Nguyễn Trung Chính
20/01/2014
Sáng
11/5/2013, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI bế
mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn tổng kết trong đó ông
tuyên bố: “Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới thể chế kinh tế.“
Nghe “Đổi mới“, mừng quá! Tưởng đã đến lúc Đảng chấp nhận đổi mới tư duy chính trị để đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Nhưng không! Khi đọc văn kiện chính thức “KẾT LUẬN HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XI: Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” mới vở lẽ ra rằng “Đổi mới” kèm với “Hoàn thiện”
chỉ có ý nghĩa trên vấn đề tổ chức nội bộ của Đảng, không mảy may chút
gì dính đến một tư duy chính trị thông thoáng hơn mà cơ chế kinh tế thị
trường đòi hỏi phải đồng bộ. Thực tế kết luận này chỉ nhằm “Hoàn
thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trong điều kiện một Đảng duy
nhất cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“.
Thế thì phải hiểu như thế nào, khi một
thời gian gần đây, trước khi có Thông điệp đầu năm của Thủ tướng, Bộ
trưởng Kế Hoạch-Đầu tư (KH-ĐT) Bùi Quang Vinh, đi nhiều nơi tôn vinh
kinh tế thị trường là “tinh hoa của nhân loại” mà không có một chữ nào nói đến “định hướng xã hội chủ nghĩa“?
Hoặc Bộ trưởng Vinh qua mặt Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung
ương khóa XI do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì, hoặc Bộ trường
Vinh được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo “cứ thế…cứ thế…“
Ai đã bật đèn xanh cho Bộ trưởng Vinh tuyên bố rõ ràng, trái ý Tổng Bí thư như thế?
Có hay không việc chạy đua nước rút chiếm lĩnh quyền lực?
Ai cũng còn nhớ rằng tại Hội nghị lần
thứ 5, khi Bộ chính trị đề nghị Ban Chấp hành Trung ương kỷ luật đồng
chí X và đã bị ban này nói KHÔNG.
Tại Hội nghị lần thứ 7, hai ông Vương
Đình Huệ (Ban kinh tế Trung ương), và Nguyễn Bá Thanh (Ban nội chính)
được TBT Nguyễn Phú Trọng đề nghị vào Bộ Chính trị nhằm tăng uy tín và
quyền lực cho hai ông trong công tác, Ban Chấp hành Trung ương cũng nói
KHÔNG.
Hai ông này không vào được Bộ Chính trị
nên không có quyền quyết định trên các cấp Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương, Thủ tướng, Bộ trưởng, và một số cấp UBND tỉnh.
Việc nói KHÔNG của Ban Chấp hành Trung ương có ý nghĩa rõ rệt:
1- Nếu Thủ tướng mà còn bị kỷ luật vì
dính đến tham nhũng thì sự kỷ luật cũng sẽ treo lơ lửng trên đầu các Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương.
2- Các Ủy viên phần lớn dính đến những
chương trình kinh tế của các tỉnh, mà quan trọng nhất là đầu tư công,
nơi xảy ra tham nhũng và thất thoát nhiều nhất, không muốn Đảng dây dưa
vào việc “làm ăn” kinh tế của họ. Họ không bầu cho ông Vương Đình Huệ.
3- Các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương
không muốn “lấy đá ghè chân mình” nên không bầu cho ông Nguyễn Bá Thanh,
người đảm trách thực tế Ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng.
Từ đó có thể khẳng định mà không sợ sai
lầm quá đáng rằng, cho đến giữa nhiệm kỳ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
lập bàn 1-0
trước TBT Nguyễn Phú Trọng.
Tuy tình hình đã như thế, nhưng khó mà nói được phe nào với phe nào.
Để có cái nhìn tường tận hơn, chúng tôi thử khảo sát Đảng theo “nhóm lợi ích”.
1- Nhóm lợi ích thứ nhất gồm phía Thủ
tướng, người nắm trong tay tiền thuế của dân, số tiền này được chi tiêu:
trả lương cho bộ máy nhà nước, cho bộ máy Đảng và các tổ chức ngoại vi
như Mặt trận Tổ quốc, hội Liên Hiệp Phụ nữ…, quan trọng nhất là đầu tư
công, …
2- Nhóm lợi ích thứ hai gồm các Bí thư
Tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh, phần lớn các vị này đều nằm trong Ban Chấp
hành Trung ương. Nhóm này lấy tiền từ nhóm lợi ích thứ nhất trong các vụ
đầu tư công ở tỉnh.
3- Nhóm thứ ba gồm bộ máy của TBT Nguyễn
Phú Trọng, Quân Ủy Trung ương, quân đội, cũng lấy nguồn tài chánh từ
nhóm thứ nhất. Tuy nhiên quân đội có cơ sở kinh tế quan trọng riêng mà
nhóm thứ nhất không có quyền kiểm soát.
Hiện nay, do không thu thuế đủ nên Thủ
tướng nghe theo bộ trưởng KH-ĐT Bùi Quang Vinh ra chỉ thị 1902 về đầu tư
công nhằm cắt nguồn tài trợ cho nhóm lợi ích thứ hai, lấy lý cớ đầu tư
không hiệu quả và để minh chứng cho quyết định của mình, ông Vinh đưa ra
vài thí dụ:
1- Ví dụ dự án thủy lợi lúc đầu vẽ ra
bảo là tưới tiêu cho 1.000ha, suất đầu tư 2 tỉ đồng/ha, nhưng khi hoàn
thành thì chỉ tưới tiêu cho 500ha và tổng vốn đầu tư vẫn là 2.000 tỉ
đồng, rất kém hiệu quả nhưng không ai bị xử lý.
2- ví dụ xây cái chợ không có người đến, gây lãng phí rất lớn nhưng không ai chịu trách nhiệm”.
3- có tỉnh làm đường rộng 70 mét mà không có người đi.
Và Bộ trưởng Vinh tiết lộ: “Khi thực
hiện, (chỉ thị 1902 về đầu tư công) có người đã nói với tôi: Bộ trưởng
làm như thế này là lấy đá tự đè chân mình. Cả một thời gian dài sau đó,
cũng vẫn còn rất nhiều ý kiến trái chiều kiến nghị kêu khó khăn, mất
quyền lợi…”
Nhóm lợi ích thứ 2 do đó bị đụng chạm.
Nhóm này sống ngon lành nhờ những vụ đầu tư công, vụ nào cũng đem lại
lợi nhuận riêng hàng triệu đô la cho các vị, chỉ cần nhìn Dương Chí Dũng
khai ông ta và Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (TP.HCM) do bà Trương Mỹ Lan làm
chủ tịch, đã “mua” Thượng tướng công an Phạm Qúy Ngọ bằng 5 trăm ngàn,
triệu đô thì cũng hiểu nhóm lợi ích thứ hai bị thiệt thòi với chỉ thị
1902 như thế nào. Phần lớn họ có mặt trong Ban Chấp Hành Trung Ương nên
khó có thể nói họ sẽ không có tác động nào trong những lần họp tới, nhất
là chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XII vào năm 2015. Và ở đây cái khôn
ngoan không nói ra của “chỉ thị 1902 về đầu tư công” được ban
hành bởi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là sẽ tạo thêm một việc “xin, cho”.
Anh Trung ương nào được cho sẽ phải uống nước nhớ nguồn.
Tóm lại, tuy là ba nhóm lợi ích, nhưng
thực tế chỉ có hai khuynh hướng: một bên che đậy bằng ngọn cờ chủ nghĩa
Mác-Lê trong các hoạt động kinh tế, còn bên kia nói “định hướng xã hội
chủ nghĩa” cho có lệ, nhưng làm huỵch toẹt ra là kinh tế thị trường với “Chiếc phong bì không còn chứa đủ tiền hối lộ “
Hai khuynh hướng này sẽ làm cho Đảng dậy
sóng và đất đước cũng sẽ chao đảo theo. Dù khuynh hướng nào thắng hay
bại, đất nước cũng sẽ thua thiệt.
Trong cuộc chơi giữa hai khuynh hướng
này, các lão thành cách mạng, các đảng viên về hưu chỉ có cái sổ lương
hưu chả thấm vào đâu so với 10 ngàn, 20 ngàn đô mà Dương Chí Dũng vứt ra
cho các cán bộ công an đương quyền cấp dưới. Còn các đảng viên, ngoài
số lương rất thấp so với công dân các nước quanh vùng, có kiếm chác được
món tiền còm thêm cũng chỉ vừa đủ sống. Tất cả thu nhập của những phần
tử nói trên chả thấm vào đâu trước những thất thoát to lớn mà đất nước
phải gánh chịu. Nếu có một sự thay đổi thể chế chính trị ôn hòa, chẳng
ai thèm đụng đến thu nhập kém cỏi của họ.
Nếu họ còn chút lương tâm, họ thừa biết họ phải làm gì để giúp đất nước thoát ra khỏi vũng lầy hiện nay.
Khi nói về đảng cộng sản, có khuynh
hướng cho rằng phải nói đến công và tội của đảng này. Chúng tôi cho
rằng, khi đất nước đang quằn quại trong vũng lầy và cần phải thoát ra
bằng mọi giá thì có nói đến công lao cũng bằng thừa. Không công lao nào
chuộc được cái tội tày trời hiện nay là làm cho đất nước ngày càng nghèo
đi, để cho biển đảo bị Trung quốc chiếm mà không bảo vệ, cấm người dân
tuyên truyền cho lòng yêu nước, yêu biển đảo… trái lại lúc nào cũng
trâng tráo đòi nhân dân phải chấp nhận quyền lãnh đạo của mình, bằng
Hiếp Pháp sửa đổi, bằng bạo lực quân đội, công an.
Dù sao, công lao của đảng cộng sản cũng sẽ có cơ hội được đề cập đến, khi họ phải trả lời trước tòa án nhân dân.
Ngày 19/01/2014 là ngày kỷ niệm 40 năm
Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, đúng vào sáng ngày này không một tờ báo trung
ương nào của Đảng nhắc đến hai chữ Hoàng Sa, mãi đến chiều tối mới có
vài tờ báo e dè đưa tin triển lãm về Hoàng Sa ở Đà Nẵng, tờ Đại Đoàn Kết
chỉ dám nói thoáng qua rằng 74 người Việt (không dám nói họ là chiến sĩ
VNCH) đã ngã xuống.
Một tháng trước đó, vài tờ báo trong hệ
thống này liên tục phóng sự về cuộc hải chiến bảo vệ Hoàng Sa của chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa, Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa đã thông báo tổ
chức “Chương trình ca nhạc hát về biển đảo quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa” ở Đà Nẵng nhưng cuối cùng ngày 17/1 do lệnh trên phải thông báo hủy bỏ.
Ai đã ra lệnh cho báo chí không được
nhắc đến Hoàng Sa trong sáng ngày 19/01/2014 này, ai đã cấm tổ chức
tưởng niệm thắp nến ở Đà Nẵng? Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang hay
Nguyễn Tấn Dũng? Người dân chúng tôi đòi hòi trong các ông, ai là người
đã đánh mất lòng tự trọng dân tộc tối thiểu để ra lịnh cấm đoán hèn mạt
này.
Tự do cho dân, hòa giải dân tộc và dân chủ cho đất nước
Chúng tôi mong muốn thấy những nguyên tắc dưới đây được ghi trong Hiến pháp:
- Hiến Pháp phải bảo đảm cho mọi công
dân các quyền: ứng cử, bầu cử, biểu tình, lập hội, tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tự do đi lại, xuất ngoại, tự do kinh doanh, làm ăn, quyền tư
hữu và trực tiếp quản lý về nhà cửa, ruộng đất …
- Hiến pháp phải quy định một nhà nước
pháp quyền thay mặt nhân dân trong việc quản trị đất nước, khác xa hoàn
toàn với quan niệm cai trị người dân. Quân đội chỉ có bổn phận bảo vệ
đất nước, biển đảo. Hiến Pháp không được quyền ghi tên bất cứ đảng phái
nào.
- Hiến pháp phải quy định Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp tuyệt đối độc lập với nhau.
- Hiến pháp phải quy định tất cả điều
khoản về quyền con người, ít nhất là theo công ước quốc tế, không thể bị
bất cứ ai xâm phạm, vì bất cứ lý do gì.
Đặc biệt về vấn nhân quyền, chúng ta có khả năng giương cao ngọn cờ này trước thế giới nếu chúng ta quyết tâm. Nó
không tốn kém bao nhiêu, nó hợp với thời đại và lòng bao dung của chúng
ta, nó chỉ đòi hỏi tự chúng ta tôn trọng thực sự con người.
Thông điệp của Thủ tướng nói đến giương
cao ngọn cờ dân chủ chỉ là một kiểu nói mị dân. Dân chủ càng ngày càng
tiến triển trên thế giới, Dân chủ lại là một quá trình chứ không phải
ngày một ngày hai như mì ăn liền. Chúng ta tụt hậu về lối sống dân chủ,
lối suy nghĩ dân chủ từ ngày đảng cộng sản Đông Dương được thành lập
cho đến nay cũng đã 80 năm và hiện nay vẫn lặn ngụp trong kiểu “dân chủ
xã hội chủ nghĩa” tức là vẫn độc tài. Cho nên cùng lắm là giương cao
khẩu hiệu như bà phó Đoan của Hội đồng lý luận Trung ương là “dân chủ xã hội chủ nghĩa cao hơn gấp vạn lần dân chủ tư bản chủ nghĩa” để mà tiếp tục dối dân chứ có cờ đâu mà phất.
Hiến pháp sửa đổi 2013 hoàn toàn trái với tinh thần nói trên vì chỉ thể hiện cương lĩnh của một đảng độc tài.
Theo chúng tôi hiểu, bản Hiến pháp do
nhóm 72 nhân sĩ (gọi tắt là Kiến nghị 72) đề nghị trong năm 2013 đã có
sẵn những tinh thần mà chúng tôi mong muốn, có thể thảo luận thêm để
thành bản Hiến pháp mới của một nước Việt Nam tự do, dân chủ, thật sự
của mọi
công dân.
Ngày 20/10/2013, Tiến sĩ Trần Nhơn, đảng
viên, nguyên thứ trưởng Bộ Thuỷ Lợi, trong một đề nghị Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp 1992 (Do Công ty Hỗ trợ Phát triển và Hội nhập Toàn Cầu đề
xuất trên nền tảng của nguyên bản dự thảo Kiến nghị 72), được đăng trên
site Tự Đổi Mới (tudoimoi.org) có một đề nghị sửa đổi quan trọng về điều
11:
Điều 11. Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc khánh và thủ đô:
Quốc hội chuẩn bị đề án quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc khánh và thủ đô, trình nhân dân phúc quyết.
Đề nghị của Tiến sĩ Trần Nhơn vừa can đảm,
vừa khai phá và nếu được chấp nhận sẽ là một bước hòa giải dân tộc chưa
có tiền lệ, mở cửa cho một sự đoàn kết dân tộc rộng lớn mà đất nước
đang chờ đợi.
Sau thời kỳ toàn dân ta đấu tranh chống
phương Bắc để có một đất nước Việt Nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chúng
ta đã trải qua trong thế kỷ 20, hai cuộc chiến tranh đẫm máu khốc liệt.
Trong cuộc chiến tranh thứ nhất, toàn dân một lòng đã dũng cảm và thành
công trong việc giải phóng dân tộc đánh đổ thực dân.
Tiếc thay, miền Bắc sau năm 1954, đảng
Lao Động Việt Nam (thực chất là đảng cộng sản đổi họ đổi tên nhưng không
đổi tư duy cộng sản), đã đứng trong hàng ngũ quốc tế cộng sản, với tất
cả những tồi tệ của chủ nghĩa độc tài hiện nay.
Vì thế cuộc chiến tranh lần thứ hai từ
năm 1960 đến năm 1975 tuy có một số lý do, nhưng nổi bật lên cả là màu
sắc cuộc chiến Quốc-Cộng, giữa tự do và độc tài, giữa dân chủ và chuyên
chính, giữa hai quan niệm cuộc sống khác nhau, không thể thống nhất
được.
