East Asia Forum
Tác giả: Alexander L. Vuving, APCSS
Người dịch: Huỳnh Phan
13-05-2015
Năm 2016, Đảng Cộng sản cầm quyền của Việt Nam (ĐCSVN) sẽ tổ chức Đại hội lần thứ 12 để chọn lãnh đạo mới cho Đảng và đất nước mà họ cai trị. Với các nhà lãnh đạo mới, các chính sách mới sẽ đến (đổi mới lần 2), nhưng những người hy vọng cho việc xuất hiện đổi mới lần hai có nhiều khả năng sẽ bị thất vọng. Mọi thay đổi, nếu có, sẽ chưa đủ để biến Việt Nam thành một con hổ mới ở Châu Á.
Nghịch lý là điều thường được gọi là thời kỳ đổi mới ở Việt Nam không phải là khoảng thời gian mà cải cách chiếm ưu thế. Sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu vào cuối thập niên 1980 là một kinh nghiệm đau thương, xác định tầm nhìn chiến lược của giai cấp thống trị Việt Nam trong những thập niên sau. Kết quả là, những nét chủ đạo của đổi mới không phải là cải cách nhưng ổn định là trên hết mọi thứ.
Khi đối mặt với một sự lựa chọn giữa kế tục và thay đổi, tầng lớp thống trị bên trên của Việt Nam đã lựa chọn ‘kế tục cộng‘, trong đó ‘cộng’ thường đuợc giữ ở mức tối thiểu. Mặc dù quyết tâm cải cách đều được nhắc đi nhắc lại mỗi khi Đảng Cộng sản tiến hành Đại hội toàn quốc, mỗi lần họ đều chọn một người bảo thủ làm Tổng Bí thư và làm lãnh đạo tối cao của đất nước.
Chế độ đã theo đuổi một cách hệ thống các biện pháp nhằm duy trì việc nắm giữ quyền lực. Các biện pháp đó bao gồm việc ban phát đặc quyền tài chính và hoạt động cho quân đội, an ninh và cảnh sát. Các TBT Đảng Cộng sản liên tiếp cũng đều tìm kiếm liên minh chiến lược với Trung Quốc có đuợc sự ủng hộ nước ngoài cho chế độ.
Biên pháp khác là cất nhắc các ‘thái tử đỏ’ vào các vị trí lãnh đạo. Hai trường hợp dễ thấy là con trai của cựu TBT Đảng Nông Đức Mạnh và Thủ tướng hiện nay, ông Nguyễn Tấn Dũng (hiện là hai thành viên trẻ bất thường của BCH Trung ương Đảng) chỉ là những chỉ dấu của một hiện tượng chung hơn ở tất cả các cấp.
Trong khi các biện pháp này tạo ra phản kháng cơ cấu chống lại thay đổi thi ba thập niên đổi mới cũng đã tạo ra một môi trường đòi hỏi sự thay đổi. Tâm lý trong nước rõ ràng là nghiêng về hệ thống thị trường tự do và liên minh an ninh với phương Tây. Một cuộc khảo sát do Trung tâm Nghiên cứu Pew tiến hành vào năm 2014 cho thấy, 95 % người Việt ủng hộ thị trường tự do. Khi được hỏi trong một cuộc khảo sát của Pew năm 2014, nuớc nào Việt Nam có thể dựa vào như là một đồng minh đáng tin cậy trong tương lai nhất, 30% số người được hỏi nghĩ rằng Hoa Kỳ, 25% tin rằng Nga sẽ là một đồng minh đáng tin cậy và 15 % cho là Nhật Bản.
Thập niên vừa qua cũng thấy xã hội dân sự đang tăng lên dù thực tế rằng Luật Hội, một quy định chung dùng để điều chỉnh các nhóm xã hội dân sự, vẫn đang trì hoãn sau 23 năm soạn thảo. Nhờ phương tiện truyền thông xã hội, mọi người có thể xây dựng mạng lưới, chia sẻ ý tưởng, làm cho tiếng nói của mình đuợc nghe thấy và phối hợp hành động ngoài những gì mà chính phủ có thể dễ dàng kiểm soát. Chỉ dấu cho việc này là các cuộc biểu tình gần đây chống lại kế hoạch đốn cây của chính quyền Hà Nội, được nhà báo Trần Đăng Tuấn phát động. ‘Sức mạnh blogger’ đang tăng là một tiếng nói mà chính phủ khó có thể liều lĩnh coi thuờng.
Đan xen một phần với sự nổi lên của xã hội dân sự là sự trở lại của chủ nghĩa yêu nước, mà trong hình thức hiện đại của nó có xu hướng chống Trung Quốc và thân phương Tây. Bị đè nén trong các thập niên 1990 và 2000, tình cảm dân tộc này đã được hồi sinh do cuộc xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông. Tình cảm như vậy gần đây đã gây áp lực lớn lên chính phủ tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc.
Áp lực cho sự thay đổi này cũng đến từ nền kinh tế. Dù mức phát triển kinh tế nằm trong khoảng 5 tới 6% một năm, nền kinh tế của Việt Nam có tính chất trì trệ. Với tư cách một chỉ số về cải cách thể chế và đổi mới công nghệ, năng suất tổng yếu tố (TFP) chỉ đóng góp có 6,4% vào tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2007-2012.
Với áp lực đòi hỏi thay đổi ngày càng gia tăng, các lãnh đạo buộc phải hành động. Nhưng thay vì cải cách sâu rông theo lời kêu gọi đồng thanh ngày càng gia tăng của giới trí thức, những người cai trị Việt Nam lại đi theo một con đường khác.
Sự pha trộn chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ đổi mới đã thúc đẩy các hoạt động trục lợi vốn sử dụng quyền lực làm ra tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Đến năm 2006, những kẻ trục lợi đã trở thành khối khống chế trong tầng lớp thống trị bên trên và BCH Trung Ương Đảng. Theo đó, họ đã có thể ngăn chặn chiến dịch chống tham nhũng đuợc thủ lĩnh Đảng Nguyễn Phú Trọng cổ vũ và cứu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thoát các nỗ lực lật đổ ông.
Đồng thời khi chống cải cách, những kẻ trục lợi đủ linh hoạt để hình thành một chế độ mới phù hợp với lợi ích của họ. Tham vọng của họ và sự tranh đua nội bộ sẽ là con bài khống (có giá trị do người chơi định) lớn nhất trong thời gian tiến tới Đại Hội Đảng lần thứ 12 và trong những năm tới.
Alexander L. Vuving là phó giáo sư tại Trung Tâm Nghiên Cứu An Ninh châu Á-Thái Bình Dương. Các quan điểm thể hiện trong bài viết này thuộc về tác giả và không phản ánh quan điểm của chính phủ Mỹ, Bộ Quốc phòng, hoặc Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương Nghiên Cứu An Ninh.
Nghịch lý là điều thường được gọi là thời kỳ đổi mới ở Việt Nam không phải là khoảng thời gian mà cải cách chiếm ưu thế. Sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu vào cuối thập niên 1980 là một kinh nghiệm đau thương, xác định tầm nhìn chiến lược của giai cấp thống trị Việt Nam trong những thập niên sau. Kết quả là, những nét chủ đạo của đổi mới không phải là cải cách nhưng ổn định là trên hết mọi thứ.
Khi đối mặt với một sự lựa chọn giữa kế tục và thay đổi, tầng lớp thống trị bên trên của Việt Nam đã lựa chọn ‘kế tục cộng‘, trong đó ‘cộng’ thường đuợc giữ ở mức tối thiểu. Mặc dù quyết tâm cải cách đều được nhắc đi nhắc lại mỗi khi Đảng Cộng sản tiến hành Đại hội toàn quốc, mỗi lần họ đều chọn một người bảo thủ làm Tổng Bí thư và làm lãnh đạo tối cao của đất nước.
Chế độ đã theo đuổi một cách hệ thống các biện pháp nhằm duy trì việc nắm giữ quyền lực. Các biện pháp đó bao gồm việc ban phát đặc quyền tài chính và hoạt động cho quân đội, an ninh và cảnh sát. Các TBT Đảng Cộng sản liên tiếp cũng đều tìm kiếm liên minh chiến lược với Trung Quốc có đuợc sự ủng hộ nước ngoài cho chế độ.
Biên pháp khác là cất nhắc các ‘thái tử đỏ’ vào các vị trí lãnh đạo. Hai trường hợp dễ thấy là con trai của cựu TBT Đảng Nông Đức Mạnh và Thủ tướng hiện nay, ông Nguyễn Tấn Dũng (hiện là hai thành viên trẻ bất thường của BCH Trung ương Đảng) chỉ là những chỉ dấu của một hiện tượng chung hơn ở tất cả các cấp.
Trong khi các biện pháp này tạo ra phản kháng cơ cấu chống lại thay đổi thi ba thập niên đổi mới cũng đã tạo ra một môi trường đòi hỏi sự thay đổi. Tâm lý trong nước rõ ràng là nghiêng về hệ thống thị trường tự do và liên minh an ninh với phương Tây. Một cuộc khảo sát do Trung tâm Nghiên cứu Pew tiến hành vào năm 2014 cho thấy, 95 % người Việt ủng hộ thị trường tự do. Khi được hỏi trong một cuộc khảo sát của Pew năm 2014, nuớc nào Việt Nam có thể dựa vào như là một đồng minh đáng tin cậy trong tương lai nhất, 30% số người được hỏi nghĩ rằng Hoa Kỳ, 25% tin rằng Nga sẽ là một đồng minh đáng tin cậy và 15 % cho là Nhật Bản.
Thập niên vừa qua cũng thấy xã hội dân sự đang tăng lên dù thực tế rằng Luật Hội, một quy định chung dùng để điều chỉnh các nhóm xã hội dân sự, vẫn đang trì hoãn sau 23 năm soạn thảo. Nhờ phương tiện truyền thông xã hội, mọi người có thể xây dựng mạng lưới, chia sẻ ý tưởng, làm cho tiếng nói của mình đuợc nghe thấy và phối hợp hành động ngoài những gì mà chính phủ có thể dễ dàng kiểm soát. Chỉ dấu cho việc này là các cuộc biểu tình gần đây chống lại kế hoạch đốn cây của chính quyền Hà Nội, được nhà báo Trần Đăng Tuấn phát động. ‘Sức mạnh blogger’ đang tăng là một tiếng nói mà chính phủ khó có thể liều lĩnh coi thuờng.
Đan xen một phần với sự nổi lên của xã hội dân sự là sự trở lại của chủ nghĩa yêu nước, mà trong hình thức hiện đại của nó có xu hướng chống Trung Quốc và thân phương Tây. Bị đè nén trong các thập niên 1990 và 2000, tình cảm dân tộc này đã được hồi sinh do cuộc xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông. Tình cảm như vậy gần đây đã gây áp lực lớn lên chính phủ tách khỏi quỹ đạo Trung Quốc.
Áp lực cho sự thay đổi này cũng đến từ nền kinh tế. Dù mức phát triển kinh tế nằm trong khoảng 5 tới 6% một năm, nền kinh tế của Việt Nam có tính chất trì trệ. Với tư cách một chỉ số về cải cách thể chế và đổi mới công nghệ, năng suất tổng yếu tố (TFP) chỉ đóng góp có 6,4% vào tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2007-2012.
Với áp lực đòi hỏi thay đổi ngày càng gia tăng, các lãnh đạo buộc phải hành động. Nhưng thay vì cải cách sâu rông theo lời kêu gọi đồng thanh ngày càng gia tăng của giới trí thức, những người cai trị Việt Nam lại đi theo một con đường khác.
Sự pha trộn chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ đổi mới đã thúc đẩy các hoạt động trục lợi vốn sử dụng quyền lực làm ra tiền và dùng tiền để mua quyền lực. Đến năm 2006, những kẻ trục lợi đã trở thành khối khống chế trong tầng lớp thống trị bên trên và BCH Trung Ương Đảng. Theo đó, họ đã có thể ngăn chặn chiến dịch chống tham nhũng đuợc thủ lĩnh Đảng Nguyễn Phú Trọng cổ vũ và cứu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thoát các nỗ lực lật đổ ông.
Đồng thời khi chống cải cách, những kẻ trục lợi đủ linh hoạt để hình thành một chế độ mới phù hợp với lợi ích của họ. Tham vọng của họ và sự tranh đua nội bộ sẽ là con bài khống (có giá trị do người chơi định) lớn nhất trong thời gian tiến tới Đại Hội Đảng lần thứ 12 và trong những năm tới.
Alexander L. Vuving là phó giáo sư tại Trung Tâm Nghiên Cứu An Ninh châu Á-Thái Bình Dương. Các quan điểm thể hiện trong bài viết này thuộc về tác giả và không phản ánh quan điểm của chính phủ Mỹ, Bộ Quốc phòng, hoặc Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương Nghiên Cứu An Ninh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét