Nguyễn Hưng Quốc
Cuối bài “Ai là kẻ thù của Việt Nam?”, tôi có viết: Hầu như ai cũng biết cách trả lời cho câu hỏi ấy trừ…chính quyền Việt Nam.
Viết thế, thú thực, tôi cũng thấy có cái gì như nghịch lý. Ông Tổng Bí thư có thể lú lẩn nhưng chả lẽ cả 15 người còn lại trong Bộ Chính trị cũng đều bị mù mắt? Rồi còn gần 200 người trong Ban Chấp hành Trung ương nữa, chả lẽ không có ai nhìn ra sự thật?
Nhưng nếu đã thấy sự thật, tại sao người ta vẫn tiếp tục hô những khẩu hiệu lãng nhách như “4 tốt” và “16 chữ vàng” từ năm này sang năm khác? Tại sao người ta vẫn xem Trung Quốc như một đối tác khả tín? Tại sao người ta vẫn buông thả để người Trung Quốc đến, ở và làm việc ở những địa điểm được xem là trọng yếu của quốc gia? Tại sao người ta vẫn im lặng trước những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa cũng như trên Biển Đông nói chung?
Quan sát hành động cũng như nghe các lời phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, người ta không thể không nghĩ là họ không hề nhận ra dã tâm của Trung Quốc. Điều đó quả rất đáng ngạc nhiên. Tôi không thể nghĩ ra một lời giải thích nào thật thoả đáng. Họ mê muội đến vậy sao? Hay họ bị mua chuộc? Hay, một cách lạc quan và tích cực hơn, có thể nêu giả thuyết: Họ biết rõ nhưng phải giả vờ không biết vì một toan tính chiến lược nào đó, ví dụ, với hy vọng Trung Quốc sẽ “thức tỉnh” hay các biện pháp thương thảo qua con đường ngoại giao sẽ có kết quả tốt đẹp để Việt Nam vẫn giữ được chủ quyền trên Biển Đông mà không phải đối đầu về quân sự? Tuy nhiên, hy vọng này chỉ là một ảo tưởng: Trung Quốc vẫn khẳng định đi khẳng định lại việc làm bá chủ trên Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” mà họ sẽ không bao giờ nhân nhượng.
Vậy nguyên nhân thực sự là sao? Việt Nam chỉ muốn kết hợp “hợp tác và đấu tranh” như lời Nguyễn Tấn Dũng nói? Nhưng “đấu tranh” trong cái thế vẫn duy trì hợp tác là đấu tranh như thế nào? Đâu là giới hạn của việc hợp tác? Cho đến nay, không có ai trong giới lãnh đạo trả lời câu hỏi ấy cả. Về phương diện tuyên truyền, người ta vẫn cố tô hồng viễn ảnh hợp tác qua các châm ngôn “4 tốt” và “16 chữ vàng” và làm ngơ trước các hành động xâm lấn của Trung Quốc. Người ta cố làm ra vẻ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tốt đẹp và sẽ tốt đẹp mãi.
Nhưng đó chỉ là một sự lừa dối hoặc tự lừa dối. Cần phải nói rõ: Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc là một kẻ thù, hoặc nhẹ nhàng hơn, một đối thủ.
Việc công bố ấy có thể làm cho quan hệ giữa hai nước trở thành căng thẳng hơn. Nhưng để né tránh sự căng thẳng ấy bằng cách im lặng hoặc tự lừa dối, các nguy hiểm sẽ lớn hơn.
Nguy hiểm đầu tiên là nó làm dân chúng và cán bộ các cấp mất cảnh giác trước các thủ đoạn xâm lấn của Trung Quốc. Điều này đã từng xảy ra nhiều lần rồi. Một số vụ từng làm ồn ào dư luận như việc để mặc cho Trung Quốc tha hồ tuyên truyền trên trang mạng của Bộ Thương mại Việt Nam, việc để cho nhiều người Trung Quốc vào làm ăn ở những khu vực được xem là bí mật quốc phòng quanh cảng Cam Ranh hay việc cho Trung Quốc thuê dài hạn đất rừng đầu nguồn, ở những vị trí có ý nghĩa chiến lược cao. Đó là những sự kiện được báo chí phanh phui. Không ai có thể biết hết những gì Trung Quốc đã và đang làm ở Việt Nam.
Một nguy hiểm khác là, qua việc im lặng ấy, Việt Nam gửi một tín hiệu sai đến các quốc gia khác trên thế giới. Điều hầu như ai cũng đã rõ: Việt Nam không thể tự mình đối đầu với Trung Quốc. Thế Việt Nam quá yếu. Mọi toan tính tự vệ của Việt Nam chỉ trở thành khả thi chỉ với một điều kiện: sự giúp đỡ từ bên ngoài. Nhưng không ai có thể giúp đỡ Việt Nam khi họ không biết Việt Nam nghĩ gì và muốn làm gì. Không có sự hiểu biết ấy không thể có sự liên minh mật thiết được.
Nhưng nguy hiểm nhất là điều này: sự im lặng ấy làm cho chính quyền trở thành mục tiêu phê phán và chống đối của dân chúng. Lâu nay, dưới mắt nhiều người, giới lãnh đạo bị xem là những kẻ hoặc quá nhu nhược hoặc bị Trung Quốc mua chuộc để nhường nhịn hết yêu sách này đến yêu sách khác của Trung Quốc. Rất nhiều người thậm chí còn cho giới lãnh đạo là những kẻ bán nước, hoặc ít nhất, bán Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Biển Đông nói chung cho Trung Quốc. Không mấy ai còn tin vào quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của chính quyền. Mất đi sự tin tưởng ấy cũng đồng nghĩa với việc mấy đi sức mạnh chính đáng của sự lãnh đạo.
Tiếp tục im lặng và bất chấp ba nguy cơ trên, chính quyền Việt Nam đang tự cô lập mình, tự cách ly mình với dân chúng và với cộng đồng quốc tế. Đó là một quyết định dại dột.
Viết thế, thú thực, tôi cũng thấy có cái gì như nghịch lý. Ông Tổng Bí thư có thể lú lẩn nhưng chả lẽ cả 15 người còn lại trong Bộ Chính trị cũng đều bị mù mắt? Rồi còn gần 200 người trong Ban Chấp hành Trung ương nữa, chả lẽ không có ai nhìn ra sự thật?
Nhưng nếu đã thấy sự thật, tại sao người ta vẫn tiếp tục hô những khẩu hiệu lãng nhách như “4 tốt” và “16 chữ vàng” từ năm này sang năm khác? Tại sao người ta vẫn xem Trung Quốc như một đối tác khả tín? Tại sao người ta vẫn buông thả để người Trung Quốc đến, ở và làm việc ở những địa điểm được xem là trọng yếu của quốc gia? Tại sao người ta vẫn im lặng trước những hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa cũng như trên Biển Đông nói chung?
Quan sát hành động cũng như nghe các lời phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, người ta không thể không nghĩ là họ không hề nhận ra dã tâm của Trung Quốc. Điều đó quả rất đáng ngạc nhiên. Tôi không thể nghĩ ra một lời giải thích nào thật thoả đáng. Họ mê muội đến vậy sao? Hay họ bị mua chuộc? Hay, một cách lạc quan và tích cực hơn, có thể nêu giả thuyết: Họ biết rõ nhưng phải giả vờ không biết vì một toan tính chiến lược nào đó, ví dụ, với hy vọng Trung Quốc sẽ “thức tỉnh” hay các biện pháp thương thảo qua con đường ngoại giao sẽ có kết quả tốt đẹp để Việt Nam vẫn giữ được chủ quyền trên Biển Đông mà không phải đối đầu về quân sự? Tuy nhiên, hy vọng này chỉ là một ảo tưởng: Trung Quốc vẫn khẳng định đi khẳng định lại việc làm bá chủ trên Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” mà họ sẽ không bao giờ nhân nhượng.
Vậy nguyên nhân thực sự là sao? Việt Nam chỉ muốn kết hợp “hợp tác và đấu tranh” như lời Nguyễn Tấn Dũng nói? Nhưng “đấu tranh” trong cái thế vẫn duy trì hợp tác là đấu tranh như thế nào? Đâu là giới hạn của việc hợp tác? Cho đến nay, không có ai trong giới lãnh đạo trả lời câu hỏi ấy cả. Về phương diện tuyên truyền, người ta vẫn cố tô hồng viễn ảnh hợp tác qua các châm ngôn “4 tốt” và “16 chữ vàng” và làm ngơ trước các hành động xâm lấn của Trung Quốc. Người ta cố làm ra vẻ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tốt đẹp và sẽ tốt đẹp mãi.
Nhưng đó chỉ là một sự lừa dối hoặc tự lừa dối. Cần phải nói rõ: Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc là một kẻ thù, hoặc nhẹ nhàng hơn, một đối thủ.
Việc công bố ấy có thể làm cho quan hệ giữa hai nước trở thành căng thẳng hơn. Nhưng để né tránh sự căng thẳng ấy bằng cách im lặng hoặc tự lừa dối, các nguy hiểm sẽ lớn hơn.
Nguy hiểm đầu tiên là nó làm dân chúng và cán bộ các cấp mất cảnh giác trước các thủ đoạn xâm lấn của Trung Quốc. Điều này đã từng xảy ra nhiều lần rồi. Một số vụ từng làm ồn ào dư luận như việc để mặc cho Trung Quốc tha hồ tuyên truyền trên trang mạng của Bộ Thương mại Việt Nam, việc để cho nhiều người Trung Quốc vào làm ăn ở những khu vực được xem là bí mật quốc phòng quanh cảng Cam Ranh hay việc cho Trung Quốc thuê dài hạn đất rừng đầu nguồn, ở những vị trí có ý nghĩa chiến lược cao. Đó là những sự kiện được báo chí phanh phui. Không ai có thể biết hết những gì Trung Quốc đã và đang làm ở Việt Nam.
Một nguy hiểm khác là, qua việc im lặng ấy, Việt Nam gửi một tín hiệu sai đến các quốc gia khác trên thế giới. Điều hầu như ai cũng đã rõ: Việt Nam không thể tự mình đối đầu với Trung Quốc. Thế Việt Nam quá yếu. Mọi toan tính tự vệ của Việt Nam chỉ trở thành khả thi chỉ với một điều kiện: sự giúp đỡ từ bên ngoài. Nhưng không ai có thể giúp đỡ Việt Nam khi họ không biết Việt Nam nghĩ gì và muốn làm gì. Không có sự hiểu biết ấy không thể có sự liên minh mật thiết được.
Nhưng nguy hiểm nhất là điều này: sự im lặng ấy làm cho chính quyền trở thành mục tiêu phê phán và chống đối của dân chúng. Lâu nay, dưới mắt nhiều người, giới lãnh đạo bị xem là những kẻ hoặc quá nhu nhược hoặc bị Trung Quốc mua chuộc để nhường nhịn hết yêu sách này đến yêu sách khác của Trung Quốc. Rất nhiều người thậm chí còn cho giới lãnh đạo là những kẻ bán nước, hoặc ít nhất, bán Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Biển Đông nói chung cho Trung Quốc. Không mấy ai còn tin vào quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của chính quyền. Mất đi sự tin tưởng ấy cũng đồng nghĩa với việc mấy đi sức mạnh chính đáng của sự lãnh đạo.
Tiếp tục im lặng và bất chấp ba nguy cơ trên, chính quyền Việt Nam đang tự cô lập mình, tự cách ly mình với dân chúng và với cộng đồng quốc tế. Đó là một quyết định dại dột.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét