Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

TRONG VỎ HẠT DẺ - Tư liệu tham khảo nhân Quốc khánh


Đôi lời: " Trong vỏ hạt dẻ" là nhan đề một bài viết của tác giả Blog 5xu. Bài viết có hai phần, tôi đăng lại phần sau viết về những sự kiện 1945 và sau đó... Bạn nào muốn đọc phần đầu xin đọc tại đây: http://5xublog.org/2014/01/19/trong-vo-hat-de/#comments. Blog này rất nên đọc. Đăng Sinh

Trong vỏ hạt dẻ (tiếp và hết)


I. OSS Hoa Kỳ, quân Đồng Minh và múi giờ Hà Nội


Là con một gia đình dòng dõi ở Chicago, Albert Peter Dewey vào học đại học Yale, tốt nghiệp, đi làm phóng viên thường trú ở Paris cho Chicago Daily News và thực hiện các nhiệm vụ ngầm cho Rockefeller. Thế chiến 2 nổ ra, Dewey đăng lính và cuối cùng gia nhập OSS (cơ quan tiền thân của CIA). Đầu tháng 9 năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh (15 tháng 8), Dewey được cử đến Sài Gòn, đứng đầu một toán OSS có 7 thành viên, để đại diện cho quyền lợi Hoa Kỳ. Ở thời điểm này Hoa Kỳ chưa có cơ quan ngoại giao trên đất Đông Dương thuộc Pháp.

Khoảng nửa năm trước khi nhóm OSS của Dewey đến Sài Gòn, quân Nhật bất ngờ đảo chính Pháp ở Đông Dương (tháng 3), bắt giữ tù binh (POW), trong đó hơn 200 người Mỹ. Khi Dewey tới Sài Gòn thì Thế chiến 2 đã kết thúc, Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, ở Hà Nội Việt Minh đã cướp được chính quyền, và đang được phe Đồng Minh (Mỹ, Trung hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch) yểm trợ vì có công chống Nhật.

Trước nhóm của Dewey, vào tháng 7 năm 1945, một nhóm OSS khác, toán Con Nai, đi vào vùng rừng núi phía bắc đã huấn luyện khỏang 200 người cho các nhóm vũ trang của Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp. Những người được tình báo Mỹ đào tạo này đã rất có ích cho Việt Minh khi họ cướp chính quyền từ tay Nhật. Toán OSS Con Nai cũng cứu Hồ Chí Minh khỏi cơn sốt rét ác tính. Toán Con Nai còn tham gia hội nghị Tân Trào tổ chức ngày 16 tháng 8, và họ đã được Việt Minh sử dụng như “hàng trưng bày tủ kính” để tỏ ra có sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Chiều ngày 16, quân đội của Việt Minh xuất trận. Trận đánh đầu tiên của Võ Nguyên Giáp là đánh với bảo an và lính Nhật để giải phóng thị xã Thái Nguyên ngày 20 tháng 8. Trung đội đánh Thái Nguyên được Hồ Chí Minh đặt tên là trung đội Việt – Mỹ do có sự tham gia của OSS Con Nai. Trước đó một ngày, ở Hà Nội cách mạng đã thành công khi không có trung đội của Võ Nguyên Giáp.

Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ngay trước khi quân đội Pháp tổ chức trận càn lớn để tiêu diệt triệt để nhóm phiến quân ở vùng rừng núi phía bắc. Vô tình người Nhật đã cứu được nhóm phiến quân này. Đó chính là lực lượng Việt Minh lúc này vẫn còn ngô nghê và bé nhỏ. Các nhân viên OSS Con Nai huấn luyện cho lực lượng bán vũ trang sơ khai của Việt Minh. Và nhóm tuyên truyền có vũ trang này ngay lần đầu ra tay, bằng tuyên truyền và súng để đe dọa, đã dập tắt cuộc mít-tinh ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim ở Hà Nội vào ngày 17 tháng 8 năm 1945. Hai ngày sau họ cướp được chính quyền ở Hà Nội. Từ rừng núi đi về Hà Nội vào những ngày Cách Mạng Tháng 8 cùng với Việt Minh có cả toán Con Nai của tình báo Mỹ. Những người lãnh đạo Việt Minh ấy, sau này tiến hành một cuộc chiến tranh dai dẳng đẩy Mỹ ra khỏi Đông Dương. Tất cả những sự tình cờ này, là do lịch sử nghịch ngợm mà cố tình sắp đặt. Thậm chí, nếu tin vào các hồi ký của sĩ quan OSS, thì thậm chí chính OSS can thiệp với chính quyền Tưởng Giới Thạch để thả Hồ Chí Minh bị Trương Phát Khuê cầm tù (1943). Nếu đúng vậy thì lịch sử nghịch đến tận cùng của vạn sự.

Chưa hết, nhóm OSS cao cấp nhất, do Archimedes Patti chỉ huy, sau 19/8 đã đi thẳng từ hành dinh OSS ở Côn Minh tới Hà Nội bằng máy bay, mang theo cả những người Pháp “kháng chiến” chống Nhật vốn chạy trốn qua biên giới Việt Hoa sau khi Nhật đảo chính. Trong những người Pháp ấy có đại diện Pháp Jean Sainteny. Còn sĩ quan OSS đi cùng Patti nhưng nhảy dù xuống trước để thám sát, chính là người Mỹ gốc Pháp tên là Lou Conein, một người sau này là thuộc cấp của Edward Lansdale và là bạn của Phạm Xuân Ẩn. Lou Conein là người đưa tiền cho tướng Trần Văn Đôn để giúp đỡ phe đảo chính Ngô Đình Diệm sau này. Còn Patti đã giúp đỡ cho việc soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập cũng như “thay mặt” Hoa Kỳ tham dự lễ Độc lập đầu tiên. Patti cũng thăm dự các cuộc gặp gỡ của Lư Hán với Hồ Chí Minh.

Ở Sài Gòn, nhóm của Dewey làm việc với Việt Minh để bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ, cụ thể là khoảng hơn 200 tù nhân POW bị Nhật giam giữ gần Sài Gòn. Chỉ mấy tuần sau sau tình hình thay đổi, quân đội Anh (20th Indian Division của Douglas David Gracey) vào giải giáp Nhật. Trước khi qua đời vào tháng 4 năm 1945, tổng thống Roosevelt của Mỹ cho rằng thuộc địa của Anh và Pháp đang bị Nhật chiếm đóng cần giữ nguyên hiện trạng và đặt dưới sự kiểm soát quốc tế. Anh và Pháp tất nhiên không nghĩ như vậy. Pháp ngoan cố tìm cách giữ lại Indochina thuộc Pháp còn người Anh khuyến khích việc này. Khi vào Nam Bộ giải giáp quân Nhật họ đã thả tù binh Pháp ra, tái vũ trang cho họ để chống lại người Việt nói chung và Việt Minh nói riêng lúc này đã hiện rõ là cộng sản. Tướng Gracey, theo sách của Stanley Karnow, còn cấm tụ tập, cấm báo chí của người Việt, nhưng cho phép báo chí và đài phát thanh của Pháp hoạt động.

Ở Hà Nội, quân đội của chính quyền Tưởng Giới Thạch do Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy tiến vào miền bắc giải giáp Nhật nhưng họ đã không động chạm đến Chính quyền lâm thời và các ủy ban hành chính của Việt Minh. Tất cả những nỗ lực của Lư Hán và Tiêu Văn chỉ là tranh thủ ăn tiền và cướp bóc, đồng thời dựng các băng nhóm thân Tưởng (Quốc Dân Đảng, Đại Việt) của Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam. Đây là những nhân vật quen thuộc của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội do tướng của Trung hoa dân quốc là Trương Phát Khuê dựng lên ở Liễu Châu năm 1942. Một trong những hành động đầu tiên khi Lư Hán đến Hà Nội là bắt chính phủ Việt Minh đổi múi giờ, vốn chính thức đang phải theo múi giờ của đế quốc Nhật là GMT+9, về múi giờ GMT+7.

Ở Sài Gòn, quân đội Anh của tướng Gracey không chỉ thả người Pháp ra và tái vũ trang cho họ, mà còn tấn công trụ sở ủy ban chính quyền lâm thời của Trần Văn Giàu. Sài Gòn rơi vào tình trạng bạo lực khi người Pháp, bao gồm cả thường dân, đánh nhau với Việt Minh và Hòa Hả0. Dewey phản đối các quyết định của Gracey và quan hệ giữa họ xấu đi. Xe jeep của Dewey bị Gracey cấm treo cờ Mỹ.

Hơn mươi ngày sau khi đặt chân đến Sài Gòn, Dewey lại phải ra đi. Theo Archimedes Patti trong Why Vietnam, trước đó người sĩ quan trẻ này đã bí mật gặp Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai và Phạm Ngọc Thạch. Cũng theo Patti, báo cáo cuối cùng của Dewey gửi từ Sài Gòn nhận định “người Pháp sẽ cáo chung ở đây, còn người Mỹ chúng ta sẽ phải rút khỏi Đông Nam Á”.

Từ Continental, Dewey lái xe ra sân bay, đón hụt máy bay, lái xe trở về khách sạn. Trên đường về bị lực lượng Thanh Niên Tiền Phong của Phạm Ngọc Thạch chặn, tưởng nhầm là người Pháp, bắn chết. Dewey là lính Mỹ đầu tiên chết ở Đông Dương. Lúc đó là ngày 26 tháng 9 năm 1945, ba tuần sau khi chính phủ Việt Minh tuyên bố Độc Lập ở Hà Nội.

Ở thời điểm này không ai ngờ được rằng sẽ có hai cuộc chiến lớn sẽ xảy ra ở mảnh đất Đông Dương: chiến tranh Pháp- Việt và chiến tranh Mỹ – Việt. Hai cuộc chiến được gọi lần lượt là Chiến tranh Đông Dương lần 1, và Chiến tranh Đông Dương lần 2.

Năm 1950, gần 5 năm sau cái chết của Dewey, Hoa Kỳ mới mở cơ quan ngoại giao của mình ở Sài Gòn. Đó là lúc Anh và Mỹ công nhận Quốc Gia Việt Nam (State of Vietnam) của Quốc trưởng Bảo Đại, như một đối trọng với việc Liên Xô và Trung Quốc công nhận chính phủ Hồ Chí Minh ở vùng rừng núi phía bắc. Cùng một lúc, ở Đông Dương, tự nhiên có hai chính phủ cùng đòi hỏi sư hiện diện hợp pháp của mình trên toàn cõi Việt Nam. Một cõi mà phải đến tận năm 1975 mới liền một dải.

II. Năm 1945, bàn giao Bắc Bộ Phủ, ngày Độc Lập, và những chuyện kéo dài đến 1954.

Tính chính danh không phải là trò chơi quyền lực xa lạ gì với mảnh đất này. Tây Sơn khởi nghĩa lúc đầu chỉ là hùa theo tính chính danh của hoàng tôn nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Dương để chống lại bọn quan tham nhũng lộng hành bóc lột dân là Trương Phúc Loan. Rồi Tây Sơn đánh nhau thua quân Trịnh, đầu hàng, rồi hùa theo quân Trịnh để lấy chính danh nhà Lê để đánh nhà Nguyễn tan tác khỏi đất miền nam. Đánh nhà Nguyễn xong, để Nguyễn Nhạc lên làm vua miền trong để lấy chính danh, Nguyễn Huệ bị ép ra mảnh đất hẹp miền trung, một lần nữa phải dương tính chính danh phù Lê để ra bắc làm thịt nhà Trịnh. Nhà Trịnh lúc này tiếm quyền vua Lê đã quá lâu, mà bóc lột nhân dân cũng rất quá đà. Diệt xong nhà Trịnh, Nguyễn Huệ cướp bóc Bắc Hà, rút về miền trung để lại khoảng trống mênh mông quyền lực và xơ xác vật chất. Lê Chiêu Thống dại dột qua Tàu rước quân ngoại xâm về, để lại Thăng Long khoảng trống chính danh. Nguyễn Huệ nhanh chóng lấp mình vào chỗ chính danh ấy, lên ngôi Hoàng Đế, sử dụng địa phương quân đánh chặn quân Thanh từ biên giới về đến đất Kinh Kỳ. Theo Nguyễn Duy Chính, từ miền trung Hoàng Đế Quang Trung (đã bí mât lên ngôi) cử một cánh quân đi vòng qua Ai Lao (quân bộ) và một cánh quân đi đường biển đánh ra bắc. Hai con đường này, quân Chiêm Thành đã từng dùng để đánh Thăng Long. Nguyễn Huệ cầm một đạo quân đi nhanh ra Nghệ An, huy động quân đội và dân công tại chỗ, một bí quyết quân sự mà chỉ có Việt Minh đánh Điện Biên sau này mới làm nổi, rồi tiến phăng phăng ra bắc. Chiến thắng Kỷ Dậu đưa Quang Trung lên hàng siêu sao về quân sự, thống nhất Trung – Bắc, đồng thời để lại bài học cho quân đội Việt Nam sử dụng địa phương quân đánh 60 vạn quân Đặng Tiểu Bình năm 1979. Chỉ có một điểm khác. Quân Quang Trung truy sát tàn nhẫn quân Thanh khi bọn này rút chạy, khiến cho nhiều năm sau chúng còn khiếp sợ không dám khiêu khích. Quân Việt Nam năm 1979 không truy kích mà tuyên bố “thiện chí hòa bình” cho Trung Quốc rút quân (từ 7 đến 18 tháng 3 năm 1979) khiến chúng khinh nhờn mà kéo dài xung đột biên giới đến 1988 và đánh Trường Sa 1988.

Thế nhưng mải mê chinh chiến trên đất bắc mà Quang Trung lơ là để hổng phía nam khiến Nguyễn Ánh có cơ mà nổi lên như bão. Nguyễn Ánh khi trở lại, lại mượn tạm tính chính danh của nhà Lê để bày trò Phục Quốc, bằng cách sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng đồng thời sử dụng tâm lý chiến để thu phục lòng dân Bắc Hà (“lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”).

Tính chính danh của nhà Nguyễn Gia Long được triều đình nhà Thanh công nhận và Việt Nam trở thành chư hầu của Trung Hoa. Sau này quan hệ “chư hầu” (vương quốc vệ tinh chịu ảnh hưởng chính trị của nhà Trung hoa) chấm dứt và trở thành quan hệ “bảo hộ” của Pháp nhờ ba sự kiện: quân Pháp đánh quân Thanh ra khỏi Lạng Sơn, hiệp ước Pháp-Thanh và hiệp ước Patrenote. Cũng nhờ hiệp ước Patrenote mà sau này ký được Hiệp ước sơ bộ mới đưa Tàu Tưởng ra khỏi phía bắc. Biên giới trên bộ Việt-Trung cũng dựa nhiều vào hiệp ước Pháp-Thanh

Việt Minh đã học bài học thứ nhất. Bài học nhảy vào chỗ trống quyền lực ở miền bắc xác xơ vì đói phá kho thóc Nhật và cướp chính quyền, họ đã làm hoàn hảo.

Theo Thomas Bass thì Cao Giao, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn, là người đã báo tin cho Mười Hương về việc Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) để họ chuẩn bị lực lượng. Chỉ 3 ngày sau, ngày 12, TW Đảng đã ra chỉ thị quan trọng “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”.

Ở Hà nội, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, rất nhanh về mặt thời cơ, Trương Tử Anh của đảng Đại Việt, vốn rất mạnh trong giới đại học và trí thức hồi đó, lại có thành tích yểm trợ Trần Trọng Kim, đã toan cướp chính quyền ở Tonkin (lúc này Đông Dương vẫn chia làm ba vùng tách biệt) nhân cuộc mít tinh ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim ngày 17 tháng 8 ở Hà Nội. Theo lệnh của Trương Tử Anh, sư đoàn Sao Trắng của Vũ Kim Thành kéo về Hà Nội kết hợp lực lượng sĩ quan trường võ bị Lạc Triệu để chiếm Hà Nội nhưng bất thành. Sau này chính Vũ Kim Thành đã tham gia tổ chức ám sát Nguyễn Bình nhưng ông tướng này chỉ bị thương nặng. Ở thời điểm bước ngoặt, Nhật thua trận, chính phủ Trần Trọng Kim bất ngờ bơ vơ, Bảo Đại chỉ đạo cho Trần Trọng Kim tổ chức chính phủ lâm thời, đồng ý cho Trần Văn Lai tổ chức và cho ra mắt Ủy ban giám đốc chính trị miền bắc ngày 16 tháng 8 rồi tổ chức cuộc mit tinh 17 tháng 8 nói trên ở Hà Nội. Sự kiện lơ ngơ này của chính phủ Trần Trọng Kim vô tình đưa chìa khóa cho chính quyền của Việt Minh đang nằm chờ ở Việt Bắc.