Sau 1954 với một triệu người di cư vào
Nam thì đến năm 1975 và những năm sau đó, từ 1 đến 3 triệu người cũng bỏ
nước ra đi tìm tự do. Cho đến những năm gần đây, 2013/2014 số người lợi
dụng các tours du lịch rồi bỏ trốn cũng rất cao buộc Tổng cục Du lịch
Việt Nam vừa có công văn số 17 cho biết sẽ kiên quyết ngăn chặn hành vi
lợi dụng con đường du lịch để đưa người Việt Nam ra nước ngoài bất hợp
pháp (thực tế là vượt biên chính thức). Nếu đất nước hòa bình, tiến bộ,
tươi đẹp thật sự thì chẳng có ai bỏ quê cha đất tổ mà đi.
Sự phân ly này đòi hỏi chúng ta phải tìm
cách hoà giải giữa dân tộc chúng ta để cùng nhau chung sống hài hòa
trên giải đất của tổ tiên. Hiện nay vấn đề lá cờ đang gây nhiều chia rẽ,
chúng ta không thể để hai lá cờ cứ tiếp tục đánh nhau trong lòng người.
Chúng tôi nghĩ rằng cha ông ta đã mấy
lần, chẳng đặng đừng, chống quân Bắc triều để giữ bờ cõi. Chắc lúc đó đã
có những lá cờ phất phới bay và chiến thắng, nhưng đến nay, thử hỏi ai
còn biết, hoặc nhớ đến những lá cờ mà cha ông ta đã phất lên trước mặt
quân xâm lược? Bản thân tôi chỉ còn nhớ đến những chiến thắng hào hùng
của cha ông mà không được lịch sử dạy cho lúc đó cha ông đã dùng những
lá cờ nào? Và dù lá cờ nào thì nay cũng đã biến mất.
Trong chiến tranh vừa qua, có hai lá cờ:
Đỏ sao vàng và Vàng ba sọc đỏ. Cờ nào cũng thấm máu của anh hùng liệt
sĩ, cờ nào cũng linh thiêng tùy theo anh ở phía nào. Có thể nói gia đình
nào cũng có con em thấm máu không trên lá cờ này thì cũng trên lá cờ
nọ. Cờ nào cũng mang vinh quang cùng tội ác. Chính vì thế mà chúng ta
phân tán, chia rẽ vì một biểu tượng lá cờ.
Hơn 40 năm qua, sự chia rẽ, thù hận
không những không mờ nhạt mà càng sâu đậm trong bối cảnh đất nước lún
sâu vào tụt hậu, xã hội mất lẽ sống cao đẹp đáng có, con người bần cùng
hóa và tiếp tục bị kềm kẹp về tư tưởng. Về phía những thành phần vượt
biển để thoát khỏi chế độ cộng sản, họ đã thành công ở những nước được
xem là tổ quốc thứ hai của họ, tạo ra được một cộng đồng người Việt giàu
có, tiến bộ, thành đạt, chưa có tiền lệ trong lịch sử dân tộc, nhờ đó
khẳng định được rằng chế độ tự do dân chủ đã giúp cho con người từ tay
trắng có thể đạt được ước vọng của mình. Không huy động được một cộng
đồng như vậy trong vấn đề ngoại thương chứng tỏ sự yếu kém của những
người cầm quyền hiện nay.
Nếu cứ tiếp tục áp đặt một lá cờ là tiếp
tục duy trì sự chia rẽ. Đất nước chúng ta đang trong tình trạng bi đát
đòi hỏi công sức của mọi người, vì thế nếu người dân phúc quyết lá cờ
một cách dân chủ thì thiểu số sẵn sàng chấp nhận. Trong cuộc sống dân
chủ, chỉ có kẻ độc tài mới không chấp nhận mình là thiểu số một khi quần
chúng đã phúc quyết.
Những suy nghĩ nói trên cho phép chúng tôi kết luận rằng đề nghị về điều 11
của TS Trần Nhơn là can đảm, đặt đúng vấn đề trong mong muốn hòa giải
dân tộc. Nếu Đảng không muốn hòa giải vì luôn muốn có “lực lượng thù
địch” để làm bình phong cho những thất bại của họ, thì ngược lại người
dân chúng ta phải hòa giải được với nhau, bất chấp chính quyền, càng sớm
càng tốt. Mong độc giả cùng suy nghĩ với chúng tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét