Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2014

Tại sao VN không dám kiện TQ ra trước tòa án quốc tế?






Cuối tháng 5-2014 vừa qua, trong chuyến công du Philippines, Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố Việt Nam có thể kiện Trung Cộng ra trước toà án quốc tế. Nhiều người thiện chí mừng rỡ ra mặt qua những bài viết trên mạng. Nhưng sau đó dường như mọi chuyện xảy ra như chưa hề có lời tuyên bố ấy. Những ai có kinh nghiệm về cộng sản, đặc biệt kinh nghiệm về những lời tuyên bố trang trọng của Nguyễn Tấn Dũng, nghe xong đều bỏ ngoài tai như những lời của trẻ con hay của “thằng Cuội” trong truyện cổ tích.

Những người tin rằng CSVN đã ký kết những mật ước bán nước để đổi lấy sự bảo trợ của ngoại bang cho độc quyền cai trị của họ có thể quả quyết: chẳng đời nào CSVN dám kiện Trung Cộng về vụ Hoàng Sa và Trường Sa. Tất cả những tuyên bố phản đối Trung Cộng có vẻ mạnh bạo của các lãnh đạo CSVN đều chỉ là đóng kịch hầu làm yên lòng dân chúng thôi. Vì hiện nay lòng dân đang hết sức hoang mang lo lắng vì nghi ngờ rằng những mật ước mà Trung cộng và CSVN đã lén lút ký kết với nhau sẽ hết sức bất lợi cho vận mạng và sự sống còn của dân tộc. Nếu những mật ước này được chính thức tiết lộ và người dân bất ngờ biết được rõ ràng không thể chối cãi về dã tâm bán nước của đảng CSVN, thì sự phẫn nộ của người dân sẽ vọt lên cao độ có thể nổ ra những cuộc biểu tình bạo động của toàn dân ở khắp đất nước. Lúc ấy chế độ cộng sản chắc chắn sẽ sụp đổ.

Lúc ấy, với thể chế mới nghiêng về tự do dân chủ, số phận của đảng và của những người lãnh đạo đảng sẽ hết sức bi đát, và mộng thôn tính Việt Nam hay mộng biến Việt Nam thành “sân sau” của Trung cộng cũng tan thành mây khói. Chính vì thế, cả CSVN lẫn Trung cộng đều vì quyền lợi của mình mà cùng cam kết giữ bí mật những mật ước ấy cho đến thời điểm mà việc “bật mí” không còn gây nên bất lợi cho đôi bên nữa.

Mặc dù nếu kiện Trung cộng ra trước tòa án quốc tế, CSVN chắc chắn sẽ thắng, vì những bằng chứng lịch sử của Việt Nam về chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã hết sức rõ ràng không thể chối cãi. Trong khi đó, lý chứng của Trung cộng về chủ quyền của họ trên hai quần đảo này rất yếu. Nếu lý chứng của Trung cộng mạnh và nếu họ nắm chắc phần thắng thì chắc chắn 100% họ sẽ không đe dọa hầu ngăn cản CSVN kiện họ ra tòa án quốc tế. Vì thế, nếu CSVN có can đảm kiện Trung cộng, phần thắng chắc chắn nằm về phía Việt Nam.

Về phía Trung cộng, ngày 8-6-2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 sự kiện chứng tỏ CSVN đã công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc. 5 sự kiện đó gồm:

1. Lời của Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao và của Lê Lộc, Trưởng Vụ Á châu thuộc Ngoại giao CSVN thời Hồ Chí Minh tuyên bố ngày 16-5-1956 khi tiếp Lý Chí Dân, đại diện Sứ quán Trung cộng tại Hà Nội, công nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc”, thậm chí “thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống”.

2. Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 mặc nhiên công nhận hai quần đảo trên thuộc Trung Quốc.

3. Tuyên bố của CSVN thời Hồ Chí Minh ngày 9-5-1965 về việc quân Mỹ lập khu tác chiến ở Việt Nam cũng có đoạn công nhận “một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa là của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”

4. Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng CSVN vào năm 1972 có ấn hành Tập Bản đồ thế giới không ghi tên hai quần đảo quần đảo trên là Hoàng Sa và Trường Sa mà lại ghi là Tây Sa và Nam Sa, là tên do Trung Quốc đặt.

5. Nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội đã xuất bản sách Địa lý lớp chín năm 1974 có đoạn viết: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn … làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc.”

Những bằng chứng kể trên của Trung cộng có giá trị pháp lý rất yếu so với những bằng chứng mà CSVN có thể đưa ra. Nếu Trung cộng chỉ đưa ra được một vài lời của cá nhân ông nọ ông kia thuộc chế độ CSVN −một chế độ không có tự do ngôn luận− công nhận hai quần đảo đó là của Trung cộng, thì để đối đáp lại, CSVN có thể trưng ra biết bao lời của những người có uy tín thuộc chế độ VNCH −một chế độ mà người dân có quyền tự do ngôn luận− công nhận ngược lại. Đó là chưa kể những văn bản và bản đồ trong lịch sử của Việt Nam, của Trung cộng và của thế giới làm chứng cho Việt Nam. Những bằng chứng kể trên của Trung cộng tuy hết sức rẻ tiền nhưng lại làm cho CSVN rất nhột, khiến CSVN rất e dè không dám mạnh dạn kiện Trung cộng. Tại sao vậy?

Hiện nay, ai cũng biết là hai đảng Cộng sản, Trung cộng và Việt cộng, đã từng lén lút ký kết với nhau những mật ước mà vì quyền lợi chung của cả hai bên, nên cả hai đều hết sức giữ bí mật như đã cam kết. Tại sao lại phải giữ bí mật, nếu không phải là một chuyện mờ ám? Người dân có thể đoán được lý do là những mật ước này chắc chắn có lợi cho tham vọng “độc quyền trường trị Việt Nam” của đảng CSVN nhưng hết sức bất lợi cho quốc gia và dân tộc Việt Nam. Nội dung những mật ước này cho tới nay chỉ có Bộ Chính Trị biết với nhau, còn người dân chỉ nhận được những thông tin rò rỉ không chính thức nên chưa ai dám quả quyết điều gì. Tuy nhiên, trong quá khứ, rất nhiều thông tin bị rò rỉ, ban đầu không ai dám quả quyết, nhưng cuối cùng mọi người đều biết đó là sự thật ([1]).

Theo tác giả Trần Gia Phụng (một sử gia ở Canada), thì Trung Quốc công bố 5 bằng chứng trên theo một kế hoạch từng bước, rất lớp lang ([2]).

Bước 1: Công hàm Phạm Văn Đồng được đưa ra sau khi giàn khoan 981 bị dân chúng Việt Nam biểu tình chống đối dữ dội và bị CSVN lên tiếng phản đối (tương đối mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mặc dù vẫn còn rất yếu so với mức độ hợp lý phải làm). Công hàm ấy được đưa ra vào thời điểm này có tác dụng khiến CSVN lo sợ nên đã ra lệnh cấm dân chúng biểu tình chống Trung Quốc.
Hành động cấm đoán này khiến người dân phẫn nộ chống luôn cả CSVN. Vì qua hành động cấm đoán này, người dân thấy được bộ mặt thật của CSVN là đồng lõa tiếp tay với Trung cộng. Nước mất tới nơi, kẻ thù đã vào tận nhà, thế mà đảng và nhà nước cầm quyền đã không làm gì đủ mạnh để chống lại, lại còn cấm người dân phản đối thì rõ ràng là tiếp tay giúp kẻ thù rồi còn gì nữa? Để xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng, Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng khi công du Philippines đã lên tiếng sẽ kiện Trung cộng ra trước tòa án quốc tế.

Bước 2: Vụ sách giáo khoa lớp 9 được đưa ra sau lời tuyên bố sẽ kiện Trung cộng của Nguyễn Tấn Dũng tại Philippines.
Lúc này người dân thấy rõ lãnh đạo CSVN đang ở trong thế “trên đe dưới búa” giữa Trung cộng và người dân trong nước. Vì thế phải làm sao xoa dịu được sự phẫn nộ của cả hai phía. Điều này quả là nan giải, vì hễ xoa bên này thì sẽ làm bên kia phẫn nộ và ngược lại. Nên lãnh đạo CSVN cứ phải “đu giây” giữa hai thế lực này để tồn tại. Do đó, mọi hành động của CSVN trong giai đoạn này hoàn toàn là chỉ để đối phó sao cho xong chuyện, sao cho chế độ có thể tồn tại được. Mọi cách lừa bịp, đóng kịch, giả bộ… đều có thể sử dụng.

Bước 3: Trung cộng đưa ra cùng một lúc năm bằng chứng kể trên để buộc CSVN phải nhượng bộ Trung cộng nhiều hơn.
Đặc điểm của những bằng chứng trên không có giá trị pháp lý trước tòa án quốc tế, nhưng có giá trị đe dọa rất lớn đối với giới lãnh đạo CSVN, vì nó giúp người dân Việt trong nước cũng như hải ngoại từ từ thấy được ngày càng rõ ràng và chắc chắn bộ mặt thật sự bán nước của CSVN. Đây là điều mà CSVN muốn che dấu với bất cứ giá nào, nhưng không ngờ Trung cộng lại đang dần dần “bật mí” từng bước một. Chắc chắn Trung cộng sẽ tiếp tục “bật mí” nếu CSVN hành động bất lợi cho Trung cộng. Điều này khiến CSVN vô cùng lo sợ.

Ba bước trên được thực hiện rất tiệm tiến, từng bước một, là một thông điệp mà Trung cộng muốn nhắn nhủ CSVN: 5 bằng chứng trên chưa phải là hết, vì sẽ còn những bằng chứng khác mạnh mẽ hơn nhiều. Người dân trong nước khi biết chắc chắn những bằng chứng ấy là sự thật sẽ phải “ngã ngửa” và “bừng bừng nổi giận”. Nếu CSVN quyết ăn thua với Trung cộng, chẳng hạn, kiện Trung cộng trước quốc tế, hoặc đi với Mỹ để chống lại Trung cộng, hoặc phản đối Trung cộng một cách quyết liệt, khiến mộng thôn tính Việt Nam của Trung cộng hoàn toàn tan vỡ, thì Trung cộng sẽ có thái độ “phá thối”, “ăn không được, phá cho hôi”. Điều này đương nhiên xảy ra và quả rất dễ hiểu đối với những “tên điếm”, những chế độ “tiểu nhân tới mức tận cùng” như Trung cộng và Việt Nam.

Nếu người dân phẫn nộ đến mức nổi lên lật đổ chế độ CSVN và thiết lập chế độ tự do dân chủ thì Trung cộng sẽ không thôn tính được Việt Nam. Khi ấy Trung cộng chỉ bị hụt hẫng vì đã hy sinh tiền bạc, vũ khí giúp CSVN lên ngôi thống trị toàn Việt Nam mà kết cuộc chẳng được gì. Nhưng số phận những tên lãnh đạo CSVN chắc chắn sẽ không khác gì số phận những tên độc tài phản quốc như Gadhafi, Hussein, Honecker, Ceauşescu…

Chính vì thế, CSVN rất sợ, không dám làm gì mạnh tay đối với Trung cộng, không dám kiện Trung cộng trước tòa án quốc tế về vụ Trường Sa Hoàng Sa dù biết rằng hễ kiện thì sẽ thắng. CSVN rất sợ những gì sẽ xảy ra sau đó vì chắc chắn Trung cộng sẽ trả thù. Những kẻ tiểu nhân và hèn hạ đều biết chúng sẽ bị đồng bọn đối xử với chúng ra sao khi chúng phản bội.

Hiện nay, trong tình trạng “trên đe dưới búa” của CSVN, lối thoát duy nhất và khôn ngoan nhất của họ bây giờ là “đái công chuộc tội” bằng cách trở về với quốc gia dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi của đảng, của gia đình cũng như của cá nhân mình. Họ hãy kịp thời chủ động chuyển đất nước sang thể chế dân chủ tương tự như Miến Điện đã làm. Hãy trả tự do cho những người yêu nước đang bị cầm tù hay quản chế, và mời những người yêu nước thương dân và có tài để cùng với họ chuyển hóa đất nước sang thể chế dân chủ thật sự.

Người Việt là một dân tộc rất sùng đạo, nói chung, họ đã thấm nhuần tinh thần đạo đức của các tôn giáo lớn, chắc chắn họ sẵn sàng tha thứ cho những kẻ lầm lỗi biết trở về đường ngay nẻo chính bằng những hành động “đái tội lập công” cụ thể. Đó chính là con đường duy nhất để đảng CSVN có thể cứu nguy dân tộc đồng thời tự cứu lấy mình.

Với thể chế dân chủ đích thực, chính quyền mới sẽ hành động tương tự chính phủ Hoa Kỳ sau cuộc nội chiến Nam Bắc phân tranh, hay như chính phủ Đức sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất. Sẽ không có những trại học tập cải tạo dã man và bỉ ổi như CSVN đã làm đối với quân cán chính VNCH. Những kẻ “đái tội lập công” sẽ được tha thứ và tôn vinh.

Một mình đảng CSVN chắc chắn 100% không thể cưỡng lại được tham vọng bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán. Nhưng một khi quyền điều hành đất nước được trao lại cho toàn dân, thì chắc chắn Trung cộng không thể làm gì được dân tộc Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh điều đó.

Vậy thì Đảng CSVN hãy kịp thời quyết định sáng suốt để cứu lấy mình và cứu cả dân tộc! Nếu không, cả mình lẫn cả dân tộc sẽ thật khốn nạn! Hãy nhanh lên, đừng để quá muộn!

Houston, ngày 20/6/2014.

Nguyễn Chính Kết.
———————————————–

[1] Hiện nay, dư luận đang sôi sục lên vì nhiều bản tin liên quan đến mật ước Thành Đô được ký kết trong một mật nghị giữa hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên ngày 3-4/9/1990. Tin này đã được nhiều người nhắc đến từ nhiều năm nay, nhưng chỉ mang tính cách là một thông tin bị rò rỉ, không có gì xác đáng cả.
Nhưng mới đây, Wikileak xác nhận rằng mật ước này là một trong 3100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nội dung của mật ước này được cho là đarng CSVN chấp nhận Việt Nam sẽ trở thành một khu tự trị của Trung Cộng tương tự như Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây. Và thời điểm chót để hoàn thành mật ước này là năm 2020.
Chính vì thế, ngay sau khi Mật Nghị Thành Đô kết thúc, ông Nguyễn Cơ Thạch, bộ trưởng ngoại giao thời đó đã phải thốt lên: “Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu”, và sau đó ông đã bị cách chức. Trong tập hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, cũng tiết lộ nhiều điều về mật nghị này.
[2] Xin xem bài “Đã đến lúc phải dứt khoát” của Trần Gia Phụng trên trang http://danlambaovn.blogspot.com/2014/06/a-en-luc-phai-dut-khoat.html#more.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét