn cắp một số tiền ước lượng mấy trăm ngàn đô la qua nhiều năm tháng. Sau khi bị phát hiện, họ sợ bị tù tội nên dùng tiền bạc đút lót cho công an địa phương, phòng đó là PA-42, phòng cảnh sát điều tra Vũng Tàu.

Đó là giám đốc, phó giám đốc và trưởng phòng tài chánh của công ty tôi, thành một hệ thống ăn cắp. Thân nhân của tôi đứng tên điều hành công ty.

Bên công an nhận hối lộ, tìm cách bao che. Họ ra tay trước. Chụp mũ công ty tôi trốn thuế, khám xét công ty, tịch thu tài sản và bắt giam tôi.

Việt kiều về nước không được quyền mua nhà đất, cho nên phải nhờ thân nhân đứng tên. Một số người bà con lật lọng, tráo trở, giật tiền, tôi ở trong trường hợp đó.


5* Trên nói dưới không nghe

5.1. Bút phê của Thủ tướng Phan Văn Khải

Ông Trịnh Vĩnh Bình, một công dân Hoà Lan gốc Việt, theo mời gọi của đảng CSVN, đã đem tiền về VN đầu tư. Việc kinh doanh phát đạt, bị công an địa phương hãm hại để cướp tài sản.

Năm 1996, ông Trịnh Vĩnh Bình (TVB) bị bắt giam ở phòng cảnh sát điều tra PA-42 do trung tá Ngô Chí Đan làm trưởng phòng.

Gia đình khiếu nại và sự can thiệp mạnh mẽ của nước Hoà Lan.

Ngày 13-5-1998, sau khi xem hồ sơ, Thủ tướng Phan Văn Khải bút phê và gởi qua Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, nguyên văn như sau:

“Anh (chỉ ông Hương) chỉ đạo cho công an Bà Rịa-Vũng Tàu xem lại trường hợp của Trịnh Vĩnh Bình. Thủ tướng Hoà Lan đã đặt vấn đề. Tôi đã hỏi trực tiếp một số đồng chí lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, anh Bình không có lỗi đến mức phải xử. Do anh dựa vào người trong nước, bị họ lừa gạt, làm bậy”. (Bút phê của Phan Văn Khải)

Lê Minh Hương chuyển bút phê của Thủ tướng Khải xuống cho Thứ trưởng công an Nguyễn Khánh Toàn, đề nghị giải quyết theo chỉ thị của ông Khải.

Câu chuyện tưởng như được giải quyết theo lịnh của Thủ tướng Khải, là không đưa ra toà xét xử, nhưng không ngờ, Trịnh Vĩnh Bình lại bị đưa ra Toà án Nhân Dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (BR-VT) và bị kêu án 13 năm tù, đóng phạt 480 lượng vàng (Do xét công ty tịch thu 96 kg) và tịch thu toàn bộ tài sản về tội “kinh doanh bất hợp pháp” (trốn thuế) và tội lo hối lộ.

5.2. Hệ thống tham nhũng

Nguyên do là Nguyễn Khánh Toàn đã binh vực đàn em là trung tá Ngô Chí Đan, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra BR-VT. Mà cũng có thể đàn em nầy là tay kinh tài của xếp trên.

Vụ án trở nên phức tạp vì có nhiều cơ quan nhảy vào để binh vực che chở cho nhau. Những âm mưu được dàn dựng, hồ sơ ngụy tạo, biến vụ kiện kinh tế thành vụ kiện chính trị, làm cho những người cho rằng TVB là vô tội, như Phan Văn Khải, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Dy Niên, Nguyễn Mạnh Cầm đành phải co vòi, bó tay. Cuối cùng, công an địa phương, trung tá Ngô Chí Đan, đàn em của Nguyễn Khánh Toàn, thắng trận. Phép vua thua lệ làng.

6* Báo chí Cộng Sản kết tội Trịnh Vĩnh Bình

Xin trích nguyên văn bài báo:

“Trịnh Vĩnh Bình sinh năm 1947 tại Sóc Trăng. Năm 1976 vượt biên qua Hòa Lan.

Tính đến tháng 8 năm 1998, TVB nhập cảnh VN 63 lần, mỗi lần như thế mang theo vàng và đô la, tổng cộng 2,328,250 đô la và 96 kí vàng. Lập công ty Tín Thành mua bán nông hải sản.

Nhờ Trịnh Hiền Thanh chạy lo hộ khẩu cho mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Thi, cho các em vợ là Phạm Thị Huệ, Phạm Thị Bé, Phạm Thị Tuyết Hằng về cư ngụ tại nhà, thuộc huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Nhưng có thêm hai hộ khẩu nữa ở thành phố Hồ Chí Minh và tại huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Vợ chồng của đứa cháu gái là Trịnh Mộng Kiều và Triệu Văn Dữ, và cả Trịnh Hiền Thanh cũng có tên trong hộ khẩu ở Vũng Tàu, với mục đích đứng tên mua nhà cửa và bất động sản. TVB nhận đất trồng rừng theo chương trình 327 của chính phủ.

Trịnh Vĩnh Bình nắm trong tay 11 căn nhà, 114 nền nhà và 2,847,745 mét vuông đất.

Năm 1992, TVB chỉ đạo cho nhân viên đưa hối lộ 510 triệu đồng cho Tạ Quang Luyện, cán bộ phụ trách Nhà Đất tỉnh BR-VT.

Ngày 11-12-1998, Tòa án Nhân dân BR-VT phạt TVB 13 năm tù giam”.(Hết trích)

7* Phản ứng của chính phủ Hoà Lan

Năm 1996, Trịnh Vĩnh Bình bị bắt giam. Năm 1998 đem ra xử.

Đầu năm 2000, chính phủ Hoà Lan (HL) phổ biến một tập tài liệu 752 trang về vụ án của TVB. Người tích cực vận động cho TVB là GS J.J.C. Voorhoever, là một trong 18 thành viên của Hội đồng Chính phủ Hoà Lan. Cựu Bộ trưởng Quốc Phòng HL, cựu chủ tịch đảng Dân Chủ Tự Do mà TVB là một đảng viên.


Thủ tướng HL, Wim Kok và Bộ trưởng Ngoại giao Van Aartsen gởi thơ trực tiếp cho Chủ tịch nước Trần Đức Lương yêu cầu giải quyết vụ án TVB. Đồng thời, triệu tập đại sứ CSVN là Đinh Hoàng Thắng đến Bộ Ngoại giao để phản đối.


Cắt viện trợ phát triển và nhân đạo cho VN.


Trong năm 2000, có 8 phái đoàn CSVN đến thăm Hòa Lan. Đã bị tiếp đón lạnh nhạt và bị chất vấn tơi bời về vụ án TVB. Các phái đoàn của Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An (QH), Phan Văn Khải, Nguyễn Dy Niên (NG), Nguyễn Đình Bin… đều bị chất vấn và chống đối. Báo chí nổi giận gọi họ là “Những khách không mời mà đến”. Tệ hại hơn nữa, công khai loan tin họ là “Những con vẹt chỉ biết nói mà không biết nghe”. Trong khi đó, báo chí VN cho rằng các chuyến công du thành công mỹ mãn.


Bà Margareeth de Boer, Chủ tịch Ủy Ban Ngoại giao Hạ viện HL dẫn đầu một phái đoàn sang VN, trực tiếp gặp Bộ trưởng NG Nguyễn Dy Niên. Bà Boer nhấn mạnh “Vì quyền lợi của hai nước, vụ án TVB phải được giải quyết tức khắc”.

Kết quả. Hoà Lan chỉ nhận được một công hàm của Bộ Ngoại giao CSVN, thông báo với nội dung là “Bắt đúng người, xử đúng tội, áp dụng đúng luật pháp”.

Thật là hết ý kiến.

Sự khác biệt về quan điểm giữa VN và Hoà Lan đưa đến bế tắc.

CSVN cho rằng, TVB là công dân VN. Vụ án là việc nội bộ của VN, và Hòa Lan đã xen vào công việc nội bộ của VN.

Trái lại, Hoà Lan coi vụ án là một vi phạm vào Hiệp ước Thương mại mà hai nước đã ký năm 1994. Trong đó bao gồm những khoản cho phép thân nhân trong nước được tham gia kinh doanh dưới hình thức là những công ty con, còn gọi là “đầu tư đội nón”.

Ngày 4-11-2001, tại Đại hội Đảng bộ Vũng Tàu, Trung Ương Đảng cho rằng vụ Trịnh Vĩnh Bình là một vụ xử sai lầm, làm giảm sút niềm tin của nhân dân, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài, vì thế cấp trên thi hành kỷ luật đảng bộ Vũng Tàu. *(Đây là bằng chứng mà TVB nắm lấy)

Ở Hoà Lan, một luận án tiến sĩ đệ nạp tại Đại học Luật Khoa Den Haag, trình bày rõ ràng trường hợp đầu tư của TVB, dựa theo Hiệp Ước Thương mại giữa hai nước VN và HL ký kết năm 1994. Luận án được in thành sách với 3 thứ tiếng, Hoà Lan, Anh và Pháp. Một bản tiếng Việt được phát hành sau đó.

Luận án nêu rõ luật rừng ở VN, sự lộng hành của Công an VN, phép vua thua lệ làng, cuối cùng đưa người đầu tư đến tù tội và bị tịch thu tài sản.

8* Thế giới lên án Cộng Sản Việt Nam

Vụ án TVB gây sôi nổi khắp thế giới.

Ngày 28-3-2005, nghị sĩ Jules Maaten, Quốc Hội Liên Âu (EU), từ Brussels cho biết, vụ án TVB đã gây hoang mang trong giới đầu tư ở châu Âu. Vụ án là một tác động tiêu cực đến quan hệ giữa EU và VN.

Tháng 6 năm 2005, khi Phan Văn Khải sang thăm Hoa Kỳ, kêu gọi ngoại quốc và người Việt đầu tư vào VN, thì các cơ quan truyền thông đồng loạt loan tin về CSVN âm mưu chiếm đoạt tài sản của công dân Hòa Lan Trịnh Vĩnh Bình. Đài RFA (Mỹ), đài RFI (Pháp), đài BBC (Anh) đều phổ biến bài phỏng vấn ông TVB về trường hợp nạp đơn kiện CSVN tại Toà Án QT đòi bồi thường 100 triệu đô la.

Tờ báo Ngày Nay đăng một loạt tài liệu mà nhà báo Trọng Kim đã thu thập trong thời gian 10 năm về âm mưu của CSVN trong việc cướp đoạt tài sản TVB.

Dư luận nhận thấy đầu tư vào VN là một việc bấp bênh do cái thành tích lật lọng, tráo trở của CSVN. Đồng thời nhắc lại những vụ án trước kia để làm bằng chứng. Đó là vụ án của Luật sư người Ý Manizio Liberato, kiện sự lật lọng của VNAirlines và phán quyết của Toà án châu Âu, buộc phía VN phải bồi thường 6.5 triệu đô la cho nguyên cáo. CSVN không chịu bồi thường, tưởng đâu không có ai dám vào VN đòi tiền. Tức thời, toà án ra phán quyết phong toả tất cả những chương mục của VN Airlines trên toàn châu Âu, và nếu VN không bồi thường, thì một án lịnh cho một ngân hàng xuất tiền ra bồi thường cho nguyên cáo Manizio Liberato. CSVN chịu thua. Vừa nhục vừa đau hơn bị bò đá vào dế.


9* Trịnh Vĩnh Bình vô tội

Ngày 4-12-1996, một người bà con của TVB là Trịnh Hiền Thanh vu cáo TVB đưa hối lộ, khiến cho TVB bị bắt giam. Việc vu cáo nằm trong âm mưu của công an BR-VT.

Đến ngày 24-6-2002, Trịnh Hiền Thanh thú nhận bằng văn bản là y đã vu cáo cho TVB. Thanh chết vài năm sau đó do bịnh tiểu đường.

Bút phê của Phan Văn Khải cũng là một bằng chứng cụ thể TVB không có tội. Qua lời phát biểu của bà Nguyễn Thị Bình, Phó Chủ tịch nước, tại QH và qua Trung Ương đảng tuyên bố thi hành kỷ luật đảng bộ Vủng Tàu và qua lời xác nhận của Ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên với các quan chức Hoà Lan, là vụ án có nhiều sai trái. Tất cả đều chứng tỏ TVB vô tội. Đó là những bằng chứng mà TVB sẽ xử dụng tại Tòa án QT, để chứng minh rằng mình vô tội, và đòi bồi thường 100 triệu USD.


10* Vụ án kinh tế biến thành vụ án chính trị

Phòng cảnh sát điều tra PA-42 do trung tá Ngô Chí Đan làm trưởng phòng, đã nhận hối lộ và cũng thừa cơ hội đó, thực hiện âm mưu cướp tài sản của TVB. Thế lực của Ngô Chí Đan rất mạnh, và có ô dù ở trên bao che, cho nên thường tống tiền các doanh nhân, cụ thể là trong vụ án Phương Vicarrent, đã tống tiền 100,000 đô la . Ngô Chí Đan bị cách chức, tước danh hiệu Công an nhân dân.

Trung tá Ngô Chí Đan và anh vợ là Phạm Văn Phương đã trở thành 2 “ông trùm” ở địa phương. Vì TVB không biết luật giang hồ ở BR-VT, đã không “thần phục”, không làm lễ ra mắt ông trùm, không “cống nạp”, cho nên đã trở thành nạn nhân, bị tù và tịch thu tài sản.

Trong xã hội VN, làm ăn lương thiện thì bị nạn là thế. Cũng đừng ỷ lại vào việc cống nạp cho cấp trên là đủ. Phải nhớ qui luật, phép vua thua lệ làng mới tồn tại an toàn được.

Trung tá Ngô Chí Đan là đàn em của Thứ trưởng CA Nguyễn Khánh Toàn, ngoài ra, từ Tổng bí thư đảng cho đến những chức vụ lãnh đạo, Ngô Chí Đan quen lớn trên vài chục người.

Một bí mật ít người biết đến là, khi một Việt kiều về nước đầu tư, làm ăn, đều bị bí mật giám sát chặt chẽ của an ninh CS.

Ban đầu chỉ là một vụ có mục đích tống tiền, xét công ty và nhà để lấy vàng và tiền mặt, nhưng vì áp lực bên trên khá mạnh, cho nên vụ án kinh tế đã biến thành vụ án chính trị.

Bắt đầu, TVB là một đảng viên của đảng Dân Chủ Tự Do của Hoà Lan, do đó, TVB bị ghép vào tội làm gián điệp. Những bằng chứng được ngụy tạo, kế hoạch được dàn dựng, khiến cho những người cho rằng TVB vô tội như Phan Văn Khải, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Dy Niên, Nguyễn Mạnh Cầm đều lạnh cẳng, thụt lùi, như con rùa đen rút cổ.

Những chứng cớ được ngụy tạo như việc TVB đã gặp Thủ tướng Phan Văn Khải và Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT Nguyễn Trọng Minh, để móc nối, lôi kéo, mua chuộc làm gián điệp. Thật sự, có việc gặp gỡ, đưa tiền, nhưng đó không phải là gián điệp, mà là một hình thức “bôi trơn” phong bì để làm ăn dễ dàng. Nhưng rất tiếc là TVB không biết bôi trơn ở địa phương, cho nên mới ra nông nổi như thế.

Bị nắm cái tẩy, cho nên Phan Văn Khải không dám tiếp tục can thiệp nữa. Trong vụ TVB, Nguyễn Trọng Minh bị mất chức Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT.


11* Kiện ra tòa án quốc tế

11.1. Trịnh Vĩnh Bình khởi kiện

Ngày 15-10-2003, vụ án bước sang giai đoạn mới, vượt ra khỏi phạm vi hai nước VN và HL, ông Trịnh Vĩnh Bình đã chính thức nhờ Tổ hợp Luật sư Covington Burling, có trụ sở ở Anh và Hoa Kỳ, đứng ra kiện nhà cầm quyền VN đòi bồi thường 100 triệu đô la Mỹ, trong khi số vốn đầu tư mang về VN khoảng 4 triệu.

Phụ trách vụ án, Tổ hợp Covington Burling có 1 luật sư đứng tòa, 3 luật sư lo hồ sơ, 2 thông dịch viên, 2 thư ký. Riêng TVB có một luật sư VN phụ trách liên lạc giữa TVB với Tổ hợp luật sư Mỹ. Ông TVB ký quỹ 150 ngàn USD cho tổ hợp luật sư.

Đầu tiên, luật sư Thomas Johnson, đại diện cho TVB gởi thơ cho Viện trưởng Viện Kiểm Sát ND Tối Cao VN là Hà Minh Trí, đề nghị dàn xếp giữa hai bên.

Nổ lực dàn xếp kéo dài gần 2 năm không có kết quả.

Tháng 5 năm 2004, TVB chính thức nạp đơn lên Toà Án Quốc Tế thuộc Liên Hiệp Quốc. Toà án thụ lý và sẽ mở phiên tòa xét xử tại Stockholm, Thủ đô Thụy Điển vào cuối năm 2005. Tòa nầy gồm 3 thẩm phán, một người Thụy Điển, một người gốc Mỹ và một gốc Pháp.

Phía CSVN, cũng đã ký quỹ 150 ngàn USD để nhờ Tổ hợp luật sư Pháp Glide Loyrette Rouel, có văn phòng tại Hà Nội. Việc nầy chứng tỏ CSVN chấp nhận việc bồi thường 100 triệu USD cho TVB, nếu bị thua kiện.

Toà Án QT thông báo sẽ mở ra xét xử từ ngày 4-12-2005 đến 12-12-2005.

Ba tuần lễ trước phiên xử, Tổ hợp luật sư Mỹ thấy chắc ăn, cho nên tăng số tiền đòi bồi thường lên thành 150 triệu USD. Viện dẫn lý do là dựa theo giá mới.



11.2. Việt Nam bắt buộc phải tham dự phiên toà

CSVN là bị cáo, nếu không tham dự phiên toà thì bị mất quyền tự bào chữa. Nếu vắng mặt thì bị xử khiếm diện và buộc phải tuân theo phán quyết của toà án.

Do kinh nghiệm lần trước, vụ một luật sư người Ý, ông Manizio Liberato kiện hãng hàng không VNAirlines, phía VN thua kiện mà không chịu bồi thường, tưởng rằng không có ai dám vào VN đòi tiền, cho nên tất cả các chương mục của VNAirlines ở các ngân hàng châu Âu bị phong toả để trả tiền bồi thường.


11.3. Toà Án Quốc Tế tạm hoãn.

Đáng lẽ Toà mở phiên xử từ ngày 4-12-2005 đến 12-12-2005, nhưng Toà tuyên bố tạm hoãn, vì lý do hai bên thỏa thuận dàn xếp bên ngoài Tòa. Xem như bãi nại.

Sau đó hai bên đã ký một thỏa thuận về cam kết tại tòa án Singapore năm 2006.


12* Thế mạnh của Trịnh Vĩnh Bình

12.1. Đúng thời cơ

Đó là cuối năm 2006, VN có thể được gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới (World Trade Organization=WTO) là cơ hội để được tham gia vào sinh hoạt của nền Kinh tế Thị trường tự do của chế độ tư bản. Vì kinh tế quốc doanh XHCN của Cộng Sản không ai thèm giao dịch và bị tư bản chèn ép về tội bán phá giá. Từ đó, VN sẽ có điều kiện dễ dàng ký những Hiệp ước thương mại với các quốc gia khác, mà VN rất muốn, gọi là mở cửa, hội nhập.

VN rất cần có nguồn vốn, cho nên kêu gọi ngoại quốc đầu tư do đó phải bỏ bớt thói quen ngang tàng côn đồ cố hữu. Đành phải chịu nhượng bộ, đó là thời cơ thuận lợi cho vụ án của TVB.


12.2. Trịnh Vĩnh Bình vô tội

Chính những văn bản và tài liệu chính thức của các quan chức VN đã xác nhận TVB vô tội. Cụ thể là bút phê của Thủ tướng Khải. Chính Ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên thừa nhận với quan chức Hòa Lan “Có sự sai sót trong vụ án TVB và hứa sẽ yêu cầu các cơ quan chức năng điều tra lại”.

CSVN muốn dàn xếp bên ngoài Toà án, vì ở đó, số tiền bồi thường có thể được giữ bí mật. Hơn nữa, nếu bị xử có tội và bị phạt bồi thường thì mất mặt quá. VN muốn còn chút đỉnh thể diện để mạnh dạn kêu gọi hùn hạp làm ăn. Nếu bản án được loan truyền khắp thế giới thì còn mặt mũi gì nữa.

Ông Trịnh Vĩnh Bình đã giữ cam kết với nhà cầm quyền VN là không tiết lộ số tiền mà VN bồi thường.

Cam kết làm tại tòa án Singapore, nhưng suốt 7 năm mà VN không thực hiện nên nội vụ được đưa ra tòa án Quốc tế Paris, mở ra ngày 21-8-2017 nầy.



13* Kết luận

Trong vụ án Trịnh Vĩnh Bình, Thủ tướng Phan Văn Khải, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương ra lịnh mà công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu không thi hành cho nên Việt Nam phải vác chiếu ra tòa án quốc tế, phải bồi thường 15 triệu đô la và cam kết trả lại toàn bộ tài sản cho ông Trịnh Vĩnh Bình.

“Việt kiều yêu nước” nghe lời dụ dỗ mang tiền về nước làm ăn, nếu thành công rực rỡ như ông Trịnh Vĩnh Bình thì dễ trở thành nạn nhân của công an, bị cướp đoạt tài sản nếu không lo hối lộ cho công an địa phương.

Mất tất cả tài sản mà suýt bị toi mạng vì âm mưu độc hiểm của Tổng Cục 2, an ninh Bộ Quốc Phòng, nếu không nhờ có “quới nhân” giúp đỡ để ông Bình trốn về nước.

Bị một cú đầu mà chưa tởn, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ trước sự nham hiểm lật lọng của CSVN trong nội dung bản cam kết tại tòa Singapore.

Phiên tòa thứ nhất tại Stockholm, Trịnh Vĩnh Bình chiếm thế thượng phong, nhưng ở phiên tòa đã mở ra ngày 21-8-2017 nầy ở Paris, thì ông Bình ở tình trạng 5 ăn, 5 thua. (50%).

Ai thắng hay thua gì không biết, nhưng chắc chắn là phải tốn một số tiền không nhỏ cho luật sư hai bên.

Quý vị “Việt kiều yêu nước” đã có một thời được tiếp đón nồng hậu, có xe còi hụ dẫn đường. Nhưng khi Nghị Quyết 36 thành công thì quý vị yêu chế độ Cộng Sản nầy gặp phải tình trạng đúng như câu nói: “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh” nghĩa là khi con thỏ khôn đã chết thì chó săn bị mổ làm thịt.

Trúc Giang

Minnesota ngày 23-8-2017

Thứ Tư, 23 tháng 8, 2017

Một số điều cần trao đổi nhân vụ Trịnh Xuân Thanh



Hoàng Xuân Phú

Cái tên Trịnh Xuân Thanh (TXT) sẽ đi vào lịch sử. Song không phải vì tội "cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng", hay vì tội tham nhũng. Dù đã gây ra những hậu quả rất tệ hại, nhưng trong hàng ngũ các đồng chí thi đua phá phách - vơ vét, thì tầm vóc của Thanh vẫn còn khá khiêm tốn. So với các đại ca thì Thanh mới như "trẻ nhỏ đua đòi". Còn so với mấy bố già thì Thanh càng chưa thể sánh ngang vai trên con đường hại dân hại nước. Bởi thế, khi các đại ca và bố già vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, thậm chí còn vắt vẻo trên đỉnh cao quyền lực, thì chắc Thanh cũng khó cam lòng "đầu thú".



Thiên hạ sẽ dùng tên TXT để đề cập một diễn biến hiếm có trong lịch sử ngoại giao, mà đọng lại là hình hài đích thực của kiểu pháp quyền sản xuất tại Việt Nam. Vốn dĩ, thi hành công vụ kiểu giang hồ là chuyện thường ngày ở xứ "dân chủ vạn lần tư bản". Song lần này đặc sản "luật rừng" được xuất khẩu sang khối Cộng đồng chung Châu Âu, và công diễn giữa trung tâm Thủ đô Berlin của Cộng hòa Liên bang Đức.



Sau mười ngày điều tra và cân nhắc thận trọng, ngày 2/8/2017 Bộ Ngoại giao CHLB Đức đã ra thông cáo báo chí, trong đó khẳng định:

"Việc bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh trên lãnh thổ Đức là sự vi phạm trắng trợn chưa từng có đối với luật pháp Đức và luật pháp quốc tế."

"Chính phủ Liên bang Đức đòi hỏi, rằng ông Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức, để cả đề nghị dẫn độ và đơn xin tỵ nạn đều có thể được xem xét đến cùng đúng theo trình tự pháp lý."



Chiều hôm sau, ngày 3/8/2017, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói:

"Liên quan đến phát biểu của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Đức xung quanh vụ việc Trịnh Xuân Thanh, tôi lấy làm tiếc về phát biểu ngày mùng 2 tháng 8 của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Đức."

Vâng, "tiếc" về "phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Đức". Như thể phật ý, vì phát biểu của phía Đức có điều gì sai trái, hay không hợp lý. Khi phóng viên nước ngoài hỏi "Việt Nam có xác nhận lời cáo buộc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh không", thì bà Hằng trích dẫn:

"Theo thông báo ngày 31 tháng 7 của Bộ Công an Việt Nam thì ông Trịnh Xuân Thanh đã ra trình diện và đầu thú."



Vậy là nhà cầm quyền Hà Nội không trực tiếp bác bỏ cáo buộc bắt cóc TXT của phía Đức (vì "ra trình diện và đầu thú" không có nghĩa là trước đấy không bị bắt cóc). Song cũng không công khai thừa nhận và chẳng có hồi đáp chính thức về cáo buộc của phía Đức. Có lẽ vì thế, Bộ trưởng Ngoại giao Đức Sigmar Gabriel đã phải nhấn mạnh (trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Stuttgarter Nachrichten ngày 6/8/2017):

"Hành vi của mật vụ Việt Nam trên lãnh thổ Đức là hoàn toàn không chấp nhận được. Tôi muốn nói hết sức rõ ràng rằng: Chúng tôi không bao giờ chấp nhận trò ấy, và cũng sẽ chẳng để yên việc ấy."



Trong khi nhà cầm quyền Hà Nội làm thinh, thì dư luận người Việt trên thế giới ảo cực kỳ sôi động. Người thì phê phán chính quyền Hà Nội, người lại tỏ ra đồng tình. Số đồng tình dựa trên niềm tin chân chất, rằng việc bắt cóc TXT (nếu có) là cần thiết cho nỗ lực chống tham nhũng. Và rằng động cơ của thế lực ra lệnh bắt cóc TXT chỉ đơn thuần là nghiêm trị kẻ tham nhũng. Còn tính hợp pháp của hành vi bắt cóc ư? "Mục đích biện minh cho phương tiện." Vả lại, "thế giới" cũng làm thế cả. Có điều, khi xòe tay điểm danh để chứng minh hùng hồn, rằng việc chính quyền một nước tổ chức bắt cóc ở nước ngoài vì mục đích tử tế là thông lệ quốc tế, thì chỉ duỗi được vài ngón. Còn ngón tiếp theo thì tần ngần, chẳng biết chỉ về đâu. Thử hỏi, bắt cóc kiểu ấy là hành xử bất thường của vài siêu cường, mà cộng đồng đành phải cắn răng chịu đựng? Hay của nhà nước đại diện cho dân tộc đã từng bị vùi dập trước sự làm ngơ của các cường quốc, tới mức hậu thế vẫn còn cảm thấy mắc nợ? Hay của mấy nhà cầm quyền mà thế giới văn minh phỉ nhổ?



Điều đáng bàn là có "một bộ phận không nhỏ" chỉ trích mạnh mẽ phản ứng của phía Đức. Họ cho rằng phía Việt Nam hành động như vậy là đúng, nên phía Đức phát ngôn như vậy là sai. Thậm chí cho rằng "Đức... dung dưỡng cho một tên tội phạm như Trịnh Xuân Thanh", và lên án "thói đạo đức giả của nhà cầm quyền Berlin". Những chỉ trích nặng nề kiểu ấy không chỉ được đăng trên các trang cá nhân, mà trên cả báo quốc doanh, chẳng hạn bài "Vụ Trịnh Xuân Thanh về nước đầu thú: Bộ Ngoại giao Đức hồ đồ hay mua phiếu?" – đăng ngày 18/08/2017 trên Tuần báo Văn nghệ của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.



Thật khó dung hòa giữa tư duy pháp quyền "vùng sâu vùng xa" với tư duy pháp quyền kiểu Đức. Vốn cả đời chung sống với luật rừng và tiếp xúc với lối hành xử giang hồ của quan chức bản địa, nên tưởng rằng như vậy mới hợp lẽ tự nhiên. Thành thử khó chấp nhận lối tư duy pháp lý xa lạ, máy móc của "bọn Tây". Cũng giống như trai bản, quen đi rừng phạt cây mà tiến, nay lạc vào đô thành thì khó chịu với đèn đỏ đèn vàng, bởi cho rằng chúng cản trở giao thông.



Nếu những ý kiến ấy chỉ thể hiện tư duy quần chúng, thì phải tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của họ. Nhưng trong số đó có cả ý kiến từ giới luật sư. Với những lập luận pháp lý tưởng chừng rất vững chắc, nhưng tiếc rằng lại sai. Vì vậy, tôi viết bài này để trao đổi, với hy vọng làm rõ hơn một số cơ sở pháp lý của vụ việc, để từ đó mà hiểu đúng và có cách ứng xử hợp lý.



Nội dung tiếp theo được chia thành 5 phần.



Phần I, với tiêu đề "Hạn chế quyền lực trong nhà nước pháp quyền", trình bày 3 vụ việc đặc biệt đã từng diễn ra ở CHLB Đức. Nhằm minh họa về sự hạn chế quyền lực đối với cơ quan đứng đầu nhà nước (I.1. Vụ cấm NPD hoạt động), đối với người thi hành công vụ (I.2. Vụ án Daschner), và khó khăn gặp phải trong việc dẫn độ (I.3. Vụ án Haikel S.) tại một nhà nước pháp quyền đích thực. Qua đó, có thể thấy ở Đức, không phải các cơ quan nhà nước (dù ở cấp cao nhất) muốn làm gì cũng được, mà phải nghiêm ngặt tuân theo những quy định của pháp luật. Từ đấy có thể hiểu và thông cảm với cách xử sự thận trọng của phía Đức đối với yêu cầu dẫn độ TXT. Hơn nữa, để đạt được hiệu ứng tâm lý, sẽ được viết trong phần I.4.



Phần II, với tiêu đề "Dẫn độ đâu dễ", trình bày 4 điều kiện luật định của Liên bang Đức cho việc dẫn độ. Đó là điều kiện tương thích về tội danh (II.1), điều kiện không được kết án tử hình (II.2), điều kiện về xét xử công bằng (II.3), và cấm dẫn độ đối với hành vi liên quan tới chính trị (II.4). Phân tích sẽ chỉ ra ràng buộc pháp luật khiến phía Đức rất khó chấp nhận dẫn độ TXT.



Phần III, với tiêu đề "Xử sự trong hoàn cảnh khó xử", trình bày một số trao đổi về cách xử sự phù hợp với hoàn cảnh khó khăn và một số đánh giá về cách ứng xử đã diễn ra trên thực tế.



Phần IV, với tiêu đề "Cách nào chữa cháy", thảo luận về 4 phương án có thể áp dụng để giải quyết khủng hoảng hiện nay. Đó là "phương án kiên định nói thật" (IV.1), "phương án kiên định nói dối" (IV.2), "phương án thành khẩn hối lỗi" (IV.3), và "phương án cùng thắng" (IV.4).



Phần V, với tiêu đề "Mấy điều cần chốt lại", viết mấy ý vắn tắt về quan điểm chống tham nhũng (V.1), đánh giá về vụ TXT (V.2), và mấy lời nhắn nhủ tới dư luận (V.3).



Bài viết này được trình bày theo phong cách của một công trình nghiên cứu. Nên chỉ phù hợp với những người có thể đầu tư thời gian đọc kỹ và nghiền ngẫm, để hiểu các thông điệp muốn gửi gắm. Nó nặng về lý luận, nên khô khan, không phù hợp với nhu cầu giải trí, hay chia sẻ cảm xúc. Bài viết không điểm lại diễn biến của sự kiện, cũng không trình bày lại các kết quả điều tra. Và không chỉ đóng khung trong vụ TXT. Chính vì vậy mới chọn tiêu đề "Một số điều cần trao đổi nhân vụ Trịnh Xuân Thanh", chứ không phải "... về vụ Trịnh Xuân Thanh".





I. Hạn chế quyền lực trong nhà nước pháp quyền



I.1. Vụ cấm NPD hoạt động



NPD (Nationaldemokratische Partei Deutschlands, Đảng Dân chủ Quốc gia Đức) là một đảng cực hữu, dân tộc cực đoan, được thành lập năm 1964. Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học chính trị, của nhiều sử gia và của Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức, thì NPD gần gũi với NSDAP (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Quốc gia Đức, thường được gọi tắt là Đảng Quốc Xã, hay Đảng Nazi).



Ngày 30/1/2001, Chính phủ Liên bang Đức (Bundesregierung) đã kiến nghị Tòa án Hiến pháp Liên bang (Bundesverfassungsgericht) cấm NPD hoạt động. Ngày 30/3/2001 Quốc hội (Bundestag) và Hội đồng Liên bang Đức (Bundesrat) cũng kiến nghị như vậy một cách độc lập. Nhưng kiến nghị này đã vấp phải bê bối đặc tình (V-Mann-Skandal), vì chứng cứ mà các bên kiến nghị sử dụng, để chứng minh tính vi hiến của NPD, chủ yếu dựa trên thông tin của các đặc tình, do Cơ quan Bảo vệ Hiến pháp cài trong bộ máy NPD. Tháng 10/2002, Tòa án Hiến pháp Liên bang tiến hành phỏng vấn để xác định tầm ảnh hưởng của các đặc tình, nhưng bên đưa kiến nghị từ chối cung cấp danh tính của các đặc tình, với lý do bảo vệ nguồn tin. Vì vậy, 3 (trong số 7) thẩm phán tham gia xét xử cho rằng có yếu tố cản trở xét xử (Verfahrenshindernis), và sử dụng quyền phủ quyết để chấm dứt việc xem xét. Lập luận của họ là "thiếu khoảng cách với nhà nước" (fehlende Staatsferne). Thuật ngữ này chỉ việc chính các đặc tình của Cơ quan Bảo vệ Hiến pháp (tức của nhà nước) đã nhúng tay vào việc tạo ra hình ảnh vi hiến của NPD. 4 thẩm phán còn lại muốn đến khi xét xử chính thức mới xác định tầm ảnh hưởng của các đặc tình đối với nghi vấn vi hiến của NPD. Tuy đó là ý kiến của đa số, nhưng vẫn chưa đủ, vì theo Điều 15 Khoản 4 của Luật Tòa án Hiến pháp Liên bang, thì phải cần đa số 2/3 cho biểu quyết ấy. Vì vậy, ngày 18/3/2003, Tòa án Hiến pháp Liên bang đã thông báo không tiếp tục xem xét vụ kiến nghị cấm NPD hoạt động.



Tháng 12/2012, sau khi các Bộ trưởng Nội vụ của tất cả các Bang biểu quyết nhất trí, Hội đồng Liên Bang lại kiến nghị Tòa án Hiến pháp Liên bang cấm NPD hoạt động. Ngày 17/1/2017, Tòa án Hiến pháp Liên bang ra phán quyết, trong đó xác định NPD là vi hiến, có bản chất gần với Chủ nghĩa Xã hội Dân tộc (Chủ nghĩa Quốc Xã, Nationalsozialismus). Tuy nhiên, Tòa cho rằng đảng này không có khả năng đe dọa thực sự nền dân chủ. Chánh án nói: "Hiện nay còn thiếu chứng cứ cụ thể có trọng lượng, có thể cho thấy, hoạt động của nó có thể dẫn đến thành công." Vì vậy, Tòa án Hiến pháp Liên bang không cấm NPD hoạt động.



Ví dụ về thất bại trong việc kiến nghị cấm NPD hoạt động cho thấy: Quốc hội, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang Đức cũng đành bất lực trước quyết định của Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức.



I.2. Vụ án Daschner



Đó là vụ án hình sự xử nghi án "xúi dục cấp dưới phạm tội hình sự" (Verleitung eines Untergebenen zu einer Straftat, Điều 357 Bộ luật Hình sự Đức) đối với ông Wolfgang Daschner, và "cưỡng bức" (Nötigung, Điều 240 Bộ luật Hình sự Đức) đối với ông Ortwin Ennigkeit. Xuất phát điểm là vụ bắt cóc và giết hại Jakob von Metzler (11 tuổi) vào năm 2002, mà thủ phạm là Magnus Gäfgen.



Khi bị bắt, Magnus Gäfgen thừa nhận đã bắt cóc, nhưng lại không chịu khai ra nơi dấu Jakob von Metzler. Lo lắng cho mạng sống của nạn nhân, Wolfgang Daschner (Phó Giám đốc Cảnh sát Thành phố Frankfurt am Main) đã quyết định, thông qua sĩ quan cảnh sát dưới quyền là Ortwin Ennigkeit, để dọa thủ phạm, rằng sẽ tiến hành cưỡng bức. Theo tố cáo của Gäfgen, hắn đã bị đe dọa, rằng sẽ phải chịu đau đớn chưa từng nếm trải; rằng một chuyên gia cảnh sát về món đòn ấy đang trên trực thăng, bay đến đây để ra tay thực hiện; và rằng sẽ nhốt hắn chung với hai gã da đen có nhu cầu sinh lý... Ennigkeit khẳng định không hề dùng chuyện "chuyên gia tra tấn" và "hai gã da đen" để đe dọa, mà chỉ cố gắng thuyết phục thủ phạm.



Việc đe dọa (nếu có) đã không đem lại kết quả như mong muốn. Sau khi Gäfgen khai ra chỗ dấu nạn nhân, cảnh sát đến nơi thì chỉ tìm được thi thể của cậu bé, đã bị thủ phạm giết chết từ trước. Gäfgen đã bị kết án tù chung thân. Tuy nhiên, khi đã yên vị trong tù, hắn đã khởi kiện hai vị công chức. Phía công tố đề nghị phạt cảnh cáo, phạt tiền. Phía luật sư bào chữa đề nghị trắng án.



Ngày 20/12/2004, Tòa án Frankfurt am Main tuyên bố có tội và tuyên phạt Wolfgang Daschner 10.800 Euro (90 ngày ở mức 120 Euro/ngày) và Ortwin Ennigkeit 3.600 Euro (60 ngày ở mức 60 Euro/ngày), nhưng chỉ phải trả nếu sẽ phạm tội trong vòng một năm.Mức án trên được đánh giá là nhẹ, vì Bộ luật Hình sự Đức quy định tối thiểu 6 tháng tù giam cho loại tội này.



Cơ sở hiến định của bản án được quy định tại Chương I, Điều 1, Khoản 1 của Luật Cơ bản (Hiến pháp Đức):

"Phẩm giá con người là bất khả xâm phạm. Tôn trọng và bảo vệ nó là nhiệm vụ của mọi quyền lực nhà nước."

Hiến pháp 2013 của CHXHCN Việt Nam cũng có quy định tương ứng tại Điều 20 Khoản 1:

"Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác, xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm."



Cơ sở pháp lý quốc tế là quy ước "tuyệt đối cấm tra tấn" (absolute prohibition of torture), được quy định tại Điều 2 của Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc:

"1. Mỗi quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp, hay các biện pháp hiệu quả khác để ngăn chặn các hành vi tra tấn trên bất cứ khu vực lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình.

2. Không có bất kỳ hoàn cảnh ngoại lệ nào, cho dù là trong tình trạng chiến tranh, hoặc đang bị đe doạ bởi chiến tranh, mất ổn định chính trị trong nước, hoặc bất kỳ tình trạng khẩn cấp nào có thể được viện dẫn để biện minh cho việc tra tấn.

3. Mệnh lệnh của quan chức hay của cơ quan có thẩm quyền cấp trên không thể được viện dẫn để biện minh cho việc tra tấn."



CHLB Đức đã ký Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc vào ngày 13/10/1986 và phê chuẩn vào ngày 1/10/1990. Việt Nam cũng đã ký Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc vào ngày 7/11/2013 và phê chuẩn vào ngày 5/2/2015.



Cơ sở hiến định thì khá giống nhau. Cơ sở pháp lý quốc tế thì cùng chung. Vậy tại sao khoảng cách thực thi của hai quốc gia lại lớn như giữa thiên đường và địa ngục? Cái khoảng cách siêu vũ trụ ấy hình thành do một sự khác nhau "nho nhỏ": CHLB Đức đã ký và phê chuẩn thì thực hiện nghiêm chỉnh. Còn CHXHCN Việt Nam thì có ký và phê chuẩn cũng bằng không. Phải chăng chỉ để phục vụ "công tác" đối ngoại? Hay còn phải đợi Chính phủ ban hành nghị định, rồi lại đợi tiếp bộ nào đó ban hành thông tư hướng dẫn, sau đấy mới được phép thi hành?



Đưa vụ án Daschner vào bài viết này để thấy được, cái quan niệm về cách cư xử chuẩn mực đối với người bị bắt, với bị can, bị cáo và tù nhân trên đất Việt khác rất xa so với ở xứ người. Nên cũng đừng đòi người ta phải mặc nhiên thừa nhận những điều mình nghĩ, mình làm. Hơn nữa, nhận thức được tầm hạn chế tư duy của bản thân, để mà điều chỉnh dần, nếu muốn hòa nhập với thế giới văn minh.



Cũng để những ai mang danh thi hành công vụ của Nhà nước CHXHCN Việt Nam nghiêm túc xem lại cách hành xử bấy lâu nay của bản thân và đồng đội.



Và để dân lành đất Việt chạnh lòng bừng tỉnh nhìn nhau: Chúng ta có nên tiếp tục nhẫn nhịn nữa hay không?



I.3. Vụ án Haikel S.



Haikel S. là một tên khủng bố người Tunisia thuộc dòng IS (Nhà nước Hồi giáo). Dưới một cái tên giả, hắn đến Đức và xin tị nạn vào năm 2015. Năm sau, người ta mới phát hiện ra hắn đã từng sống ở Đức trong thời gian 2003 - 2013, đã có tiền án và bị truy nã từ năm 2008. Do bị cáo buộc tham gia tổ chức tấn công Bảo tàng Quốc gia ở Thủ đô Tunis của Tunisia vào ngày 18/3/2015 (giết chết 19 khách du lịch nước ngoài, một cảnh sát và một người dân Tunisia, đồng thời làm bị thương hơn 50 người khác), tháng 9/2016 hắn bị phía Đức tạm giam để chờ dẫn độ, theo đề nghị truy nã của phía Tunisia. Nhưng rồi lại được thả ra, vì phía Tunisia chưa chuyển cho phía Đức lệnh truy nã. Trong khuôn khổ một chiến dịch truy quét với sự tham gia của 1.100 cảnh sát, hắn lại bị bắt vào ngày 1/2/2017, với nghi án chuẩn bị một số cuộc tấn công ở Đức, dưới danh nghĩa ủng hộ tổ chức khủng bố IS và cầm đầu một mạng lưới Hồi giáo cực đoan.



Với một đối tượng quá nguy hiểm như vậy, thì đương nhiên không chỉ giới cầm quyền Đức, mà cả người dân Đức cũng chẳng muốn cưu mang, chứa chấp. Nên đề nghị dẫn độ của phía Tunisia như một cơ hội Trời cho, tất nhiên phải cố mà tận dụng. Tháng 4/2017 Tòa án Hành chính phán quyết được phép dẫn độ hắn về Tunisia, nếu Chính phủ Tunisia đảm bảo hắn sẽ không bị xử tử hình. Vậy là hắn được đưa lên máy bay vào ngày 22/3/2017 để dẫn độ về Tunisia. Nhưng trước khi máy bay cất cánh, hắn lại được đưa ra khỏi máy bay. Lý do ư? Vì hắn mới nộp đơn xin tị nạn (lần thứ hai), do nguy cơ bị tra tấn và lĩnh án tử hình ở Tunisia. Và luật sư của hắn có kiến nghị khẩn, đề nghị tòa án dừng việc dẫn độ. Do đơn xin tị nạn của hắn chưa xử lý xong, nên việc dẫn độ đã bị dừng lại. Sau đó, Tòa án Hành chính Frankfurt am Main đã ra phán quyết: Không được dẫn độ hắn về Tunisia, với lý do phía Tunisia đã không đưa ra cam kết sẽ không xử tử hình hắn.



Phán quyết ấy đã khiến nhiều người Đức bất bình và thất vọng, nhưng không thể bác bỏ cơ sở pháp lý mà thẩm phán đã viện dẫn. Vào lúc mà TXT đã "về đầu thú" ở Hà Nội, chính quyền Bang Hessen vẫn quyết tâm trục xuất Haikel S. Bộ Nội vụ Bang Hessen định dựa trên Điều 58a của Luật Cư trú, cho phép trục xuất người nước ngoài "nhằm phòng trừ nguy cơ đặc biệt đối với an ninh của CHLB Đức hay nguy cơ khủng bố", mà không cần báo trước. Liệu họ sẽ được toại nguyện hay không? Chưa chắc.



Đây là một ví dụ, cho thấy không phải chính quyền Đức muốn làm việc gì cũng được, kể cả những việc rất chính đáng và cần thiết. Trong một nhà nước pháp quyền đích thực như CHLB Đức, thì chính quyền cũng không thể lấn át tòa án, còn tòa án thì chỉ dựa vào luật pháp để ra phán quyết mà thôi.



I.4. Thêm lời chú thích



Có lẽ 3 ví dụ nêu trên khá khó hiểu đối với nhiều người sinh sống ở Việt Nam. Nếu quả như vậy thì tốt, vì mục đích của phần I không phải để mọi người đọc đều hiểu, mà muốn để lại ấn tượng khó hiểu, mặc dù cũng mường tượng được, có lẽ họ có lý của họ. Để làm gì? Để đem lại cho bạn đọc trên đất Việt một cảm giác lạ lẫm, khi bước vào một thế giới pháp lý, mà mình khó tưởng tượng được. Để rồi hiểu ra, khoảng cách pháp quyền giữa xã hội Việt Nam và xã hội Đức không thể hoán đổi từ khoảng cách không gian (khoảng 8.500 km đường hàng không), mà phải dùng đại lượng thời gian (tính theo thập niên), thì mới mong ước đoán được độ chênh lệch giữa hai tầm văn minh pháp quyền. Hiểu thế để thận trọng hơn khi phê phán, phán xét người ta.



Hơn nữa, cái cảm giác "khó hiểu những điều có lẽ có lý" sẽ giúp ta nhận ra, mình phải cần mẫn học hỏi, dày công nghiên cứu, thì mới có thể tiếp cận phần nào kiến thức mênh mông. Rồi sử dụng Google mà tìm kiếm thông tin cần thiết trên Internet, để trả lời những câu hỏi nảy sinh. Chẳng hạn:

(1) Với tư cách ba cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Liên bang Đức, tại sao Quốc hội, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang Đức không tự mình ra quyết định cấm NPD hoạt động, mà lại phải kiến nghị điều đó với Tòa án Hiến pháp Liên bang, để rồi không được chấp nhận?

(2) Quốc hội có quyền sửa đổi hiến pháp theo ý mình, thì tại sao lại chịu khoanh tay, để Tòa án Hiến pháp Liên bang dựa trên hiến pháp hiện hành để bác bỏ cả kiến nghị của chính Quốc hội?

(3) Tại sao Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức lại không chấp nhận kiến nghị cấm NPD hoạt động (mặc dù bản thân Tòa án cũng xác định NPD là vi hiến, có bản chất gần với Chủ nghĩa Xã hội Dân tộc)?



Thôi, không đặt thêm câu hỏi nữa, cũng không đưa ra câu trả lời, kẻo lại tước mất niềm vui khám phá của mọi người, khi tự mình phát hiện ra vấn đề, đặt ra câu hỏi, và tự tìm ra câu trả lời. Để rồi dần dần ngộ ra những chân lý ẩn sâu nơi thăm thẳm.



Trong nhà nước pháp quyền thì tất thảy đều phải tuân theo hiến pháp. Nhưng hiến pháp phải xứng đáng là hiến pháp, quy định những nguyên tắc hợp lý và cơ chế tinh vi, để đảm bảo cho bộ máy xã hội vô cùng phức tạp có thể vận hành an toàn trong hầu hết mọi trường hợp. Muốn thế, bản hiến pháp ấy phải được viết ra bởi giới tinh hoa, những trí tuệ kiệt xuất, có đủ hiểu biết cần thiết và tầm nhìn xuyên thế kỷ, để hiến định không chỉ hiện tại mà cả tương lai trăm năm của đất nước (xem ví dụ minh họa ở Phụ lục P1). Chứ không phải được áp đặt bởi thế lực đương quyền. Cũng không phải được nhào nặn thêm bớt bởi những ông bà mới lõm bõm về kiến thức luật học và còn ngây ngô về tư duy quản lý nhà nước, vốn được chọn cho đủ màu để tô vẽ bức tranh dân chủ. Một bản hiến pháp cao siêu như vậy tất nhiên sẽ chứa đựng những điều khoản khiến nhiều người thấy khó hiểu, hoặc khó chấp nhận hệ quả thực tế của chúng.



Có một vấn đề cần được khẳng định trước khi kết thúc phần này, kẻo lại nảy sinh suy luận không đúng (từ phán quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức về việc không cấm NPD hoạt động), rằng bọn cực hữu có xu hướng phát xít, mà chính quyền Đức còn dung túng bao che, huống hồ loại tham nhũng như TXT. Không, không thể cho rằng Nhà nước Đức không tích cực chống phong trào cánh hữu cực đoan có xu hướng phát xít. Nếu không tích cực, thì họ đã không kiến nghị cấm NPD hoạt động đến hai lần.



Để bớt chút băn khoăn, có thể tham khảo ví dụ nhỏ sau đây. Ngày 5/8/2017, cảnh sát Đức đã bắt hai khách du lịch người Trung Quốc (36 và 49 tuổi) và phạt mỗi người 500 Euro (hơn 13 triệu đồng Việt Nam), do phạm vào tội được quy định tại Điều 86a Bộ luật Hình sự Đức: Sử dụng biểu tượng của các tổ chức vi hiến. Tại sao? Khi hai tiên sinh dùng điện thoại thông minh để chụp hình trước tòa nhà Reichstag (Nhà Quốc hội), họ đã cao hứng duỗi tay biểu diễn kiểu chào Hitler (Hitlergruß). Và đó là một hành vi vi phạm Điều 86a Bộ luật Hình sự Đức.





II. Dẫn độ đâu dễ



Bao tuyên bố mạnh mẽ được tung lên internet. Nhưng càng đọc thì càng thấy buồn về cách tư duy và phát ngôn dễ dãi. Chẳng chịu tìm hiểu, tra cứu cho đến nơi đến chốn, mà đã vội tùy tiện khẳng định như đinh đóng cột. Cứ như kị sĩ dũng mãnh giương cung, nhưng chẳng quan sát kỹ mục tiêu, nên mũi tên vút bay rồi lạc xa chân lý.



Có ý kiến cho rằng:

"Việt Nam và Đức đều là thành viên của Tổ chức Cảnh sát quốc tế (Interpol); Việt Nam đã ra lệnh truy nã toàn cầu TXT, tổ chức này đã đưa vào danh sách thì Cảnh sát Đức có trách nhiệm phối hợp với Cảnh sát quốc tế và Cảnh sát VN thực hiện lệnh truy nã đó."

Thật là đanh thép. Song có đúng như vậy không? Chuyện "Việt Nam đã ra lệnh truy nã toàn cầu TXT" thì báo chí đã viết. Nhưng "tổ chức này đã đưa vào danh sách" hay chưa? Nếu "đã đưa vào danh sách" thì "danh sách" nào? INTERPOL ban hành 8 loại Thông báo (Notices), trong đó chỉ có Thông báo Đỏ (Red Notice) là liên quan đến việc bắt giam người bị truy nã (to arrest of wanted persons). Ngày 17/11/2016, Thượng tướng Lê Quý Vương (Thứ trưởng Bộ Công an) tuyên bố: Ban thư ký của Interpol đã ra lệnh truy nã quốc tế ông Trịnh Xuân Thanh từ 29/9, sau khi nhận được yêu cầu của cơ quan điều tra Việt Nam. Nhưng ngày 6/8/2017 (tức hơn 8 tháng sau), VOA lại đưa tin "Chưa thấy tên ông Trịnh Xuân Thanh trên trang Interpol". Vậy sự thật nằm ở đâu? Thử tự mình trực tiếp tra cứu Thông báo Đỏ của INTERPOL vào ngày 10/8/2017, thì chỉ tìm được một người Việt Nam mang họ Trịnh và một người Việt Nam tên là Thanh, nhưng cả hai đều là phụ nữ.



Giả sử INTERPOL đã đưa tên TXT vào Thông báo Đỏ, thì điều gì có thể xảy ra? Có phải "Cảnh sát Đức có trách nhiệm phối hợp với Cảnh sát quốc tế và Cảnh sát Việt Nam thực hiện lệnh truy nã đó" hay không? Tiếc rằng, câu trả lời là KHÔNG! Bởi INTERPOL viết rõ trên trang web, rằng Thông báo Đỏ "không phải là lệnh bắt giữ quốc tế", và

"INTERPOL không thể ra lệnh bất cứ nước thành viên nào bắt giữ một cá nhân được đề cập trong Thông báo Đỏ. Mỗi nước thành viên tự xác định giá trị pháp lý của một Thông báo Đỏ trên lãnh thổ của mình."



Ý kiến khác lại cho rằng:

"Để dẫn độ tội phạm đang trốn ở nước ngoài về xử lý, trước hết quốc gia đó phải ký Hiệp định tương trợ tư pháp với quốc gia được đề nghị dẫn độ…"

Nếu tin vào khẳng định ấy, thì có thể rút ra một nhận định sai lầm tai hại. Rằng do giữa Việt Nam và Đức chưa có ký kết về dẫn độ, nên phía Đức sẽ không chấp nhận yêu cầu của phía Việt Nam về việc dẫn độ TXT. Vì vậy, phía Việt Nam chỉ còn cách duy nhất, là lẻn vào Đức để bắt cóc TXT. Thực ra, ký kết song phương về dẫn độ có thể giúp cho việc dẫn độ được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi hơn. Nhưng nếu chưa có ký kết thì vẫn có thể tiến hành dẫn độ. Đối với Đức thì điều đó rất rõ ràng:

"Không nhất thiết phải có Hiệp định Dẫn độ; dẫn độ vẫn có thể tiến hành trên cơ sở không có hiệp định." (Sổ tay Nghị sĩ, 2/2001)



Vậy thì tại sao phía Đức chưa chấp nhận, hoặc có thể sẽ không thể chấp nhận yêu cầu của phía Việt Nam về việc dẫn độ TXT? Để trả lời câu hỏi này, sau đây ta đề cập đến bốn điều kiện pháp lý ràng buộc việc dẫn độ.



II.1. Điều kiện tương thích về tội danh



Không thể có chuyện, nếu nước này truy tố và yêu cầu dẫn độ ai đó, thì nước kia bắt buộc phải chấp nhận. Bởi cái mà nước này quan niệm là tội, thì có thể nước kia lại không quan niệm là tội, thậm chí còn coi là thành tích. Ví dụ: Ở Việt Nam, nếu ai đó lên tiếng đòi thực thi các quyền con người đã được hiến định, hoặc tố cáo những hành vi phi pháp của giới cầm quyền, thì có thể bị phạt tù vì "Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 88), hay "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" (Điều 258, Bộ luật Hình sự 1999). Nhưng ở Liên bang Đức thì đó không phải là tội, và nếu phải quy tội bằng được, thì chính tác giả sinh ra hai điều luật ấy mới là có tội.



Để tạo cơ sở pháp lý cho quyết định truy nã quốc tế, ngày 16/9/2016 Cơ quan Cảnh sát điều tra của Bộ Công an đã ra Quyết định khởi tố bị can số 363/C46(P12) đối với TXT về "Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" - quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình sự 1999.



Động cơ là thứ không thể cân đo đong đếm, vậy thì bằng cách nào để xác định là đương sự "cố ý" hay "vô ý"? "Quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế" thì nhiều cái sai lè lè, nếu răm rắp làm đúng thì có mà... XHCN ("Xã Hội Chủ Nghĩa", còn được đọc là "Xuống Hố Cả Nút"). Nếu không có những người dám "làm trái" như ông Kim Ngọc, thì đến giờ bà con nông dân vẫn phải treo niêu. Nếu không có những người dám "làm trái" như bà Ba Thi, thì biết bao công dân Thành phố mang tên Hồ Chí Minh đã có thể chết đói. Thế thì tại sao có thể quan niệm làm đúng là... đúng, còn "làm trái" là sai? Và khi có “hậu quả nghiêm trọng", thì có thể do chính "Quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế" hay cấp trên cấp dưới gây ra, chứ tại sao lại đổ riệt cho đương sự? Vậy đó, đến "ta" còn thấy mông lung như vậy, thì sao có thể đòi hỏi "tây" phải hiểu, để mà thực thi "trách nhiệm phối hợp"?



Trớ trêu thay, Bộ Công an lại chọn (để khởi tố bị can đối với TXT) một trong 5 tội không còn tồn tại trong Bộ luật Hình sự 2015, mà lẽ ra đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2016 (tức là đúng hai tháng rưỡi trước ngày khởi tố TXT) - nếu như nó không bị hoãn thi hành vì lý do khó chấp nhận. Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp thời đó, Chính phủ đề xuất bỏ "Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" (Điều 165, Bộ luật Hình sự 1999) là "để đáp ứng yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, bảo đảm sự minh bạch và an toàn của môi trường sản xuất, kinh doanh". Vậy thì tại sao Bộ Công an lại khởi tố bị can đối với TXT về một tội danh đã bị xóa trong Bộ luật Hình sự 2015, mà lẽ ra đã có hiệu lực thực hiện? Chẳng lẽ vì không tìm được tội danh nào khác phù hợp hơn hay sao?



TXT có tham nhũng hay không? Điều đó thì dân biết, quan biết, và lãnh đạo tối cao thì càng biết rõ. Vậy mà TXT lại không bị khởi tố bất cứ tội nào trong số 7 tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật Hình sự hiện hành (1999). Việc tránh khởi tố tội tham nhũng đồng nghĩa với thừa nhận rằng TXT không phạm tội tham nhũng, hoặc cùng lắm chỉ tham... như hầu hết các đồng chí khác. Mà tội đại trà thì không thể bị truy tố, bởi "nếu truy tố hết thì chẳng còn ai để lãnh đạo".



Căn cứ vào quy định pháp luật của CHLB Đức, thì câu trả lời đã khá rõ ngay từ khi nhận được đề nghị dẫn độ TXT của phía Việt Nam. Vì IRG (Gesetz über die internationale Rechtshilfe in Strafsachen, Luật về Tương trợ Tư pháp Quốc tế trong Lĩnh vực Hình sự của CHLB Đức) quy định tại Điều 3, Khoản 1:

"Chỉ được phép dẫn độ nếu hành vi liên quan cũng là hành vi phạm pháp theo luật Đức, thực hiện yếu tố cấu thành tội phạm của Bộ luật Hình sự Đức, hoặc về bản chất theo luật Đức thì tương tự một hành vi như vậy."

Theo điều khoản này, thì phía Đức không được phép dẫn độ TXT bởi "tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng", vì trong Bộ luật Hình sự của CHLB Đức không có tội danh nào như vậy hoặc tương tự như vậy.



II.2. Điều kiện không được kết án tử hình



Để có thể thuyết phục phía Đức chấp nhận dẫn độ TXT, thì chỉ còn cách bổ sung tội danh phù hợp với luật của Đức. Thế là ngày 15/3/2017, nhân xét xử vụ án lừa đảo tại dự án Thanh Hà - Cienco 5 Land, Hội đồng Xét xử Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã công bố quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với Trịnh Xuân Thanh về "tội tham ô tài sản". Tưởng rằng như vậy đã lách xong luật Đức, ai ngờ lại tự mình dựng lên rào cản bê tông.



Điều 278 Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 quy định có thể bị xử tử hình, nếu "chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên". Điều 353 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (lẽ ra có hiệu lực từ ngày 1/7/2016, nhưng được sửa đổi theo Luật số 12/2017/QH14 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2018) quy định có thể bị xử tử hình, nếu "chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên", hay nếu "gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên". Chắc hẳn thành tích bất hảo của TXT cao gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn dành cho hạng "cán bộ cấp chiến lược" này.



Trong khi đó, IRG quy định tại Điều 8 rằng:

"Nếu theo luật của nhà nước đề nghị dẫn độ mà hành vi phạm tội có nguy cơ bị kết án tử hình, thì chỉ được dẫn độ trong trường hợp nhà nước đề nghị dẫn độ đảm bảo rằng sẽ không kết án tử hình."

Liệu Nhà nước Việt Nam có thể đảm bảo với phía Đức rằng sẽ không xử tử hình TXT hay không? Nếu không đảm bảo thì tất nhiên "hết phim". Còn nếu đảm bảo, thì có nghĩa là lãnh đạo Nhà nước Việt Nam sẽ áp đặt mức án (không quá mức tù chung thân) cho thẩm phán. Và như vậy là vi phạm Điều 103 Khoản 2 Hiến pháp 2013, quy định rằng:

"Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm."

Hơn nữa, còn mang tiếng tùy tiện. Và sau này biết xét xử thế nào với những trường hợp tương tự? Nếu vì án lệ TXT, mà sẽ chẳng xử tử hình bất cứ ai với "tội tham ô tài sản", thì hóa ra phủ định Bộ luật Hình sự của CHXHCN Việt Nam hay sao?



II.3. Điều kiện về xét xử công bằng



Cho dù Nhà nước Việt Nam cam đoan sẽ không xử tử hình TXT, thì vẫn chưa đủ để phía Đức chấp nhận dẫn độ. Một trong những điều kiện quan trọng để phía Đức có thể chấp nhận dẫn độ là:

"Phải đảm bảo rằng người bị dẫn độ sẽ được xét xử công bằng." (Sổ tay Nghị sĩ, 2/2001)

Đó là hệ quả trực tiếp của quy định tại Điều 1 Khoản 1 của Luật Cơ bản: " Phẩm giá con người là bất khả xâm phạm. Tôn trọng và bảo vệ nó là nhiệm vụ của mọi quyền lực nhà nước." Và điều đó cũng phù hợp với quy ước "tuyệt đối cấm tra tấn", được quy định tại Điều 2 của Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc.



Tất nhiên, phía Việt Nam sẽ tuyên bố như muôn thuở, rằng đảm bảo TXT sẽ được xét xử công bằng. Song liệu phía Đức có thể tin tưởng vào lời đảm bảo đó hay không? Để hiểu đôi chút lý do, vì sao người Đức ngờ vực, hãy tham khảo mấy trải nghiệm đáng buồn của họ.



Sau khi bay đến Hà Nội để trực tiếp chứng kiến phiên tòa phúc thẩm xét xử công khai Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy, mà bản thân ông và nhiều người quan tâm phải đứng vật vờ ngoài đường, không được vào nơi xét xử, ngày 23/9/2016 Nghị sĩ Quốc hội Đức Martin Patzelt đã ra thông cáo báo chí với tiêu đề "Việt Nam: Phiên tòa phúc thẩm không công bằng cho nhà đấu tranh nhân quyền Nguyễn Hữu Vinh".



Ngày 30/6/2017, Đặc ủy Nhân quyền của Chính phủ Đức Bärbel Kofler đã ra thông cáo báo chí về bản án dành cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm), trong đó có đoạn:

"Tôi bàng hoàng trước bản án 10 năm tù dành cho blogger và nhà hoạt động Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Việc kết án, rõ ràng bị chi phối bởi chính trị, trái với các nguyên tắc về nhân quyền và vi phạm các nghĩa vụ quốc tế trong lĩnh vực quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết."

Và ngày 27/7/2017, bà Bärbel Kofler lại ra thông cáo báo chí tương tự "về án tù 9 năm đối với nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam Trần Thị Nga". Cả hai thông cáo đều được chính thức công bố trên trang web của Bộ Ngoại giao Đức, tức đó cũng là quan điểm chính thức của Chính phủ Đức.



Quan điểm của phía Đức đã được thể hiện rõ ràng như vậy, thì làm sao có thể thuyết phục được họ, rằng chắc chắn TXT sẽ được xét xử công bằng? Chẳng lẽ lại ôn tồn giải thích, rằng đồng chí TXT đã từng là cán bộ lãnh đạo cao cấp, nên sẽ không bị xử tệ như tụi tranh đấu nhân quyền hay sao?



II.4. Cấm dẫn độ đối với hành vi liên quan tới chính trị



Bức tường thành khó vượt qua nhất là quy định của IRG tại Điều 6, Khoản 1:

"Không được dẫn độ đối với hành vi mang tính chính trị, hoặc hành vi có liên quan tới hành vi mang tính chính trị."

Tuy điều khoản này còn mở ra ngoại lệ dẫn độ đối với các tội diệt chủng, giết người và ngộ sát, nhưng đó không phải là cánh cửa để có thể tóm được TXT, vì phía Việt Nam không hề khởi tố TXT về những tội ấy.



Đừng vội phủ định là TXT không bị truy tố về hành vi mang tính chính trị, mà chỉ bị truy tố về tội kinh tế. Cũng đừng tốn công thuyết phục phía Đức là TXT phạm tội tham nhũng, vì theo chuẩn của Đức thì đa số quan chức Việt Nam đều đủ tiêu chuẩn tham nhũng để đứng trước vành móng ngựa. Chắc hẳn phía Đức không hề băn khoăn về việc TXT có phạm tội tham nhũng hay không, nhưng buộc phải trả lời câu hỏi: Hành vi bị truy tố của TXT có mang tính chính trị, hoặc có liên quan tới hành vi mang tính chính trị hay không? Vụ án TXT có mang yếu tố chính trị hay không?



Bà Petra Isabel Schlagenhauf, một trong các luật sư bảo vệ TXT, khẳng định trong thông cáo báo chí:

"Không bao giờ có chuyện ông Trịnh tự nguyện nộp mình cho các cơ quan Việt Nam. Ông ấy biết rõ, vì lý do chính trị, ông ấy sẽ không được xét xử công bằng."

Tức là theo quan điểm của Luật sư Schlagenhauf và thân chủ TXT, thì vụ án này mang yếu tố chính trị và TXT "sẽ không được xét xử công bằng".



Để chứng minh quan điểm ấy, Luật sư Schlagenhauf đã dành 653 từ (tiếng Đức) mô tả tóm tắt cuộc tranh giành quyền lực giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đồng thời đề cập tới số phận của Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng và TXT. Trong đó có đoạn:

"Ông Trịnh Xuân Thanh được coi là người được cả Vũ Huy Hoàng và Đinh La Thăng bảo trợ. Ông ta cũng có mối quan hệ cá nhân với Nguyễn Tấn Dũng, người cầm đầu phe hiện nay đã bị tước bỏ quyền lực trong nội bộ ĐCSVN. Ông Trịnh thuộc khuynh hướng cải cách của ĐCSVN. Dưới thời Chính phủ của Nguyễn Tấn Dũng, ông ấy đã có một sự nghiệp thành công. Các nhà quan sát chính trị cho rằng, việc truy tố hình sự đối với ông Trịnh Xuân Thanh nhằm mục đích chính trị chống lại phe của Nguyễn Tấn Dũng, với ý định đập tan nhóm cải cách (“bọn tư bản”) trong nội bộ ĐCS, khôi phục và tăng cường vai trò của Đảng trên cơ sở ý thức hệ cộng sản."



Thử hỏi, sẽ bác bỏ quan điểm trên của Luật sư Schlagenhauf và của TXT bằng cách nào? Chuyện mâu thuẫn và tranh chấp quyền lực trên thiên đình là bí mật... công khai, mà ai ai cũng biết. Thậm chí, bà Schlagenhauf còn đề cập tới cả bản báo cáo đề ngày 4/9/2016, mà TXT gửi Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Trong đó TXT kết luận: "Tôi xin ra khỏi Đảng vì không tin vào sự chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư."



Liệu có thể thuyết phục được dư luận trong và ngoài nước, rằng tất cả các yếu tố ấy không hề ảnh hưởng tới động cơ và tình cảm của những người ra quyết định khởi tố và truy nã quốc tế đối với TXT hay không? Và có thể chứng minh rằng vụ TXT không hề bị ảnh hưởng bởi yếu tố chính trị hay không? Hãy bỏ qua những câu hỏi về nội tâm (khó xác định một cách rõ ràng), để trao đổi về bốn khía cạnh cụ thể, đã được công khai trên báo chí, mà phía Đức có thể dựa vào đó để lập luận.



II.4.a. Về thế lực chỉ đạo truy nã



Về hình thức, Bộ Công an đã phát lệnh khởi tố và truy nã quốc tế với TXT vào ngày 16/9/2016. Nhưng dư luận thừa hiểu, rằng Bộ Công an không thể tự mình quyết định một việc "nhạy cảm" như vậy. Lệnh ấy chắc chắn phải đến từ thượng tầng. Tuy khâu quyết định ở hậu trường thuộc vào phạm trù "bí mật", nhưng thực chất quyền lực đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hé lộ trong Hội nghị tiếp xúc cử tri tại huyện Đông Anh (Hà Nội) vào ngày 6/12/2016, khi tuyên bố "bắt bằng được Trịnh Xuân Thanh". Hơn 4 tháng sau, khi chủ trì cuộc họp của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng vào ngày 17/4/2017, "Tổng Bí thư chỉ đạo tập trung lực lượng điều tra mở rộng vụ án xảy ra tại Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC); truy bắt, dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về nước phục vụ điều tra, xử lý vụ án".



Dư luận trong nước chắc chẳng hề lăn tăn, thậm chí còn ngợi ca Tổng Bí thư chỉ đạo sát sao và cương quyết chống tham nhũng. Nhưng người Đức có thể đặt ra câu hỏi: Tại sao Tổng Bí thư ĐCSVN lại chỉ đạo truy bắt TXT? Để trả lời, hiển nhiên phía Việt Nam viện dẫn Điều 4 Hiến pháp, nơi hiến định "ĐCSVN... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Với bản năng "máy móc", người Đức sẽ thắc mắc, rằng Điều 4 Hiến pháp cũng quy định: "Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật." Mà "trong khuôn khổ" được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (có hiệu lực từ 27/11/2015), thì chẳng có cương vị lãnh đạo nào của ĐCSVN được liệt kê trong danh sách "những người… có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp" tại Điều 110, và "những người… có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam" tại Điều 113. Và cho dù vin vào chức vụ Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (thành lập theo Quyết định số 162-QĐ/TW của Bộ Chính trị), thì người Đức cũng chẳng thông, vì đó chỉ là một ban của ĐCSVN, là thứ không hề được nhắc tới "trong khuôn khổ" của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.



Vậy là, theo "tư duy hạn hẹp" của người Đức, thì việc Tổng Bí thư của một đảng chính trị tuyên bố "bắt bằng được TXT" và "chỉ đạo tập trung lực lượng... truy bắt, dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về nước phục vụ điều tra, xử lý vụ án" đã đủ để cho thấy, đó là một vụ án mang tính chính trị, hay ít nhất là Tổng Bí thư đã chính trị hóa vụ án.



II.4.b. Về tội danh truy nã



Khi Bộ Công an phát lệnh truy nã quốc tế vào ngày 16/9/2016, thì chỉ mới truy tố một tội danh, đó là "tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng". Vì ở CHXHCN Việt Nam thì quy định của Nhà nước thực ra là quy định của ĐCSVN. Do đó, "cố ý làm trái quy định của Nhà nước" cũng có nghĩa là "cố ý làm trái quy định của ĐCSVN", và có thể giải thích đó là hành vi phản ứng lại chủ trương đường lối của một đảng phái chính trị. Vậy thì, theo cách tư duy của người Đức, rõ ràng hành vi phản ứng ấy của TXT mang tính chính trị.



II.4.c. Về lực lượng truy nã



Sáng ngày 30/7/2017, nhà báo Huy Đức đưa tin: "Trịnh Xuân Thanh về mà báo chí im ắng nhỉ." Status ngắn ngủi ấy đã gây xôn xao. Sau đó, khi phóng viên đặt câu hỏi về thông tin cho là cơ quan điều tra đã di lí Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam rồi, báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh muốn đưa thông tin chính thức từ lãnh đạo Bộ Công an, Thượng tướng Tô Lâm nói: "Đến giờ tôi vẫn chưa có thông tin gì." Ngay tức khắc, vào lúc 12h50 ngày 30/7/2017, tờ báo mạng mang tên "Đại biểu Nhân dân" (tại địa chỉ http://quochoi.org/) đăng trên mục "Bút chiến trên mạng" bài "Sự thật về thông tin Trịnh Xuân Thanh về nước". Bài đó được mở đầu như sau:

"Trên trang facebook cá nhân sáng nay, Trương Huy San (Osin Huy Đức) đã đăng tải dòng chia sẻ giật gân đầy khiêu khích rằng “Trịnh Xuân Thanh về mà báo chí im ắng nhỉ”, dòng tin ngắn ngủi trên lập tức nhận được hàng ngàn lượt like, hàng trăm lượt chia sẻ, và dư luận bắt đầu bàn tán xôn xao. Vậy sự thật như thế nào?"

"Trong một phản ứng rất nhanh chóng và kịp thời, tại buổi trao đổi với PV Báo Pháp Luật TP HCM sáng nay (30/7), liên quan đến tin đồn cho rằng Bộ Công an đã dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam để phục vụ công tác điều tra, Thượng tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết: “Đến giờ tôi vẫn chưa có thông tin gì”."



Thế nhưng vào hôm sau, ngày 31/7/2017, Bộ Công an lại đưa tin TXT "đã đến Trực ban hình sự Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an đầu thú". Thậm chí, bà Petra Isabel Schlagenhauf (luật sư của TXT) còn viết trong thông cáo báo chí rằng:

"Người phụ nữ Việt Nam bị bắt cóc cùng với ông (tức TXT) nằm trong Bệnh viện Việt - Đức ở Hà Nội từ ngày 25/7/2017 dưới sự canh giữ của cảnh sát."



"Vua không nói chơi", nên Bộ trưởng Công an cũng không thể nói dối báo Pháp luật của Thành phố mang tên Hồ Chí Minh. Vì vậy, về nguyên tắc thì phải tin là Thượng tướng Tô Lâm đã nói thật. Tức là Bộ trưởng Công an "vẫn chưa có thông tin gì", mặc dù TXT đã "về" mấy ngày rồi.



Điều 493 Khoản 1 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định:

"Bộ Công an là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù."

Vậy mà Thủ trưởng tối cao của cái Cơ quan trung ương ấy lại không hề được biết về chiến dịch "đưa TXT về". Theo cách nghĩ "đơn giản" của người Đức, khi chiến dịch ấy không phải do "Cơ quan trung ương của nước CHXHCN Việt Nam trong hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù" chỉ đạo và thực hiện, thì chắc hẳn do một băng đảng nào đó điều khiển. Và chiến dịch ấy có thể chỉ phục vụ đấu đá phe nhóm, chứ không thể là hoạt động chính đáng của nhà nước pháp quyền. Và hiển nhiên, đấy cũng là một dấu hiệu chính trị của vụ án TXT.



II.4.d. Về phương pháp truy nã



Đối với phía Đức thì đó là một vụ bắt cóc. Do tầm nghiêm trọng của vụ việc, Viện Tổng Công tố Liên bang Đức đã chính thức tiếp nhận nhiệm vụ điều tra từ Viện Công tố Berlin vào ngày 10/8/2017. Thông báo cùng ngày của Viện Tổng Công tố Liên bang có đoạn viết:

"Kết quả điều tra đến nay cho thấy, nạn nhân đã bị đưa về Đại sứ quán Việt Nam ở Berlin và từ đó bị đưa về Việt Nam. Trước bối cảnh ấy, Viện Tổng Công tố Liên bang đã tiếp nhận điều tra nghi án hoạt động gián điệp (Điều 99 Bộ luật Hình sự Đức)tước đoạt tự do (Điều 239 Bộ luật Hình sự Đức)."



Bắt cóc TXT ngay giữa Thủ đô Berlin là hành vi giang hồ phi pháp, không thể coi là hành động chính đáng của một nhà nước pháp quyền. Thử hỏi, bạn sẽ chọn thuật ngữ "mang tính chính trị", hay thuật ngữ "mang tính mafia", hay thuật ngữ nào để đánh giá một vụ án được tiến hành như vậy?



II.4.e. Như vậy, xét tứ phía thì đều thấy đậm màu chính trị. Với những khía cạnh được trình bày trong phần II.4 này, thì làm sao có thể phủ định nghi ngờ về "tính chính trị"? Và làm sao có thể yêu cầu phía Đức vi phạm điều cấm: "Không được dẫn độ đối với hành vi mang tính chính trị" (IRG, Điều 6, Khoản 1)?



II.5. Tóm lại, chưa có bằng chứng chính xác nào có thể xác nhận lời tuyên bố của phía Việt Nam, rằng INTERPOL đã đưa tên TXT vào Thông báo Đỏ. Giả sử INTERPOL đã làm điều đó, thì "INTERPOL không thể ra lệnh bất cứ nước thành viên nào bắt giữ một cá nhân được đề cập trong Thông báo Đỏ" - đó là nguyên tắc của chính INTERPOL.



Việc phía Đức chấp nhận yêu cầu dẫn độ TXT là rất khó khăn, vì vấp phải mấy điều kiện nghiêm ngặt của luật pháp Đức.



Vướng mắc với điều kiện tương thích về tội danh (II.1) đã được khắc phục, sau khi khởi tố thêm vụ án hình sự đối với TXT về "tội tham ô tài sản" vào ngày 15/3/2017. Nhưng vì thế lại vấp phải điều kiện không được kết án tử hình (II.2), vì Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định mức án cao nhất cho "tội tham ô tài sản" là tử hình. Nếu Chính phủ Việt Nam tự ý cam đoan sẽ không kết án tử hình TXT, thì ít nhất cũng vi phạm Điều 103 Khoản 2 Hiến pháp 2013, "nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm".



Về điều kiện xét xử công bằng thì phía Việt Nam có thể đưa ra cam kết, nhưng cả người nói lẫn người nghe đều biết quá rõ, đó chỉ là câu chuyện viễn tưởng mà thôi. Cho dù phía Việt Nam thành tâm cam kết, thì phía Đức cũng thừa hiểu, quan niệm của hai xứ về xét xử công bằng quá khác nhau. Vì vậy, nếu Chính phủ Đức tỏ ra tin vào cam kết ấy của phía Việt Nam để chấp nhận dẫn độ, và nếu sau này TXT không được xét xử công bằng (theo quan niệm của phía Đức), thì các luật sư Đức của TXT có thể khởi kiện Chính phủ Đức trước tòa án Đức, với niềm tin thắng kiện.



Rào cản khó vượt qua nhất là điều kiện cấm dẫn độ đối với hành vi mang tính chính trị. Bởi vì có quá nhiều biểu hiện của yếu tố chính trị trong vụ án TXT, như đã được trình bày trong phần II.4.





III. Xử sự trong hoàn cảnh khó xử



Khi xác định được TXT đang ở Đức, chắc hẳn bên truy nã nghĩ sẽ tóm được kẻ lẩn trốn trong một thời gian ngắn. Bởi tin rằng "đối tác chiến lược" sẽ nhiệt tình ủng hộ truy bắt kẻ tham nhũng. Nhưng lại vấp phải cái "từ từ" của phía Đức. Quá sốt ruột, phía Việt Nam không hiểu nổi: Tại sao phía Đức lại chần chừ, không giải quyết ngay chuyện dẫn độ TXT cho xong?



III.1. Hãy cùng nhau quay trở lại với vụ án Haikel S. (được trình bày ở phần I.3), để từ đó mà thử tư duy trên cương vị người Đức. So sánh giữa vụ án Haikel S. và vụ án TXT, sẽ thấy mấy điểm khác nhau rất cơ bản:

- Tội tổ chức hoạt động khủng bố, giết người của Haikel S. trầm trọng gấp bội so với tội phạm kinh tế của TXT.

- Những tội mà Haikel S. gây ra trên đất Đức do phía Đức trực tiếp điều tra và kết luận. Những tội mà Haikel S. gây ra ngoài đất Đức mang tính chất khủng bố, giết người. Còn tội của TXT thì phía Đức chỉ được phía Việt Nam thông báo, và có thể vụ án mang yếu tố chính trị.

- Tội của Haikel S. ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh của Liên bang Đức, còn tội của TXT không gây ra tác hại cụ thể nào cho Liên bang Đức.

- Tội của Haikel S. có thể tiếp diễn trong tương lai, còn tội của TXT chỉ dừng lại ở quá khứ.

Vậy thì tại sao phía Đức phải tạm gác lại những vụ trầm trọng như vụ Haikel S., để ưu tiên giải quyết trước yêu cầu dẫn độ TXT?



Năm 2016 Liên bang Đức nhận được 745.545 đơn xin tị nạn. Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2017 nhận thêm 129.903 đơn xin tị nạn.Một khối lượng công việc khổng lồ phải xử lý. Chỉ tiêu của Cơ quan Nhập cư và Tị nạn là mỗi nhân viên mỗi ngày phải thực hiện 3 cuộc phỏng vấn hoặc đưa ra 3,5 quyết định. Nhưng trên thực tế, bình quân mỗi nhân viên mỗi ngày chỉ thực hiện được 2 cuộc phỏng vấn hoặc đưa ra 2,5 quyết định, và chỉ 3 trong số 66 cơ sở xem xét tị nạn trên toàn quốc đạt được chỉ tiêu. Việc ngập đầu, làm không xuể, giục cái gì mà giục?



III.2. Mà tại sao phải vội? Chống tham nhũng là chuyện muôn thuở, có kết thúc đâu mà bảo cố làm cho xong. Chừng nào chế độ hiện thời còn tồn tại trên đất Việt Nam, thì chừng ấy bộ máy chống tham nhũng còn có thể tăng biên chế, chẳng lo bị thất nghiệp.



Tham nhũng nhan nhản mọi tầng, càng cao càng lộ liễu. Tại sao truy tố bằng được TXT, mà lại cố tình làm ngơ trước hàng ngàn, hàng vạn kẻ tham nhũng khác? Nếu vì tội to, thì còn nhiều kẻ tội to gấp bội. Nếu không dám đả hổ, thì còn nhiều kẻ ruồi muỗi hơn Thanh. Điều quan trọng là tất thảy đang lù lù ngay trước mắt, ở ngay trong nước, thậm chí nhiều kẻ còn đương chức đương quyền, tại sao không điệu ra phô diễn, mà phải sang tận Đức bắt bằng được TXT?



Vì hắn rất xấu, rất tham nhũng ư? Vậy ngài có khác hắn, hay cũng xêm xêm (rứa cả)? Cùng thuộc bộ phận không nhỏ được đào tạo quy củ trong cùng một lò học tập và làm theo, cùng được đảng tín nhiệm đưa vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, rồi cùng được bổ nhiệm đúng quy trình.



Vì việc xử lý rất gấp gáp ư? Tội của TXT và đồng bọn thì các vị đã biết từ lâu, tại sao trước kia làm ngơ, mà bây giờ mới đem ra xét xử? Vì trước kia không đánh nổi do "phe nó" quá mạnh, còn bây giờ "khả thi" vì "rắn đã mất đầu" ư? Nói như vậy thì khác nào thừa nhận là đấu đá phe nhóm.



Vì TXT liên quan đến mấy tội phạm khác, nên phải bắt về để thẩm vấn điều tra và đứng ra làm chứng ư? Thiếu gì bằng chứng và nhân chứng, mà phải trông chờ cả vào TXT, như đấng cứu tinh. Khi quyết định bất chấp phản ứng của phía Đức để xông vào Berlin bắt TXT, thì có nghĩa là phải có đủ bằng chứng để kết tội TXT. Nếu đã có đủ bằng chứng và nếu quả thật "trọng chứng hơn trọng cung", thì vắng TXT vẫn xét xử được đồng bọn, chứ đâu phải đợi hắn về giúp sức. Chả thế mà ông Vũ Quốc Hùng (Nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương) đã quả quyết: "Việc xử lý kỷ luật cán bộ liên quan không lệ thuộc lắm vào việc bắt được Trịnh Xuân Thanh hay không."



Rõ ràng, khó có thể tìm được lý do hợp lý, để thuyết phục phía Đức chấp nhận sớm dẫn độ TXT.



III.3. Trong hoàn cảnh phía Đức quá bận, lại vấp phải những rào cản pháp lý khó vượt qua, chỉ còn lại cách duy nhất, là phía Việt Nam phải kiên trì chờ đợi. Tiếc rằng lại không chịu đợi, mà đã hành động như nhiều người đã biết.



Nếu đúng như cáo buộc của phía Đức, là mật vụ Việt Nam đã bắt cóc TXT giữa Berlin để đem về Hà Nội, thì hành vi ấy không chỉ vi phạm thô bạo luật pháp Đức và luật pháp quốc tế, mà còn vi phạm cả pháp luật Việt Nam. Vì Điều 492 (về nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự) của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định rõ:

"Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…"

Ra rả đại ngôn thượng tôn pháp luật, để rồi lại liều lĩnh hành động bất chấp pháp luật. Theo cách cảm thán của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì phải thốt lên: Thượng tôn pháp luật đến thế là cùng!



Tại sao phải hành động vội vã, đến mức cuồng dại và gây hậu quả nghiêm trọng đến như vậy? Chẳng lẽ quá cần kíp, để kịp thực hiện một âm mưu nào đó hay sao?



Với hành vi trắng trợn trên lãnh thổ CHLB Đức, họ xúc phạm Nhân dân Đức và Nhà nước CHLB Đức, đồng thời xúc phạm cả hàng chục triệu người Việt, và bôi nhọ hình ảnh của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.



III.4. Vâng, tôi dùng từ "người Việt" để chỉ cả những người đang sinh sống ở nước ngoài, đặc biệt là cộng đồng sống trên đất Đức, trong đó có nhiều người đã mang quốc tịch khác. Và cố tình tránh dùng từ "Nhân dân Việt Nam", mà chỉ viết rằng họ đã "xúc phạm cả hàng chục triệu người Việt". Vì biết rằng còn có nhiều người không đồng cảm với mình. Suy nghĩ khác nhau là chuyện thường tình. Tôn trọng người khác chính kiến là nguyên tắc tối thiểu của cách sống văn minh. Vả lại, bản thân tôi cũng nhờ có điều kiện tiếp xúc với xã hội Đức, thì mới hiểu được những điều đang viết về người Đức, nên không thể đòi hỏi những người không có điều kiện tương tự phải hiểu tương tự.



Dẫu nghĩ như vậy, nhưng để truyền tải tinh thần của bài viết này, tôi vẫn muốn trao đổi đôi chút về mấy khía cạnh khác biệt so với Việt Nam. Để những người chưa đến Đức tham khảo, trước khi tiếp tục phê phán và chỉ trích cách xử sự của phía Đức trong vụ TXT.



III.4.a. Người Đức dùng tên "Luật cơ bản" ("Grundgesetz", Đức hóa từ La-tinh "lex fundamentalis") để chỉ hiến pháp, và thực sự quan niệm đó là luật cơ bản, mà tất cả đều phải tuân theo. Họ không coi hiến pháp như một thứ đồ trang sức chỉ để ngụy trang hay điểm tô cho chế độ. Họ không bao giờ chấp nhận để giới cầm quyền chỉ tận dụng hiến pháp khi hợp với khẩu vị, còn nếu không hợp thì sẵn sàng nhổ toẹt, ngang nhiên chà đạp lên hiến pháp. Và họ khó có thể hình dung ra cái cảnh quái đản: Chính quốc hội lập hiến lại ù lì, cố tình trì hoãn ban hành luật suốt mấy chục năm trời, hòng ngăn cản việc thực thi hiến pháp. Vả lại, ở Liên bang Đức, hiến pháp đã hiến định nội dung nào thì hiển nhiên nội dung ấy có hiệu lực pháp lý. Không có kiểu tư duy tôi tớ ngược đời: Hiến pháp phải đợi luật, luật phải đợi nghị định, nghị định phải đợi thông tư, và sau khi có thông tư hướng dẫn thì mọi người mới dám thực hiện. Cho nên, giả sử Quốc hội Đức cố tình trì hoãn ban hành luật, thì việc trì hoãn ấy cũng chẳng đem lại điều gì trên đất Đức.



Quyền tự do là thứ đương nhiên, bất khả xâm phạm. Hiến pháp hiến định quyền tự do cùng một số quyền con người và quyền công dân là để khẳng định và bảo vệ các quyền đó, chứ không phải để ban phát, hay cho phép. Ở Đức, người dân có quyền làm những điều mà pháp luật không cấm, nên không có kiểu luận tội quái đản "lợi dụng sự sơ hở của pháp luật" (xem bình luận trong bài "Quyền biểu tình của công dân"). Ngược lại, với tư cách đại diện cho bộ máy quyền lực nhà nước, các thành viên của bộ máy ấy chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép. (Một ví dụ cho lối tư duy này là lập luận của thẩm phán trong vụ án Daschner, khi kết tội Phó Giám đốc Cảnh sát Thành phố Frankfurt am Main Wolfgang Daschner và sĩ quan cảnh sát dưới quyền Ortwin Ennigkeit: Việc đe dọa gây đau đớn để ép khai báo không được quy định trong Luật Cảnh sát của Bang Hessen, nên không thể biện hộ hành vi của hai vị cảnh sát bởi lý do giải cứu khẩn cấp.) Thành thử, dù Thủ tướng Việt Nam có trao đổi với Thủ tướng Đức bên lề Hội nghị Thượng đỉnh G20, thì bà Angela Merkel cũng không thể vì chiều lòng "đối tác chiến lược" mà tùy tiện đưa ra quyết định trái pháp luật Đức, ảnh hưởng đến quyền tự do của TXT.



"Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật" (Điều 3 Khoản 1 Luật cơ bản Đức). Đó là một thực tế pháp lý trên đất Đức, chứ không phải là hiến định tương lai, hay dối trá trơ trẽn. "Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 97 Khoàn 1 Luật cơ bản Đức). Nội dung tương tự cũng được hiến định tại Điều 103 Khoản 2 Hiến pháp Việt Nam. Chỉ khác nhau ở chỗ, ở Việt Nam thì điều ấy là ước vọng thiên đường, còn ở Đức thì điều ấy là hiện thực trần gian. Vì vậy, nếu Chính phủ Đức chấp nhận đề nghị dẫn độ TXT, mà trái với điều luật nào đó của Đức, thì các luật sư của TXT sẽ khởi kiện, và quyết định của Chính phủ Đức sẽ bị tòa án bác bỏ. Do đó, dù có thông cảm với sự nóng vội của "đối tác chiến lược", thì phía Đức cũng không thể dại dột mà nóng vội theo.



III.4.b. Luật Luật sư của CHLB Đức (Bundesrechtsanwaltsordnung) trịnh trọng khẳng định ở Điều 1:

"Luật sư là một bộ phận bảo vệ pháp luật độc lập."

Định nghĩa ngắn gọn này không chỉ khẳng định tính "độc lập", mà còn nhấn mạnh chức năng "bảo vệ pháp luật" của luật sư. Cần hiểu đúng, chức năng "bảo vệ pháp luật" của luật sư không phải là chung tay với hệ thống cơ quan điều tra - cơ quan công tố - tòa án để "bảo vệ pháp luật", mà ngược lại, là ngăn chặn hệ thống ấy vi phạm pháp luật. Nói nôm na, trách nhiệm của luật sư không phải là hợp tác, mà đối kháng với hệ thống cơ quan điều tra - cơ quan công tố - tòa án để "bảo vệ pháp luật". Để cụ thể hóa chức năng này, Quy tắc Nghề luật sư (Berufsordnung für Rechtsanwälte) của Đức viết rõ tại Điều 1 Khoản 3:

"Luật sư phải bảo vệ thân chủ trước các thiệt hại pháp lý, … trước các quyết định sai lầm của tòa án và chính quyền, và trước sự suy giảm quyền hiến định cũng như trước sự lạm quyền của chính quyền".



Nhìn từ góc độ nhà nước pháp quyền, thì trách nhiệm vô cùng quan trọng của luật sư là giữ thăng bằng cho hệ thống pháp quyền. Vì không dựa trên quan điểm này, nên Quốc hội khóa XIV đã luẩn quẩn trong cuộc thảo luận về trách nhiệm tố cáo thân chủ của luật sư (khi sửa cái Bộ luật Hình sự vừa mới được thông qua mà đã phải dừng triển khai để sửa lại). Ý kiến ủng hộ thì cho rằng:

"Ngoài đạo đức luật sư, còn trách nhiệm, đạo đức của một công dân..."

Ý kiến phản đối thì lập luận:

"Nếu luật sư tố giác tội phạm thì chính thân chủ đó có mời luật sư nữa không? Xã hội có tẩy chay nghề luật sư không? Chưa bảo vệ được gì đã đi tố giác rồi thì không biết nghề luật sư có điều kiện tồn tại hay không?"

May mà không có ai vận dụng cách lập luận "vỉa hè không phải là nơi xóa đói giảm nghèo", để phán rằng "luật sư không phải là nơi giải quyết nạn thất nghiệp".



Vấn đề cốt lõi là: Để hoàn thành tốt vai trò giữ thăng bằng hệ thống pháp quyền, luật sư phải đóng vai trò chuyên trách là làm đối trọng, chứ không thể sốt sắng nhảy sang phía bên kia, làm thay phần việc điều tra tội phạm của cơ quan điều tra. Nếu luật sư không chuyên tâm trụ lại ở bên đối trọng, để đảm đương trách nhiệm giữ thăng bằng, thì hệ thống pháp quyền ắt sẽ... tùng bê.



Chứng kiến cuộc tranh luận của Quốc hội thông qua tường thuật của đài báo, đã định lên tiếng góp ý, nhưng rồi lại thôi. Một mặt, vì quá bận, chỉ có thể bớt chút thời gian góp ý cho hiến pháp, và một khi đã "não lòng với hiến pháp", thì luật cũng trở nên vô vị. Mặt khác lại nghĩ, hãy để giới luật sư tự bảo vệ mình, chứ nếu họ không bảo vệ nổi mình, thì còn bảo vệ được ai nữa.



Để đảm nhiệm tốt chức năng nghề nghiệp, thì luật sư Đức phải thường xuyên miệt mài bổ sung kiến thức, và công phu nghiêm túc khi nghiên cứu hồ sơ vụ án. Liên bang Đức không có chỗ cho loại luật sư chỉ bỏ chút thời gian liếc qua hồ sơ vụ án, rồi thắt cà vạt đến phiên tòa chém gió. Tòa án Đức thực sự tôn trọng tranh tụng, nên luật sư không thể đổ lỗi cho thẩm phán, để biện hộ cho sự kém cỏi và lười biếng của bản thân.



Là người có rất nhiều tiền, lại rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn, chắc chắn TXT đã tìm thuê một nhóm luật sư cao thủ. Với dàn luật sư ấy, chính quyền Đức không dám qua mặt, và cũng không thể qua mặt, để đưa ra những quyết định trái luật nhằm dẫn độ TXT. Nếu vì lý do gì đó mà chính quyền Đức vẫn cố chấp nhận đề nghị dẫn độ TXT một cách trái luật, thì sẽ nắm chắc phần thua khi đối diện với luật sư tại tòa án.



III.4.c. Người Đức rất ghét các quan chức tham nhũng, nhất là quan chức tham nhũng mang danh cộng sản. Nhưng đừng nhắc nhở họ là TXT tham nhũng, để khêu gợi tình cảm chống tham nhũng. Bởi khi xử lý tội phạm, họ gạt tình cảm sang một bên và chỉ dựa vào cơ sở pháp lý. Nếu quả thật TXT phạm tội tham nhũng trầm trọng, và nếu vụ án chỉ đơn thuần nhằm trừng phạt tham nhũng, thì có quyền hy vọng rằng phía Đức sẽ chấp nhận dẫn độ TXT. Còn nếu vụ án có yếu tố chính trị, thì dù tham nhũng đến đâu đi nữa, TXT vẫn có thể được phép nương náu ở Đức. Một mặt, pháp luật Đức đã quy định như vậy, nên không ai có thể vi phạm. Mặt khác, phía Đức không thể an tâm giao nộp một kẻ tham nhũng cho một bộ máy tham nhũng xử lý.



Cách xử sự ấy có lẽ rất xa lạ và khó hiểu đối với cộng đồng đã được giáo dục kỹ lưỡng về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, đã thấm nhuần tinh thần không đội trời chung với kẻ thù. Nhưng trong một xã hội văn minh nhân đạo, người tốt không thể tước hết đường sống của người bị coi là xấu. Xã hội Đức khá nhân đạo, song chẳng mấy khi vỗ ngực tự khoe khoang là nhân đạo. Ngược lại, còn thường tự chỉ trích những biểu hiện thiếu nhân đạo, và điều đó khiến xã hội ngày càng nhân đạo hơn. Xã hội Việt Nam cũng nhân đạo, nhưng nặng về tự phong tự khen, bất chấp thực tế. Rồi khen hoài khen mãi, đến mức chẳng còn thời gian và sức lực để triển khai. Chưa kịp thực hành nhân đạo, thì đương nhiên chưa thể hiểu và thông cảm với cách cư xử nhân đạo.



III.4.d. Bạn có thể phê phán phía Đức không cương quyết chống tội phạm, song chớ chỉ trích họ "chứa chấp tội phạm", bởi như vậy có thể bị coi là vu khống. Nếu muốn, bạn cứ việc cương quyết chống tội phạm theo cách của bạn, nhưng nhớ là chỉ làm thế ở trong nước của bạn. Và nếu phương châm sống của bạn là "mục đích biện minh cho phương tiện", thì đừng quên rằng nó chỉ phù hợp với xứ sở luật rừng, đừng hồn nhiên xuất khẩu nó vào một cường quốc pháp quyền như Liên bang Đức. Các cụ đã dạy "nhập gia tùy tục". Berlin thuộc "gia" Cộng hòa Liên bang Đức, nên nếu có đến đó thì phải tùy theo "tục" Đức, chứ đừng diễn tiếp "tục" rừng.



III.5. Tóm lại, cũng là nhà cầm quyền, nhưng nhà cầm quyền Berlin chỉ cầm cái quyền mà luật pháp Đức trao cho, không thể tùy tiện hành động vô độ như nhà cầm quyền ở chế độ độc đảng độc quyền. Trong hoàn cảnh pháp luật thật sự tôn trọng và bảo vệ nhân quyền, luật sư thật sự được tôn trọng và đáng được tôn trọng, và tòa án thật sự xét xử công bằng theo đúng quy định của pháp luật, thì Chính phủ Đức không thể tùy tiện chấp nhận đề nghị dẫn độ TXT của Chính phủ Việt Nam. Do phía Đức phải giải quyết bao trường hợp khác, xuất hiện trước và nghiêm trọng hơn nhiều so với vụ TXT, nên đương nhiên phía Việt Nam phải chờ, để đồng nghiệp Đức có thể tiến hành xem xét theo đúng trình tự pháp lý. Tiếc rằng, theo cáo buộc của phía Đức, thì phía Việt Nam đã không đợi, mà tiến hành bắt cóc TXT giữa Berlin để đem về Hà Nội. Nếu quả là như vậy, thì đó là một hành vi không thể chấp nhận được, vì nó vi phạm nghiêm trọng luật pháp Đức, luật pháp quốc tế và cả luật pháp Việt Nam.





IV. Cách nào chữa cháy



Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng dõng dạc tuyên bố: "Trịnh Xuân Thanh đã trốn ra nước ngoài, chúng ta đã phát lệnh truy nã quốc tế, tinh thần là bắt bằng được, không trốn được đâu." Quả là cuối cùng họ đã bắt được TXT, và bắt bằng cách ấy. Trên đà thắng lợi, Tổng Bí thư hứng khởi ví von: "Lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy". Vâng, khi đã "huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc"... đốt, thì tất nhiên cháy hết. Có điều, không chỉ cháy củi khô, củi tươi, mà cháy luôn cả nhà. Phải chăng, quán triệt phương châm "diệt chuột đừng để vỡ bình", họ "giữ bình" bằng cách... đốt nhà để "diệt chuột"?



Nhà cháy, thay vì lao vào chữa cháy, cả guồng máy lại lặng im. Trong khi đó, lực lượng "quần chúng tự phát" lại đồng loạt ra tay, đổ thêm xăng vào lửa. Với những lời chỉ trích và lên án phía Đức một cách vô lối, họ góp phần làm cho tình hình vốn đã quá căng thẳng càng căng thẳng hơn.



Chưa bao giờ uy tín CHXHCN Việt Nam ở CHLB Đức và Cộng đồng chung Châu Âu lại bị hủy hoại nặng nề đến như vậy. Bao công sức ngoại giao và tô vẽ thể diện chế độ suốt mấy chục năm trời, nay bị hắt hết xuống sông xuống biển trong chốc lát.



Những hậu quả kinh tế, chính trị và ngoại giao lớn đến mức khó có thể lường hết được. Bỏ ra cả núi tiền để nuôi báo cô bộ máy thanh tra - kiểm tra khổng lồ, mà cả năm chỉ phát hiện ra mấy trường hợp tham nhũng và kê khai tài sản không trung thực, thì đã quá phi lý. Bây giờ, trong vụ TXT, nhân danh chống tham nhũng, mà lại gây thiệt hại gấp bội lần so với hậu quả tham nhũng của TXT, vậy thì chống để làm chi? Chẳng lẽ chỉ để giải quyết khâu sĩ diện của đấng cầm quyền?



Tình thế trầm trọng, nên xử lý thế nào? Sau đây là bốn phương án, mà các bên liên quan có thể tham khảo.



IV.1. Phương án kiên định nói thật



Trong trường hợp không hề bắt cóc TXT, thì đương nhiên phải kiên định với học thuyết "TXT đầu thú". Có điều, để phủ định cáo buộc của phía Đức về việc bắt cóc TXT, thì phải thẳng thừng khẳng định không hề bắt cóc TXT. Chứ tránh từ "bắt cóc", chỉ nói "TXT đầu thú" thì chưa đủ. Vì nếu đã bị bắt cóc và bị giam ở Việt Nam, thì việc TXT thừa nhận mình đã "đầu thú" là lựa chọn an toàn nhất.



IV.1.a. Khốn nỗi, kể cả trong trường hợp không hề bắt cóc TXT, thì dù nhà cầm quyền Việt Nam phủ định đến mấy, nhiều người Việt vẫn tin vào cáo buộc của phía Đức. Không phải vì tâm lý sính ngoại, mà vì dân ta đã phải nếm quá lâu và quá nhiều món dối trá của quan ta. Âu cũng là trả giá cho lạm phát dối trá mà thôi. Hơn nữa, tập quán hành xử côn đồ của giới công quyền Việt Nam không phải là điều xa lạ. Mỗi khi cướp đất của dân, hay đàn áp biểu tình yêu nước, hay khống chế những người tranh đấu cho quyền tự do dân chủ, họ thường áp dụng những biện pháp côn đồ. Thứ thì được triển khai bằng cách huy động côn đồ đích thực, và tuyên bố đó là "quần chúng tự phát”. Thứ thì được thực hiện bởi công an đóng vai côn đồ. Mà nhiều khi cũng chẳng cần phải đóng vai nữa. Trong đám ấy, có kẻ do tha hóa mà trở thành côn đồ, có kẻ qua đào tạo mà thành côn đồ, và cũng có kẻ đã là côn đồ từ trước khi chạy được vào ngành công an. Côn đồ thì ít học, lại ngông nghênh, nên nếu có nhảy vào Đức để bắt cóc TXT, thì cũng hợp với bản chất.



Mới đây thôi, hôm 15/4/2017 ở xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội), mấy kẻ đeo quân hàm sĩ quan của cái Quân đội mang tên Nhân dân đã lừa cụ Lê Đình Kình (82 tuổi đời, 55 tuổi đảng) ra đồng xác định mốc giới đất. Bỗng bất ngờ đá cụ đến mức gãy chân, rồi lẳng cụ lên xe ô tô như một con vật. Lại còn còng tay số tám và đút giẻ vào mồm, phóng 50 cây số đến số 7 Thiền Quang. Khi cụ kêu đau vì bị gãy chân, thì công an đưa đến Bệnh viện Quân đội 108, nhưng lại vu cho cụ là "đối tượng gây rối trật tự công cộng đang bị bắt", để không ai đứng ra điều trị. Một người đôn hậu, trung thực và có tinh thần xây dựng như cụ Lê Đình Kình, chỉ vì chống tham nhũng mà bị lừa, bị bắt cóc và bị cư xử như thế, thì nếu kẻ tham nhũng mang tên TXT bị bắt cóc cũng chẳng có gì là lạ.



IV.1.b. Vấn đề đặt ra đối với nhà cầm quyền Hà Nội, là phải chứng minh thế nào, để những người đầy ngờ vực cũng tin? Chưng ra cái "Đơn xin tự thú" của TXT thì chẳng thuyết phục được mấy ai. Bởi căn cứ vào đâu, để có thể tin đó thực sự là đơn của TXT? Bút tích ư? Dân Việt thường chỉ được chiêm ngưỡng bút tích của Hồ Chí Minh, may chăng thì thêm bút tích của Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Đến như bút tích của đương kim Tổng Bí thư cũng thuộc loại "lạ", thì làm sao "quen" được bút tích TXT? Ngay cả những người từng làm việc dưới trướng TXT, giữa thời buổi văn bản được dàn giúp việc xử lý vi tính và thủ trưởng chỉ cần ký, thì cũng chẳng mấy ai có may mắn thực mục sở thị nét chữ bậc lãnh đạo. Nếu dựa vào những biểu hiện văn hóa thấp trong lá đơn, thì càng ít thuyết phục. Trong hàng ngũ lãnh đạo, ít chữ đâu chỉ có TXT. Bộ trưởng còn ngọng, thì tại sao Phó Chủ tịch Tỉnh không có quyền ngọng?



Cho nên, cần phải công bố những hình ảnh sống động để làm minh chứng. Đoạn video chớp nhoáng được công bố trên chương trình thời sự của VTV1 vào 19 giờ tối ngày 3/8/2017 chưa đủ để phủ định cáo buộc bắt cóc. Người có ý định đầu thú lo nhất là bị đồng bọn thủ tiêu. Nên khi đã chủ động đầu thú và đầu thú thành công, được bộ máy an ninh bảo vệ an toàn, lại được ưu đãi vì đã tự nguyện đầu thú, thì phải tươi tỉnh, thư giãn, chứ không thể căng thẳng, phờ phạc như vậy.



Nếu bột phát đầu thú ngoài khuôn khổ tổ chức, thì việc vượt biên về nước (khi đã có lệnh truy nã) còn khó hơn gấp bội so với lần vượt biên khỏi Việt Nam (khi chưa có lệnh truy nã). Nói thẳng ra là TXT không thể tự ý lù lù nhập cảnh, rồi "đến Trực ban hình sự Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an đầu thú". Cho nên, chắc chắn TXT đã phải có những buổi làm việc với đại diện của tổ chức, để được tổ chức đưa về nước. Và cái tổ chức ấy chắc chắn có cơ sở làm việc an toàn, nơi có thể quay video đầy đủ quá trình bàn bạc để làm tư liệu. Khi về nước không thể trống dong cờ mở như đón đội tuyển Olympic, nhưng chắc chắn phải ngầm quay phim quá trình nhập cảnh và đi từ sân bay đến Trực ban hình sự Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an, để làm minh chứng cho sự tự nguyện trở về. Đó là chưa kể đến dấu xuất cảnh đóng trong hộ chiếu, nếu quả thật TXT đã rời Đức một cách hợp pháp. Hãy công bố tất cả những tư liệu ấy để giảm bớt lăn tăn.



Trong "Đơn xin tự thú", TXT viết:

"Được sự động viên của gia đình và bạn bè, tôi đã về Việt Nam và đầu thú tại Cơ quan An ninh điều tra để được hưởng sự khoan hồng của Đảng, Nhà nước và pháp luật."

Nếu đúng như vậy, thì không chỉ TXT đáng được hưởng sự khoan hồng, mà cả gia đình và bạn bè cũng xứng đáng được khen thưởng. Hình thức thưởng thấp nhất là cho phép TXT, vợ con và cha mẹ gặp mặt, nghẹn ngào mừng rỡ ôm nhau (trước sự giám sát chặt chẽ của an ninh, nên chẳng có gì đáng ngại). Nếu vợ con TXT chưa về nước được, thì quay phim phỏng vấn ở nước ngoài. Như vậy càng tốt, tránh được tiếng dèm pha, rằng tất cả chỉ là màn kịch được dựng lên trong nhà tù lớn. Việc đó chắc chắn chỉ tốt, chứ không thể gây ảnh hưởng xấu đến quá trình xử lý vụ án. Quan trọng là phải quay những đoạn phim sống động, rồi công bố trên VTV. Tại sao không?



Khúc mắc khó xơi nhất là phản ứng của mấy luật sư Đức. Từ trước đến nay TXT vẫn nói với họ, rằng không bao giờ tự nguyện nộp mình cho các cơ quan Việt Nam, bởi biết rõ, vì lý do chính trị, sẽ không được xét xử công bằng. Giả sử bỗng nhiên TXT đổi ý, định về nước đầu thú, thì ít nhất trước đó hắn cũng phải nói với họ, rằng tôi có việc phải đi xa và không muốn tiếp tục thuê luật sư nữa, nên chúng ta thanh toán và chấm dứt hợp đồng. Đằng này, hắn chẳng nói gì, chưa thanh toán tiền công luật sư đã biến. Phải chăng hắn có ý bùng để quịt tiền công? Nhưng tài sản của hắn vẫn còn nằm trên đất Đức, bùng thế nào được mà bùng? Không bùng, thì trước khi chủ động và tự nguyện rời khỏi nước Đức, hắn cũng phải tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê luật sư, để đỡ tốn tiền thuê luật sư một cách vô ích. Tiền Euro chứ có phải vỏ hến đâu. Một tay tham lam, lại hết thời như hắn, mà không kịp cắt hợp đồng, thì đích thị bị... bắt cóc rồi. Để xóa bỏ những suy diễn bất lợi như vậy, đơn giản nhất và tốt nhất là mời bà Petra Isabel Schlagenhauf cùng mấy luật sư khác đến Việt Nam, để trực tiếp đối chất với TXT. Lúc đó, chỉ việc quay phim buổi tiếp xúc giữa TXT và luật sư Đức, rồi công chiếu trên VTV, thế là xong.



Nếu công bố ngay lập tức mấy đoạn video tư liệu về hành trình tự đầu thú của TXT, tiếp đó quay và công chiếu cảnh gặp gỡ vui vẻ giữa TXT với người thân, và cảnh các luật sư Đức đối chất với TXT, thì sẽ khiến nhiều người tin hơn. Ngược lại, nếu thiếu một trong ba cảnh ấy, thì khó lòng xóa hết mọi nghi ngờ.



Thực ra, giá trị thuyết phục của mấy đoạn video kiểu ấy cũng không cao. Vì khi đã nằm trong trại giam ở Việt Nam, thì đương nhiên TXT sẽ phải làm theo mọi sắp đặt của công an, gia đình và người thân cũng phải "hợp tác" để giảm thiểu mức trừng phạt đối với TXT. Mặc dù vậy, có còn hơn không. Im lặng càng lâu, thì dư luận càng nghi ngờ là đang câu giờ để ngụy tạo. Do đó, không thể chần chừ thêm nữa. Nếu quả thật không bắt cóc TXT, thì phải lập tức công bố mấy đoạn video ấy, để chứng tỏ vô tội.



IV.2. Phương án kiên định nói dối



Trong trường hợp đã bắt cóc TXT, thì kiên định khẳng định học thuyết "TXT đầu thú" vẫn là phương án dễ thực hiện nhất. Nói dễ là vì nó vừa phù hợp với bản năng, vừa hợp với truyền thống và bề dày kinh nghiệm, đã gom góp suốt mấy chục năm kiên định, khẳng định tính ưu việt và sự tất thắng của học thuyết "xã hội chủ nghĩa". Về bản chất hiện thực, cả hai học thuyết đều giống nhau. Nhưng "xã hội chủ nghĩa" là thứ mà Thế giới đã chứng kiến trên thực tế suốt 100 năm (1917 - 2017), và đã ngã ngũ gần 30 năm trước - Vậy mà vẫn còn kiên định được. Còn học thuyết "TXT đầu thú" chưa đầy tháng, và chỉ mấy nhóm nhỏ trong bộ máy cầm quyền của hai nước biết rõ sự thật, số còn lại chỉ "nghe hơi nồi chõ" mà thôi - Vậy thì, trong hoàn cảnh chủ trương nhất quán của lãnh đạo đảng là kiên quyết chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", kiên định nào có khó.



IV.2.a. Cho dù xác định ngay từ đầu là sẽ nói dối, thì các nhà thực thi kiên định nói dối cũng cần hiểu, bàn đàm phán không phải là nơi để hai bên thi thố lừa nhau. Cho nên, cần tỉnh táo xác định xem có thể nói dối đến mức nào. Để xác định được giới hạn hợp lý, thì phải đánh giá đúng mức độ chênh lệch mặt bằng nói dối giữa hai nền văn hóa. Cả hai bên đều có thể nói dối, nhất là ở chính trường, nơi nói dối đã trở thành tập quán quốc tế. Nhưng cung bậc rất khác nhau, không chỉ về tần suất nói dối, mà cả về tâm lý nói dối. Một bên nói dối khi cần, nói dối rồi thì sợ lộ. Bên kia lại nói dối cả những điều không cần hoặc không nên nói dối, cốt là để mua vui; nói dối xong thì đem khoe, nhằm chứng tỏ ta đây thông minh sắc sảo hơn người. Một bên có đa số quanh năm nghiêm túc, nên đặt ra ngày cá tháng tư, để họ có dịp nói dối nhằm thư dãn đôi chút. Bên kia nói dối quanh năm, lẽ ra nên đặt ra một ngày nói thật để nghiêm túc lên một tí, thì lại nhập khẩu thêm ngày cá tháng tư, để nói dối thả phanh cho đã. Nếu không ý thức được độ vênh đó, rồi nghĩ rằng ta nói dối, họ cũng nói dối, thế là một đều. Trong hoàn cảnh đại diện cho bên có lỗi, nếu không hiểu được mức độ nghiêm túc và hiểu biết của đối phương, mà nói dối quá đà, thì chỉ khiến đối phương càng thêm phẫn nộ.



IV.2.b. Khi đôi co, đừng chủ quan nghĩ rằng phía Đức không hề biết những điều mình đang chối cãi. Họ rất giỏi điều tra, đồng thời cũng rất thận trọng và dè dặt trong phát ngôn. Thường thì họ chỉ hé ra một phần nhỏ những điều đã biết, mang tính cảnh báo. Phần còn lại giữ kín làm tư liệu đối chứng, để đánh giá đối phương, và làm quỹ dự phòng, để tung ra khi cần vạch mặt. Nếu không tin, hãy hỏi kinh nghiệm của bao người Việt, từng lang thang buôn thuốc lá trên đất Đức vào thập kỷ 90. Khi ấy, bà con mình sử dụng mấy tên giả khác nhau, để nhập vào mấy trại tị nạn khác nhau. Nhập càng nhiều trại thì càng lĩnh được nhiều tiêu chuẩn tị nạn. Và mỗi lần bị bắt vì tội buôn lậu thuốc lá, thì lại khai ra một bí danh tị nạn cùng với tên trại tị nạn tương ứng. Khai tên gì cảnh sát Đức cũng lẳng lặng ghi chép tên ấy. Thế rồi, sau bao năm tỏ ra nhẹ dạ cả tin, đến khi ký kết xong với phía Việt Nam về việc tiếp nhận lại một số người vượt biên vào Đức, cảnh sát Đức lần lượt bắt từng người. Và lại hỏi tên như thường lệ. Nghe xong câu trả lời thì nhỏ nhẹ: Thôi, họ tên quê quán thật của ngài là thế này, hãy nhận lại đi. Thế là hết vở. Vậy nên, đừng thấy đối phương lặng lẽ lắng nghe, mà tưởng mình lừa giỏi, lại tiếp tục liên thiên, cố chứng minh bản thân... xỏ lá.



Để minh họa về độ trễ lật bài của phía Đức trong vụ TXT, có thể nêu ra ví dụ về chiếc xe gây án, được thuê tại Praha (Cộng hòa Séc), cách nơi gây án Berlin 430 km. Theo thông cáo báo chí của Luật sư Petra Isabel Schlagenhauf, TXT bị bắt cóc vào khoảng 10h30 ngày 23/7/2017, trong lúc đang đi dạo ở công viên Tiergarten ở Berlin, và cảnh sát Berlin bắt đầu tiến hành điều tra sự việc vào ngày 24/7/2017. Theo ông Bùi Quang Hiếu (người cho thuê chiếc xe), ngày 28/7/2017 (tức là 4 ngày sau khi bắt đầu điều tra) cảnh sát đã đến tra hỏi ông và thu giữ chiếc xe. Vì được đăng ký chống trộm với công ty bảo vệ, nên dữ liệu GPS về toàn bộ lộ trình chiếc xe được lưu trữ đầy đủ. Do đó có thể nói, đến ngày 28/7/2017 cơ quan điều tra đã biết khá nhiều về bản chất và diễn biến vụ bắt cóc. Vậy mà ngày 4/8/2017 (tức là 7 ngày sau khi thu xe), thông tin về chiếc xe gây án có cài đặt hệ thống GPS mới được hở ra cho báo chí. Có lẽ, sau khi Bộ Ngoại giao CHLB Đức đã ra thông cáo báo chí vào ngày 2/8/2017, mà phía Việt Nam vẫn không có động thái thừa nhận, nên phía Đức mới phải bồi thêm thông tin về chiếc xe, để cảnh cáo nhắc nhở.



Hiển nhiên, muộn nhất là ngày 28/7/2017, khi cả người cho thuê lẫn người thuê xe đều bị cảnh sát thẩm vấn và chiếc xe gây án bị thu giữ, thì đường dây đã biết rằng bị lộ. Và có lẽ đó không phải dấu hiệu bị lộ duy nhất. Bởi vì ngày 25/07/2017 (tức là 3 ngày trước khi thu xe), cảnh sát đã thông báo cho Luật sư Petra Isabel Schlagenhauf: Hầu như không còn nghi ngờ gì về việc mật vụ Việt Nam đã bắt cóc một người Việt giữa Berlin. Thử hỏi, việc Bộ Công an đột ngột đưa tin "TXT đầu thú" vào ngày 31/7/2017 chịu tác động nhiều hơn bởi yếu tố bị lộ (ở Đức và Séc), hay bởi câu "Trịnh Xuân Thanh về mà báo chí im ắng nhỉ" do Huy Đức viết vào ngày 30/7/2017? Một số người quy hết trách nhiệm cho Huy Đức, đã để lộ bí mật quốc gia, khiến chính quyền rơi vào thế bị động, phải vội vã công bố tin "TXT đầu thú", nên không có đủ thời gian diễn trọn kịch bản, dẫn đến tổn thất to lớn cho đất nước. Bắt cóc TXT thì được bênh vực. Để lộ chuyện "TXT về" thì bị lên án, bị đổ hết trách nhiệm lên đầu. Như vậy liệu có công bằng không?



IV.2.c. Điều quan trọng nhất, trước quyết định kiên định nói dối, thì cần ước lượng xem sẽ kiên định được bao lâu. Người Đức có câu: "Lügen haben kurze Beine". Dịch nôm na là "dối trá ngắn chân", nên không đi được xa, không trụ được lâu, chẳng mấy chốc sẽ phải dừng lại. Tức là, nếu dối trá thì sớm muộn cũng bị lộ tẩy. Nếu cuối cùng cũng phải thừa nhận, thì nhận sớm có hơn không?



Vẫn lưỡng lự, có lẽ vì sợ mất thể diện. Đối với những người đã quá thất vọng, thì thể diện lãnh đạo chẳng còn, để mà lo mất. Nhưng đối với triệu người còn bám phao niềm tin xì hơi, để biện hộ đời mình, thì mất thể diện lãnh đạo sẽ khiến mất niềm tin, khó tránh khỏi đổ vỡ. Đau đớn nhất là những ai không chỉ tin tưởng, mà còn đem cả danh dự cá nhân để bảo vệ uy tín của tổ chức. Tiếc thay, chế độ không thể bền vững khi dựa vào niềm tin mê man.



Nên hiểu rằng: Nếu thừa nhận đủ sớm, thì còn có cơ hội đổ lỗi cho "phường đánh máy" và dễ khắc phục hậu quả hơn. Ngược lại, im lặng hay cố cãi càng lâu, thì chứng tỏ cấp ra lệnh càng cao. Thiên hạ có thể suy diễn tùy tiện, ví dụ như sau: Kiên định nói dối 5 ngày chứng tỏ vị đầu têu tầm vụ trưởng. Kiên định nói dối 10 ngày chứng tỏ vị đầu têu tầm bộ trưởng. Kiên định nói dối 20 ngày chứng tỏ vị đầu têu cỡ thủ tướng. Kiên định nói dối 30 ngày chứng tỏ vị đầu têu là... ai?



IV.3. Phương án thành khẩn hối lỗi



Xét tiếp trường hợp đã bắt cóc TXT, thì theo phương án này, cần sớm thừa nhận sai lầm. Việc chỉ ra vị đầu têu đích thực có thể chỉ là vấn đề thứ yếu. Vì có lẽ phía Đức cũng tránh truy cứu đến cùng, nếu nghĩ đó là chốn... tận cùng. Quan trọng hơn, là phải chân thành thừa nhận, rằng hành động như vậy là sai, và phải thành tâm xin lỗi.



IV.3.a. Thừa nhận và xin lỗi vẫn chưa đủ. Trong thông cáo báo chí ngày 2/8/2017 của Bộ Ngoại giao Đức, phía Đức chẳng đòi phía Việt Nam phải thừa nhận hay xin lỗi, mà thẳng thừng lên án "sự vi phạm trắng trợn chưa từng có đối với luật pháp Đức và luật pháp quốc tế", đồng thời khẳng định rõ ràng rằng:

"Die Bundesregierung verlangt, dass Herr Trinh Xuan Thanh unverzüglich nach Deutschland zurückreisen kann, damit der Antrag auf Auslieferung und der Antrag auf Asyl jeweils in einem rechtstaatlichen Verfahren zu Ende geprüft werden können."

Dịch ra tiếng Việt là:

"Chính phủ Liên bang Đức đòi hỏi, rằng ông Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức, để cả đề nghị dẫn độ và đơn xin tỵ nạn đều có thể được xem xét đến cùng đúng theo trình tự pháp lý."

Nghĩa là Chính phủ Đức yêu cầu phía Việt Nam để cho "ông Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức", tất nhiên là theo nguyện vọng của TXT.



Tiếc rằng, không hiểu do vô tình hay hữu ý, mà một số báo lại viết rằng: "Đức yêu cầu Việt Nam trao trả ông Trịnh Xuân Thanh". Thuật ngữ "trao trả" đã khiến một số người hiểu lầm, lạc vào cuộc tranh luận, rằng TXT là công dân Việt Nam, tại sao phía Đức lại đưa ra đòi hỏi phi lý, là Việt Nam phải "trao trả" TXT cho Đức?



Tất nhiên phía Việt Nam có thể trưng ra một đoạn video, trong đó TXT tuyên bố, rằng ông ta đã về nước một cách tự nguyện, và hiện nay không muốn quay lại Đức nữa. Song, khi mà phía Đức đã tuyên bố, rằng việc tổ chức bắt cóc TXT giữa Thủ đô Berlin đã "hủy hoại nghiêm trọng lòng tin", thì họ sẽ không thể tin vào tính trung thực của đoạn video. Họ chỉ tin, khi TXT được quay lại Đức, đứng trên mảnh đất tự do, trong hoàn cảnh không hề bị khống chế, tuyên bố rút lại đơn xin tị nạn, và tự nguyện trở về Việt Nam để đầu thú. Nếu phía Đức chỉ đòi hỏi có vậy, thì dựa vào đâu mà phía Việt Nam từ chối?



Cho nên, để chứng tỏ thực sự chân thành, thực sự thành tâm, Chính phủ Việt Nam buộc phải chấp nhận thực hiện đòi hỏi của Chính phủ Đức, là để "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức". Và chỉ như vậy thì phía Đức mới tin vào sự thành tâm của phía Việt Nam.



Lý do khiến phía Đức đã, đang và sẽ tiếp tục khẳng định đòi hỏi phải để "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức", không phải nhằm khôi phục lòng tin với "đối tác chiến lược", mà để khôi phục sự tôn nghiêm pháp quyền, đã bị hành vi bắt cóc làm tổn thương, và để chứng tỏ với dân Đức, rằng Chính phủ Đức đã kết luận đúng và không hành động nửa vời. Nghĩa là vừa đảm bảo tính nguyên tắc, vừa bảo vệ danh dự của Chính phủ Đức.



IV.3.b. Nếu chấp nhận đòi hỏi của Chính phủ Đức, nhà cầm quyền Hà Nội lại lúng túng với câu hỏi của dư luận trong nước: Tại sao lại thả một kẻ đã bị truy tố, bị truy nã, mà phải mất rất nhiều thời gian công sức thì mới bắt được? Phải giải thích thế nào với những công dân đang hồ hởi, coi việc tóm được TXT là một thành công lớn của công tác chống tham nhũng, dưới sự lãnh đạo tài tình của Tổng Bí thư?



Có lẽ chẳng còn cách nào khác, là Chính phủ Việt Nam phải công khai thừa nhận với toàn dân, là cách bắt TXT như vậy là sai, là vi phạm luật pháp Đức, luật pháp quốc tế, và cả luật pháp Việt Nam. Kết quả của hành vi phi pháp thì không thể coi là một thành công, nên bây giờ phải hủy bỏ, bằng cách tạm thả TXT ra để khắc phục hậu quả, rồi sau đó sẽ tiến hành bắt lại từ đầu, theo đúng với quy định của pháp luật.



Lo mất mặt ư? Sai lầm tày trời của cải cách ruộng đất mà còn dám thừa nhận, thì tại sao không dám thừa nhận sai lầm trong vụ TXT? Đã phạm biết bao sai lầm người người đều biết, thừa nhận vài sai lầm thì có quá nhiều đâu? Tiếc thay, thừa nhận sai lầm đã trở thành một thứ quý hiếm, có nguy cơ bị tiệt chủng trong quần thể mà sĩ diện cao hơn hẳn lòng tự trọng.



IV.3.c. Chắc Chính phủ Việt Nam lo ngại, xử lý như vậy là thả hổ về rừng, sẽ không bắt lại được. Điều đó là hiện thực. Nếu khi trở lại Đức, TXT không rút đơn xin tị nạn, mà tiếp tục xin tị nạn chính trị, thì khả năng được chấp nhận rất cao. Đơn giản vì nhà cầm quyền Hà Nội đã vô tình giúp TXT, chứng minh rằng có yếu tố chính trị trong việc truy nã TXT. Và cho dù đơn xin tị nạn không được chấp nhận, thì khó lòng có chuyện dẫn độ. Vì sao? Với việc bắt cóc trắng trợn diễn ra giữa Thủ đô Berlin, các luật sư của TXT đã có đủ bằng chứng, để chứng minh yếu tố chính trị của vụ án, và để lập luận rằng: Không thể đảm bảo TXT sẽ được xét xử công bằng và đúng luật bởi một bộ máy công quyền sẵn sàng vi phạm pháp luật Đức một cách thô bạo. Với hai lý do ấy, chẳng thế lực nào có thể thắng nổi các luật sư Đức trước tòa án Đức. Và khi đó, TXT sẽ không bị dẫn độ từ Đức về Việt Nam.



Nếu kết cục sẽ như vậy, thì thể diện của nhà cầm quyền Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng mất mát sẽ không quá nhiều. Những gì cần khai thác và lưu trữ để phục vụ các vụ án liên quan thì họ đã kịp thu thập đủ, trước khi để TXT quay lại Berlin. Thậm chí, việc TXT biến khỏi Việt Nam còn giảm bớt nguy cơ hắn sẽ khai quá đà, lộ cả "thành tích" của các đồng chí "phe ta". Quan trọng là quyết định không dẫn độ TXT sẽ là bằng chứng hùng hồn, để thế lực cầm quyền ở Việt Nam có thể biện minh cho hành vi bắt cóc: Thấy chưa, ngoài phương án vào Đức để bắt cóc tên tội phạm TXT, thì còn cách nào khác nữa đâu.



IV.3.d. Về phía Đức, nếu TXT được thả khỏi trại giam và trở lại Đức, thì đó là một thành công, cả về mặt ngoại giao lẫn mặt pháp lý. Bộ máy an ninh cũng đỡ bị mang tiếng là kém cỏi, để mật vụ cộng sản hoành hành bắt người giữa Thủ đô. Có điều, sau khi hoan hỉ thì chẳng biết nên làm gì với chiến lợi phẩm. Vốn dĩ TXT chỉ là loại vô danh ở Đức, nay nhờ có vụ bắt cóc mà trở nên nổi tiếng, thế mới đâm ra khó xử. Cưu mang một mình TXT thì chẳng thành vấn đề, nhưng nhỡ đám quan chức cộng sản tham nhũng tưởng đó là tín hiệu vẫy gọi, khi bị truy nã kéo cả sang Đức thì sao? Ừ thì họ không phải là đối tượng mà xã hội Đức e ngại, như đám khủng bố IS, nhưng chính quyền Đức cũng chẳng thích thú gì, khi phải liên miên xử lý đề nghị dẫn độ của "bên thắng cuộc". Và nếu không chấp nhận dẫn độ đủ nhanh, thỉnh thoảng lại diễn ra một vụ bắt cóc ở Đức thì sao?



Nếu dẫn độ được, thì cũng nhẹ gánh. Nhưng khổ nỗi không thể thắng nổi mấy vị luật sư, và cũng không thể qua mặt tòa án để mà dẫn độ. Cuối cùng, khi phải chấp nhận cho TXT tị nạn chính trị ở Đức, thì lại bị chính quyền và dư luận Việt Nam chỉ trích là chứa chấp tội phạm. Kể cả khi TXT tự mình ra khỏi Đức, để lẩn trốn ở một nước khác, thì có thể phía Việt Nam vẫn cáo buộc phía Đức bao che, giấu tên tội phạm ở đâu đó trong nước Đức. Ngoài niềm hoan hỉ ban đầu, thì chẳng được thêm cái gì, mà chỉ thấy mất mà thôi.



IV.4. Phương án cùng thắng



Trong phần này, ta xét tiếp trường hợp đã bắt cóc TXT, phía Việt Nam chân thành thừa nhận, rằng hành động như vậy là sai, và thành tâm xin lỗi. Song khác phương án IV.3 ở chỗ, phía Việt Nam không để "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức". Vậy thì phía Đức nên giải quyết thế nào? Một giải pháp có thể chấp nhận được, là dàn xếp để sớm xét xử TXT ở Việt Nam, với sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, với sự bào chữa của luật sư Đức, và với sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức.



Đây là một giải pháp khả thi. Chính phủ Đức đã có nhượng bộ trong vấn đề quan trọng và hóc búa nhất, nên để đổi lại, có quyền đòi hỏi phải có "sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, với sự bào chữa của luật sư Đức, và với sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức" khi xét xử TXT. Chính phủ Việt Nam là bên có lỗi, nên được như vậy là đã quá nhiều, tốt hơn hẳn so với việc phải để "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức".



Vả lại, vẫn thường khẳng định là xét xử công bằng và công khai, thì phía Việt Nam không thể đưa ra lý do chính đáng nào để từ chối luật sư Đức và nhà báo Đức. Và nếu quả thật không định làm điều gì khuất tất, thì không việc gì phải khước từ sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức. Thậm chí, trong hoàn cảnh này, Chính phủ Việt Nam còn phải chủ động mời Chính phủ Đức cử đại diện đến chứng kiến phiên xét xử, để giảm căng thẳng ngoại giao và chứng tỏ mình xét xử công bằng.



Đây là phương án mà mọi bên đều cùng thắng (win-win). Để chứng minh nhận định này, sau đây ta sẽ lần lượt xét kiểu thắng của từng bên.



IV.4.a. Đối với Chính phủ Việt Nam, đây là phương án tốt nhất trong trường hợp đã bắt cóc TXT. Trong khuôn khổ của bài viết này và trong trường hợp này, "tốt nhất" có nghĩa là tốt hơn "phương án kiên định nói dối" (được trình bày ở phần IV.2) và "phương án thành khẩn hối lỗi" (được trình bày ở phần IV.3).



Thật vậy, đối với Chính phủ Việt Nam thì rõ ràng phương án này tốt hơn hẳn "phương án thành khẩn hối lỗi", trong đó chấp nhận phải để "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức". Còn nếu lựa chọn "phương án kiên định nói dối", thì chắc chắn cuối cùng cũng sẽ bị lộ, sẽ nhục nhã ê chề, mất hết thể diện ở cả trong nước lẫn trên trường quốc tế.



Một lợi thế của phương án này, là có thể giấu kín quá trình và kết quả đàm phán. Nên bộ máy tuyên truyền, báo chí vẫn có thể ca tiếp bài "ta thắng địch thua", nhờ sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của lãnh đạo đảng. Tất nhiên, phía Đức sẽ phải công bố một số nội dung để đáp ứng đòi hỏi của dư luận Đức. Nhưng chặn một số đường truy cập internet và cấm đài báo trong nước đưa tin, thì cũng có thể nâng giấc ngủ ngon cho mấy chục triệu công dân.



IV.4.b. Đối với Chính phủ Liên bang Đức, đây có lẽ cũng là phương án tốt nhất. Nếu phía Việt Nam chọn "phương án kiên định nói dối", thì phía Đức có thể tung ra các bằng chứng vạch trần. Nhưng nếu vẫn cứ trơ trơ thì biết làm gì tiếp? Công khai tố cáo hành vi xấu xa của chính quyền cộng sản, thì dân Đức lại phẩy tay, "biết rồi, khổ lắm, nói mãi". Trừng phạt kinh tế thì thiệt hại cả đôi bên, lại làm khổ lây cả dân lành vô tội; còn bọn tham quan thì vẫn phây phây, bởi đối với chúng thì tài sản toàn dân mới là nguồn vơ vét vô tận. Cuối cùng thì vẫn phải dàn hòa, để bắt tay hợp tác. Còn nếu phía Việt Nam nhận lỗi và đồng ý để "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức", thì lại phải gánh hậu họa đã được phân tích trong phần IV.3.d.



Nói cho cùng, sở dĩ phía Đức chưa chấp nhận, hoặc không chấp nhận dẫn độ TXT về Việt Nam, là do lo ngại TXT không được xét xử công bằng, đúng pháp luật. Điều đó là hiện thực. Nhưng nếu chọn "phương án cùng thắng", với sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, sự bào chữa của luật sư Đức, cùng sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức, thì khả năng TXT được xét xử công bằng tăng lên rất nhiều. Còn nếu TXT vẫn không được xét xử công bằng, thì đó cũng là bằng chứng hùng hồn, chứng tỏ điều phía Đức lo ngại là đúng. Vì thế, phía Việt Nam không thể dùng lý do chưa dẫn độ hoặc không dẫn độ để biện hộ cho hành vi bắt cóc. Có nghĩa là sự cáo buộc và lên án của Chính phủ Đức là hoàn toàn chính xác.



Có thể coi sự hiện diện của phía Đức trong phiên tòa xét xử TXT tại Hà Nội là một thành công đặc biệt của Chính phủ Đức, vì chưa bao giờ Chính phủ Việt Nam chấp nhận một sự "can thiệp" tương tự. Qua đó có thể góp phần đem lại một phiên tòa mẫu mực, phù hợp với nguyên tắc nhà nước pháp quyền đích thực, thứ hoàn toàn xa lạ ở Việt Nam. Và có thể dùng nó làm cú hích khởi đầu, giúp cho các lực lượng tiến bộ ở Việt Nam có thêm động lực để tiến hành cải cách thực sự, nhằm xây dựng một nhà nước pháp quyền đích thực.



Những phiên xét xử chuẩn mực như vậy không chỉ kích thích hệ thống tòa án chuyển mình, mà còn buộc hệ thống điều tra và hệ thống công tố phải nghiêm túc rút kinh nghiệm, tránh tái diễn tập quán điều tra - công tố sai trái, đã trở thành bản năng cố hữu. Nếu hệ thống điều tra - công tố - xét xử chuyển biến theo hướng tiến bộ, thì sẽ tác động rất tích cực đến việc xây dựng xã hội dân chủ - công bằng - văn minh một cách thật sự, chứ không còn là khẩu hiệu trơ tráo.



Nếu tận dụng được vụ xét xử TXT để làm điểm khởi đầu cho một tiến trình cải cách tốt đẹp như vậy, thì có lẽ hiệu quả giúp đỡ của Chính phủ Đức đối với Nhân dân Việt Nam trong dịp này còn lớn hơn tất cả các giúp đỡ từ trước đến nay. Đó sẽ là một thành công ngoài trí tưởng tượng.



IV.4.c. Đối với luật sư Đức, nếu bào chữa trên đất Đức, để TXT không bị dẫn độ và được chấp nhận tị nạn chính trị, thì họ tin chắc là sẽ thắng. Nhưng vì kết quả rõ ràng như vậy, nên cũng chẳng đáng coi là kỳ tích của luật sư. Còn nếu bào chữa ở Việt Nam, thì chỉ riêng việc luật sư Đức tranh tụng tại tòa án CHXHCN Việt Nam đã là một kỳ tích. Hơn nữa, trách nhiệm của họ chỉ là tranh tụng để TXT không bị xét xử trái pháp luật. Nếu được như vậy thì luật sư đã đạt được một chiến công rực rỡ, hiếm hoi. Còn nếu TXT phải nhận một bản án bất công, thì đó cũng là điều mà dư luận đã quá quen, nên không ai trách cứ luật sư cả.



Tuy nhiên, phía Đức phải nghiên cứu kỹ các quy định về người bào chữa trong luật pháp Việt Nam (xem Phụ lục P2), nếu không muốn các luật sư Đức mất công bay tám ngàn rưỡi km, chỉ để đứng trước cổng của nơi xét xử, giống như hoàn cảnh của Nghị sĩ Quốc hội Đức Martin Patzelt tại phiên tòa phúc thẩm xét xử Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy vào ngày 23/9/2016.



IV.4.d. Đối với đường dây bắt cóc, họ đang đứng trước nguy cơ bị truy tố về tội "hoạt động gián điệp" (Điều 99 Bộ luật Hình sự Đức)"tước đoạt tự do" (Điều 239 Bộ luật Hình sự Đức). Nếu phía Việt Nam chọn "phương án kiên định nói dối", thì phía Đức buộc phải làm tận cùng, kể cả hình thức kiện ra tòa án quốc tế. Còn nếu phía Việt Nam đồng ý để "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức", thì TXT sẽ khai ra tất cả diễn biến của quá trình bắt cóc, như thế còn nguy hiểm hơn nhiều. Cho nên, "phương án cùng thắng" rõ ràng là tốt nhất, vì khi đó đường dây bắt cóc sẽ được phía Việt Nam bảo vệ an toàn nhất như có thể.



IV.4.e. Đối với khối cảm tình viên, nếu "phương án kiên định nói dối" được chọn, họ có thể sống thêm ít lâu trong không khí hò reo cổ vũ. Song đến pha thế lực cầm quyền phải cúi đầu, thì không thể ca tiếp bài ca ra trận. Còn nếu "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức", thì chẳng tránh khỏi bẽ bàng. Vậy chi bằng chấp nhận "phương án cùng thắng", để mà cùng thắng.



IV.4.f. Đối với Nhân dân Việt Nam, đáng trăn trở nhất là trả lời câu hỏi: Có thể chống tham nhũng thành công trong một thể chế, mà tham nhũng đã trở thành bản chất, và số phận của nó tựa như bị ung thư di căn giai đoạn cuối, hay không? Nếu trả lời là không, thì chống thế nào cũng vô dụng, mà hiệu quả chỉ giống như mổ xẻ bệnh nhân ung thư đã di căn mà thôi.



Đấu đá, thanh trừng phe nhóm là chuyện thường tình trên chính trường. Trong hoàn cảnh độc đảng cầm quyền, thì đấu đá phe nhóm cũng có tác dụng tốt, vì họ tố cáo và kiềm chế lẫn nhau. Chứ nếu quyền lực được thu về một mối, trên dưới đoàn kết một lòng, thi đua tham nhũng, bao che cướp đất… thì dân còn khổ hơn nhiều.



TXT ư? Loại hắn thì tất nhiên đáng xử. Nhưng nếu hắn đáng xử 10.000 lần, thì cũng chỉ nên xử một lần thôi. Phải dành 9.999 lần cho 9.999 đồng chí khác. Đừng quên lời dạy: "Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng."



Rắn thì chẳng dám chặt đầu. Đỉa đem ra chém thì không hết và cũng chẳng chết. Mỗi nhát chém lại sinh thêm một con đỉa khác, phỏng ích gì? Vậy nên, bắt được TXT không nên coi là sự kiện trọng đại. Ngày xử TXT không nên coi là ngày hội lớn.



Song nếu "Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức", rồi được cư trú chính trị ở Đức, thì sẽ càng động viên đám quan chức yên tâm tham nhũng hại dân, khi gãy cầu cao chạy xa bay, ra nước ngoài đợi đến ngày vận may trở lại.



Chắc đa số người dân ủng hộ mang TXT ra xét xử. Nhưng phải xét xử một cách công bằng, bởi một tòa án nghiêm túc, phán xử đúng luật, chứ không phải bởi một mắt xích của "bên thắng cuộc", đang được tung ra để truy kích đối phương. Rõ ràng là "phương án cùng thắng" phù hợp nhất với mục tiêu này.



Nếu giấc mơ được mô tả ở cuối phần IV.4.b trở thành hiện thực, thì sẽ có ngày hệ thống điều tra - công tố - xét xử trở nên tử tế. Sẽ xóa được nạn nghi can "tự tử" hay "tự hành hạ" bầm tím trong đồn công an. Nhờ thế, 10 năm sau, khi ra tù, Mẹ Nấm - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh sẽ không còn cơ hội thu thập tư liệu, để tái phạm "Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Và khi tòa án thực sự xử đúng người đúng tội, thì biết đâu nạn tham nhũng sẽ không còn hoành hành như thời "chống tham nhũng khó vì ta tự đánh ta".



Khi "cuộc đời bỗng đẹp sao" thì thắng nhất chính là Nhân dân. Lúc ấy nhớ lại, muôn dân sẽ biết ơn những ai đã chung sức để "cùng thắng". Và biết đâu cao hứng, còn cảm ơn cả TXT và cả đường dây bắt cóc TXT, vì đã tạo duyên cớ, để có được tình huống win-win?



Vậy là, theo "phương án cùng thắng" thì cả 5 bên "cùng thắng". Nếu được như vậy, thay vì viết "win-win", có lẽ nên viết "win-win-win-win-win", để lột tả hết niềm vui "cùng thắng".



IV.5. Tóm lại, nếu không hề có chuyện bắt cóc TXT giữa Berlin, thì tất nhiên phía Việt Nam phải thực hiện "phương án kiên định nói thật". Như đã trình bày trong phần IV.1, không dễ thuyết phục để phía Đức và tất cả dư luận tin vào khẳng định của phía Việt Nam.



Còn nếu chuyện bắt cóc TXT là đúng sự thật, thì có 3 phương án có thể thực hiện. Thứ nhất là "phương án kiên định nói dối". Như đã trình bày trong phần IV.2, mặc dù phù hợp với sở trường và có nhiều kinh nghiệm, nhà cầm quyền Hà Nội khó có thể phủ định cáo buộc của phía Berlin, và cuối cùng cũng bị lộ tẩy mà thôi.



Thứ hai là "phương án thành khẩn hối lỗi", được xét trong phần IV.3. Theo phương án này, phía Việt Nam chân thành thừa nhận sai lầm và thành tâm xin lỗi, đồng thời chấp nhận đòi hỏi của Chính phủ Liên bang Đức, là để "TXT có thể quay lại Đức ngay lập tức, để cả đề nghị dẫn độ và đơn xin tỵ nạn đều có thể được xem xét đến cùng đúng theo trình tự pháp lý". Đây là phương án mà phía Việt Nam buộc phải chấp nhận, nhưng lại khó chấp nhận. Nếu được như vậy thì phía Đức toại nguyện, nhưng "niềm vui chẳng tày gang", vì sẽ bị khó xử với trường hợp TXT.



Thứ ba là "phương án cùng thắng", được xét trong phần IV.4. Theo phương án này, phía Việt Nam cũng chân thành thừa nhận sai lầm và thành tâm xin lỗi, nhưng không để "TXT có thể quay lại Đức". Đổi lại, phía Việt Nam chấp nhận sớm xét xử TXT ở Việt Nam, với sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, với sự bào chữa của luật sư Đức, và với sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức. Thông thường, phía Việt Nam không thể chấp nhận điều kiện này, với lý do vi phạm chủ quyền thiêng liêng của Nhà nước Việt Nam. Nhưng vừa mới vi phạm chủ quyền của Nhà nước Đức, mà bây giờ lại lập luận như thế, thì không khác nào tự vả vào mặt mình. Phương án này không chỉ khả thi, mà đáng nói hơn là cả 5 bên cùng thắng, đó là Chính phủ Việt Nam (IV.4.a), Chính phủ Liên bang Đức (IV.4.b), luật sư Đức (IV.4.c), đường dây bắt cóc (IV.4.d), khối cảm tình viên (IV.4.e), và đặc biệt là Nhân dân Việt Nam (IV.4.f).





V. Mấy điều cần chốt lại



V.1. Về việc chống tham nhũng



Tham nhũng đã, đang và sẽ còn hành hạ muôn dân, tàn phá đất nước, mà hậu quả có thể kéo dài hàng thế kỷ. Vì vậy, đương nhiên phải cương quyết chống tham nhũng.



Trong một nhà nước pháp quyền, lý do chống tham nhũng không thể là vì ghét, hay vì ghen, mà phải dựa trên cơ sở pháp lý: Tham nhũng là một hành vi phi pháp. Không thể chống hành vi phi pháp bằng hành vi phi pháp. Nên đương nhiên, mọi hoạt động chống tham nhũng phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, đúng với quy định của pháp luật.



Nếu cầm quyền mà hành xử phi pháp, thì xét về phương diện pháp lý, cũng chẳng hơn gì kẻ tham nhũng. Hơn nữa, cách hành xử giang hồ sẽ khiến dư luận phải đặt câu hỏi: Thứ ấy có đủ tư cách để đứng ra chống tham nhũng hay không? Và có thật là chống tham nhũng, hay chỉ mượn danh chống tham nhũng, để triệt hạ đối phương, nhằm thay ca tham nhũng và phân chia lại thị phần tham nhũng?



Nếu muốn dư luận bớt nghi ngờ, thì hãy xử ngay bao trường hợp dễ làm. Nhiều tội đồ còn nhởn nhơ ngay trong nước, thậm chí còn đương chức, sao không bắt đi, mà gác lại, rồi tập trung bắt bằng được kẻ đã trốn ra nước ngoài? Nếu muốn chứng tỏ thực tâm chống tham nhũng, thì hãy ưu tiên làm trước chuyện dễ, đó là xử lý trước sâu mọt ở phe mình. Dễ vì không bị các phe khác chống lại, mà còn được tiếng thơm "Hoàng thượng công minh". Còn tầm tham nhũng thì cũng na ná như nhau. Đằng nào thì hạng chuyên cơ cũng được miễn trừ, còn hạng nhất, hạng thương gia và hạng phổ thông thì phe nào mà chẳng có.



V.2. Về vụ TXT



Nếu quả thật đã bắt cóc TXT ở Berlin để đưa về Hà Nội "đầu thú", thì đó là một điều hoàn toàn không thể chấp nhận được. Hành vi ấy vi phạm nghiêm trọng luật pháp Đức, luật pháp quốc tế và cả luật pháp Việt Nam. Vì vậy không thể coi hành vi phi pháp ấy là hành vi chống tham nhũng. Không gì có thể biện minh được cho một hành động ngang ngược như vậy.



Trong trường hợp này, cách khắc phục hợp lý nhất là nhanh chóng thừa nhận sự thật sai lầm, thành thật xin lỗi phía Đức, và chân thành bàn bạc với phía Đức để tìm ra giải pháp tốt nhất cho cả hai bên, không chỉ nhằm khắc phục hậu quả, mà còn để cùng nhau hợp tác có hiệu quả trong tương lai.



Nếu vì đặt sĩ diện cá nhân lên trên lòng tự trọng dân tộc, lên trên quyền lợi quốc gia, mà cố phủ định sự thật, hoặc chần chừ quá lâu, thì có thể sẽ gây ra những hậu quả vô cùng to lớn, không thể lường hết được. Lúc đó, dư luận sẽ phải đặt câu hỏi: Xét về phương diện gây thiệt hại cho dân cho nước, thì giữa TXT và băng bắt cóc TXT, tội ai to hơn ai? Và nếu chống tham nhũng mà gây tác hại còn lớn hơn cả tham nhũng, thì chống để làm gì?



Khi giải quyết vấn đề TXT, cần lưu ý rằng: Khúc mắc hiện nay không chỉ nằm ở mối quan hệ giữa chính quyền Việt Nam với chính quyền Đức, mà còn ở mối quan hệ giữa dàn luật sư Đức của TXT với chính quyền Đức, và giữa dàn luật sư Đức với chính quyền Việt Nam. Luật sư Việt Nam có thể bị chính quyền khống chế, nhưng luật sư Đức chỉ phục tùng pháp luật Đức, Chính phủ Đức không thể chi phối họ. Chính quyền Đức có thể thỏa thuận và nhượng bộ với chính quyền Việt Nam, nhưng nếu thỏa thuận ấy vi phạm pháp luật Đức, thì dàn luật sư ấy sẽ không để yên. Ở Đức, luật sư thắng kiện Chính phủ là điều có thể, lại rất vinh quang, được tiếng tăm tốt cho nghề nghiệp, vậy thì đâu dễ bỏ qua. Chính phủ Đức có thể thỏa hiệp vì những mục tiêu và quyền lợi khác nhau, nhưng dàn luật sư Đức của TXT thì chỉ có mục tiêu duy nhất, gắn liền quyền lợi bản thân, đó là thắng trong vụ này. Vì vậy, trong mọi nước cờ đều phải tính đến yếu tố luật sư Đức.



V.3. Với dư luận



Trong vụ TXT, Chính phủ Đức đã xử lý đúng với quy định của pháp luật Đức, theo đúng nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Vì vậy, không thể dùng lý do phía Đức chưa chấp nhận dẫn độ TXT, để biện hộ cho "sự vi phạm trắng trợn chưa từng có đối với luật pháp Đức và luật pháp quốc tế". Và cần hiểu rằng: Phản ứng phẫn nộ và nghiêm khắc của phía Đức là hoàn toàn chính đáng.



Nếu chưa hiểu được cách xử lý và phản ứng của phía Đức trong vụ TXT, thì hãy cố gắng nghiên cứu tìm hiểu, để hiểu cơ sở pháp lý cho hành động của họ. Đừng quá tự tin vào tầm kiến thức của bản thân, mà cố thủ trong lô cốt tư duy, rồi tùy tiện bắn ra những lời chỉ trích vô lý. Và đừng quên rằng: Vụ việc diễn ra trên đất Đức, nên phải tuân theo luật của Đức, chứ không phải "luật rừng".



Nhiệt thành ủng hộ chống tham nhũng là đúng, là tốt. Nhưng cần tỉnh táo, để nhận biết bản chất của từng trận và phân biệt đúng sai của từng hành động. Cũng giống như đi xem bóng đá, ít nhất cũng phải phân biệt được đội nào đá với đội nào và đá đấm ra sao. Không thể cứ thấy đá là hò hét hoan hô, mà không thèm quan tâm xem đang đá bóng hay đang đá người, rồi quay ra chửi trọng tài khi thấy giơ thẻ đỏ.





Phụ lục



P1. Ví dụ minh họa về vai trò của giới tinh hoa trong việc lập hiến



Hiến pháp Mỹ được soạn thảo và thông qua tại Hội nghị Hiến pháp (Constitutional Convention), diễn ra từ ngày 25/5/1787 đến 17/9/1787 tại Philadelphia. 74 đại biểu được chỉ định, nhưng chỉ 55 người có mặt. Họ thực sự đại diện cho tinh hoa của nước Mỹ thuở ấy, đến mức Thomas Jefferson (Tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ, lúc đó đang ở Pháp) đã viết cho John Adams (Tổng thống thứ 2 của Hoa Kỳ, lúc đó đang ở Anh) rằng: “Đó thực sự là một đội hình của các á thánh" (It really is an assembly of demigods).



Sau gần 4 tháng làm việc, với bao thỏa thuận và thỏa hiệp, ngày 17/9/1787 phương án cuối cùng được hoàn thành và 39 người đã ký tên vào Hiến pháp. Tuy nhiên, nhiều người không hài lòng với kết quả ấy, đến mức một số đại biểu đã bỏ hội nghị trước lễ ký, và 3 người còn ở lại nhưng khước từ ký tên.



Tiếp đó, 3 Bang đã phê chuẩn Hiến pháp trong tháng 12/1787, 8 Bang phê chuẩn trong năm 1788, 2 Bang còn lại phê chuẩn trong năm 1789 và năm 1790. Trong khi đạt được 100% đồng thuận tại các Bang Delaware, Georgia và New Jersey, thì chỉ nhận được 52% đồng thuận tại Bang Rhode Island, 53% tại 2 Bang Massachusetts và Virginia, và 55% tại Bang New Hampshire. Tổng cộng, trên cả 13 Bang, có 1.648 đại biểu tham gia bỏ phiếu phê chuẩn, trong đó có 1.071 phiếu tán thành và 577 phiếu không tán thành.



Như vậy, Hiến pháp Mỹ được sáng tạo bởi 55 trí tuệ tinh hoa, cuối cùng chỉ 39 vị đồng ý đứng ra ký tên với tư cách đồng tác giả và trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. 1.648 đại biểu chọn lọc chỉ đóng vai trò đại diện cho 13 Bang để biểu quyết thông qua, chứ không được tham gia vào quá trình viết ra Hiến pháp.



Nói nôm na, dân chủ nghị trường chỉ dừng lại ở khâu biểu quyết thông qua văn bản pháp luật, chứ không được tham gia nhào nặn nội dung hay tỉa tót câu chữ của văn bản, không được can thiệp vào khâu soạn thảo văn bản của các chuyên gia.



Giả sử, nếu Hiến pháp Mỹ không được viết bởi 55 trí tuệ tinh hoa độc lập, mà là kết quả của trí tuệ tập thể 500 đại biểu dưới sự điều khiển của thế lực nào đó, và không có ai đứng ra chịu trách nhiệm trước lịch sử, thì không thể tồn tại suốt 230 năm, cho đến tận ngày hôm nay.



P2. Mấy điều phía Đức cần lưu ý về người bào chữa



Để thành công trong hoàn cảnh khác thường, Chính phủ Đức nên chọn ra một tổ bào chữa phù hợp. Đương nhiên, các luật sư Đức mà TXT đã thuê, chẳng hạn như bà Petra Isabel Schlagenhauf và ông Victor Pfaff, có thể tham gia tổ bào chữa này. Nhưng cũng nên bổ sung thêm một số người hiểu biết và có kinh nghiệm về môi trường xét xử tương tự như ở Việt Nam. Hơn thế nữa, trong quá trình đàm phán, phía Đức phải yêu cầu phía Việt Nam thừa nhận các thành viên của tổ bào chữa Đức là những "người bào chữa" của TXT theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13.



Cần lưu ý quy định ở Điều 72 Khoản 1 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

"Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định..."

Và nhớ rằng, ở Việt Nam bị cáo hay buộc phải viết đơn từ chối luật sư. Nên nếu người bào chữa nào bị TXT từ chối kiểu ấy, thì phía Đức phải yêu cầu phía Việt Nam xếp người đó vào diện được "cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định".



Hơn nữa, cần lưu ý quy định ở Điều 72 Khoản 2 Bộ luật Tố tụng Hình sự, về những người có thể được đứng ra bào chữa, đó là:

"a) Luật sư;

b) Người đại diện của người bị buộc tội;

c) Bào chữa viên nhân dân…"



Đừng nghĩ đơn giản, những người bào chữa do phía Đức cử toàn là luật sư, nên thuộc diện "luật sư". Họ chỉ là "luật sư" theo tiêu chuẩn Đức. Còn ở Việt Nam, căn cứ vào Luật Luật sư số 65/2006/QH11, thì theo "tiêu chuẩn luật sư" họ phải là "công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc" (Điều 10), và theo "điều kiện hành nghề luật sư" họ "phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư" (Điều 10). Khó có thể tìm được một luật sư Đức phù hợp, mà là "công dân Việt Nam", có "Chứng chỉ hành nghề luật sư" (của Việt Nam) và "gia nhập một Đoàn luật sư" (của Việt Nam).



Nếu xếp các luật sư Đức vào diện "bào chữa viên nhân dân" thì cũng không được, vì theo Điều 72 Khoản 3 thì "Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam... được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử...".



Do đó, nếu không còn cách nào khác, thì phía Đức phải yêu cầu phía Việt Nam thừa nhận các thành viên của tổ bào chữa Đức thuộc diệncòn lại, đó là "người đại diện của người bị buộc tội".



Nếu không đàm phán kín kẽ về người bào chữa, thì có thể sẽ phải đối diện với những hoàn cảnh trớ trêu. Chẳng hạn: Khi các luật sư Đức định bước vào nơi xử án thì bị chặn lại, với lý do sau khi kiểm tra giấy tờ thì phát hiện ra họ không đủ tiêu chuẩn của người bào chữa, tất nhiên là theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đến khi Bộ Ngoại giao Đức can thiệp xong thì vụ án cũng đã xử xong, vì phiên xét xử ở Việt Nam có thể chỉ diễn ra trong một ngày, chứ không phải kéo dài hàng tháng hàng năm như ở Đức.



Ngày 21 tháng 8 năm 2017





Cùng tác giả:

Mấy ý kiến trao đổi về tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh giáo sư

Bầu cử kiểu gì khi tệ ngay từ luật

Oan ức trĩu Hồn Cây

Sai phạm về tố tụng trong vụ án "Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn…"

Não lòng với Hiến pháp

Bắt mạch Hiến… nháp

Hiến pháp vi hiến

Hiến pháp 2013 - Sửa nhầm hay đổi thiệt?

Đảng và Nhân dân - Vị thế bị tráo

Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp

Rủi cho Phương Uyên - May cho Dimitrov

Quốc hiệu nào hội tụ lòng Dân?

Chỗ đứng của Nhân dân trong Hiến pháp

Teo dần quyền con người trong Hiến pháp

Hai tử huyệt của chế độ

Lực cản Nhà nước pháp quyền

Một số khía cạnh hình sự của vụ án Tiên Lãng - Hải Phòng

Nhân vụ Tiên Lãng bàn về công vụ

Quyền biểu tình của công dân

Bài học tồn vong từ thảm họa

Phiêu lưu điện hạt nhân

Về huyền thoại điện hạt nhân giá rẻ

Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân

Bàn về qui mô đào tạo đại học từ góc độ chất lượng giảng viênA