Do chuẩn bị tốt hơn, đội tuyên truyền có vũ trang của Việt Minh từ Tân Trào về, phối hợp với người của Trường Chinh đã có mặt sẵn ở Hà Nội, nhanh chóng biến vụ cướp chính quyền của Trương Tử Anh thành của mình, để hai ngày sau họ có cuộc cướp chính quyền khác hiệu quả hơn, nay được biết với tên gọi Cách Mạng Tháng Tám (ngày 19 tháng 8). Ngày 19 tháng 8, Nguyễn Xuân Chữ, chủ tịch Ủy ban giám đốc chính trị miền bắc, bàn giao Bắc Bộ Phủ cho Việt Minh. Ủy ban giám đốc chính trị miền bắc có chủ tịch là Nguyễn Xuân Chữ, các thành viên có Trần Văn Lai, Đặng Thai Mai, Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long). Hoàng Đạo là em, và là bộ óc đứng sau các hoạt động chính trị của Nhất Linh, rất tiếc chết đột tử trên tàu hỏa vài năm sau đó. Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, tháng 9 năm 1944 tham gia Ủy ban kiến quốc (nhóm trung thành với Cường Để) ở Sài Gòn. Ngô Đình Diệm đứng đầu ủy ban này, còn Nguyễn Xuân Chữ làm phó.

Sau khi cướp chính quyền, chỉ trong vài ngày, Việt Minh dẹp sạch các phần tử có tiềm năng cạnh tranh ở khu vực Hà Nội, rồi Võ Nguyên Giáp cho người lên chiến khu rước Hồ Chí Minh về làm lễ mùng 2-9 trong thanh bình. Trước khi vào nội thành, Hồ Chí Minh gặp Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh ở Phú Thượng và hỏi: Mình làm chủ tịch à? Đây là lần đầu tiên trong đời Hồ Chí Minh, lúc này khoảng 56 tuổi, đặt chân đến Hà Nội. Đây cũng là lần thứ 4 Võ Nguyên Giáp đi đón Hồ Chí Minh. Ở thời điểm bước ngoặt này, Hồ Chí Minh nổi danh nhiều hơn với tên gọi ông già Tân Trào, sau được biết chính là Nguyễn Ái Quốc. Một trong những hoạt động của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp sau khi có chính quyền là đến gặp sinh viên của Đông Dương Học Xá (Université indochinoise, nay là khoa Hóa và Đại học Dược Hà Nôi) và đến nói chuyện với sinh viên trường này ở Cư xá của họ (Cité universitaire de Hanoi, nay là khoa sau đại học, trong Đại học bách khoa Hà Nội).

Theo hồi ký Bùi Diễm (đảng viên Đại Việt, hoạt động dưới quyền Trương Tử Anh, sau là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoa Kỳ) và hồi ký Lê Giản (Giám đốc nha công an Việt Minh, nằm trong bộ nội vụ của bộ trưởng nội vụ Võ Nguyên Giáp) cho biết Trương Tử Anh bị bắt và xử chết sau đó nhiều tháng. Theo sách của Hoàng Văn Đào, có một nhân vật cộm cán của VNQDĐ qua làm cho công an Việt Minh nên bắt đảng viên nào của Quốc Dân Đảng là dính bóc đảng viên ấy. Cũng theo hồi ký Bùi Diễm, các cơ sở chính quyền Việt Minh được tổ chức đồng loạt khắp các vùng thôn quê vùng sâu vùng xa, và được tổ chức rất tốt và đặc biệt là rất tàn nhẫn. Theo hồi ký của Thụy Nga (người vợ miền nam của Lê Duẩn), đội Thanh Niên Tiền Phong do bác sỹ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh đã tổ chức các hoạt động tảo thanh (tiễu trừ các đối lập chính trị) rất mạnh, dư âm còn lại rất lâu sau này trong tâm lý người dân. Bản thân Thụy Nga bị đội này bắt nhầm và suýt giết, may mà chỉ huy lúc đó là Phạm Hùng biết tin nên tha chết (Phạm Hùng kể lại với Thụy Nga: không thì chị đi mò tôm rồi).

Nhưng Việt Minh không thực hiện được bài học thứ hai, dù đã nỗ lực hết mình. Sau cách mạng tháng tám chỉ hai năm, người Pháp đã dựng được Nam Kỳ Quốc (Quốc gia Đàng Trong/ State of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president (thủ tướng). Và ngay cả khi đã thắng trận Điện Biên Phủ rồi ký hiệp định Geneva, thì họ đã để cho gần như một tay Edward Lansdale tổ chức cả chiến tranh tâm lý lẫn logistic cho cuộc Exodus vĩ đại đưa gần một triệu người “đi ngược gió nồm vào Nam”. Số dân bắc di cư vào nam trong đợt này tương đương 5% dân số miền bắc. Trong đó khoảng hơn 300 ngàn người đi bằng tàu của Hải Quân Hoa Kỳ (chiến dịch Operation Passage to Freedom – Sang Phía Tự do) và khoảng 200 trăm ngàn người đi bằng cầu hàng không được coi khổng lồ nhất thế giới lúc bấy giờ với 1200 km chiều dài, cứ 6 phút có một máy bay hạ cánh ở đầu Sài Gòn. Một hàng hàng không dân dụng tham gia cầu hàng không này lại là một hãng hàng không bí mật của tình báo Mỹ. Tên hãng lúc đầu là Civil Air Transport, sau đổi thành Air America. Lúc Điện Biên Phủ khó khăn, CIA thuê phi công dân sự lái cho hãng này để không vận cho cứ điểm. Sau Geneva 1954, theo sách về CIA của Zalin Grant, nhóm của Lou Conein được Lansdale gửi ra Hà Nội thực hiện các hoạt động phá hoại cũng như giấu vũ khí và thuốc nổ dọc theo sông Hồng cho các hoạt động kháng chiến chống cộng những năm sau 1954.

Ở phía Nam, theo sách của Thomas Bass, sau hiệp định Geneva, Landsdale tổ chức huấn luyện biệt kích và thả từ biển (người nhái) đột nhập vào duyên hải Bắc Bộ, mang theo vũ khí và rất nhiều vàng. Người nhái vào đều bị phản gián Bắc Việt bắt sạch, nhưng Landsdale không biết mà vẫn tiếp tục gửi thêm các nhóm khác. Số phận các người nhái này vẫn là bí ẩn, chỉ biết họ còn sống đến sau 1975. Sau này người ta cho rằng Phạm Xuân Ẩn là người làm kế hoạch của Lansdale thất bại.

Việc tuyển dụng biệt kích mang qua Philippines huấn luyện, theo Zalin Grant, có sự tham gia của Conein. Cũng lúc này Landsdale ráo riết hoạt động ủng hộ Ngô Đình Diệm và nội các non nớt của ông này. Việc kéo các sĩ quan Hòa Hảo, Cao Đài, trong đó có Trình Minh Thế về phe Ngô Đình Diệm là có công sức vận động của Landsdale, một người không biết một ngôn ngữ nào ngoài tiếng Mỹ. Sau khi Lansdale rời Sài Gòn, ở Trường Võ bị Đà Lạt phái bộ quân sự Hoa Kỳ bắt tay vào huấn luyện quân đội quốc gia Việt Nam bắt đầu manh nha hình thành.

III. Năm 1946


Rất nhanh sau ngày Độc Lập (mùng 2 tháng 9), sắc lệnh số 8 do Võ Nguyên Giáp ký ngày 5 tháng 9 năm 1945 đã đặt các đảng phái chống Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật (Khoản thứ nhất : Nay giải tán “Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng” và “Đại Việt Quốc dân Đảng”. Khoản thứ hai : Nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị).

Trong lúc mải mê săn đuổi và triệt hạ các đảng phái này, Việt Minh quên béng Bảo Đại, lúc này đang làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh với cái tên Vĩnh Thụy, lại cố ý cho ông này đi thoát qua Trung Quốc rồi bỏ rơi cựu hoàng này ở Côn Minh (16 tháng 3 năm 1946), bắt hụt Ngô Đình Nhu và thả Ngô Đình Diệm ra khỏi nhà ngục.

Bảo Đại, đi Trung Quốc vừa tự nguyện vừa bắt buộc. Chỉ 10 ngày trước khi đi, Việt Minh ký hiệp ước để “quay lại” với Pháp, một điều trái với ý quốc dân và tự mâu thuẫn với việc họ phế chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim. Bị bỏ rơi lại Côn Minh, Bảo Đại loay hoay vài tháng với Quốc dân đảng Trung Hoa rồi bỏ đi Hong Kong vào Tháng 9. Trong thời gian ở Trung Quốc, dù rất nghèo Bảo Đại vẫn tìm cách bảo trợ cho triển lãm tranh của Nguyễn Tường Lân. Họa sỹ tài năng này chỉ một thời gian ngắn sau đó bị Việt Minh bắt và chết trong tù. Khi Bảo Đại đi ra khỏi Việt Nam sau khi ký hiệp ước sơ bộ mùng 6 tháng 3, không ai ngờ được rằng sẽ có chiến tranh Pháp Việt và sau đó là việc Pháp ký Hiệp ước Élyseé với Bảo Đại, tạo tiền đề cho nhà nước Việt Nam Cộng Hòa sau này. Có một chi tiết nhỏ, lúc Bảo Đại ở Trung Quốc, chính phủ Nhật đang ở đáy của thất bại, vẫn gửi hiến binh giả làm người Việt qua tìm Bảo Đại và bảo vệ vị cựu hoàng này. Người Nhật có cái gì đó rất kì quặc, nhưng là sự kì quặc của chung thủy, tận tụy và phi thời gian.

Ngô Đình Diệm, lúc đó bị Việt Minh bắt giam trên rừng, được đưa về Hà Nội giam chỗ bây giờ là công an Hoàn Kiếm. Theo hồi ký Lê Giản, chính Lê Giản đưa Hồ Chí Minh vào nhà lao để gặp Ngô Đình Diệm, Lê Giản đứng gác ở ngoài, sau đó Ngô Đình Diệm được thả. Gần 5 năm sau khi được thả, Ngô Đình Diệm qua Nhật gặp Cường Để và tìm kiếm hỗ trợ từ nước Nhật nhưng thất bại. Rồi qua Bỉ, qua Pháp, cũng thất bại. Rồi qua Mỹ, cũng chưa ăn thua. Cho đến lúc Ngô Đình Nhu tìm cách để Bảo Đại bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng (thực chất là đứng đầu chính quyền miền nam) và Diệm về Sài Gòn nhận chức chỉ hai tuần trước khi Geneva được ký, và đất nước bị chia làm hai nửa không bằng nhau. Chuyện này cuối bài kể tiếp. Còn bây giờ lần một chút về nắm bối cảnh quá khứ.

IV. Những chớp ảnh về quá khứ: từ 1920 rồi lại đến 1945.

Các thế hệ thanh niên tân học, sinh ra và lớn lên ở một nước Pháp viễn đông (Cochinchina) hay một vùng được nước mẹ Đại Pháp bảo hộ (Annam, Tonkin) đã học được từ phương tây tinh thần tự do và mong ước dân tộc độc lập. Tinh thần ấy đi sâu vào các hoạt động xã hội, chính trị, vào báo chí, văn nghệ, vào các chính trị gia, các đảng phái. Độc lập với họ không cần là self-government hay autonomy về mặt hình thức, mà phải ở nội dung: thống nhất Trung Nam Bắc, tự chủ về kinh tế, tiền tệ, ngoại giao và quân sự. Khởi nghĩa Yên Bái và hoạt động của Nguyễn An Ninh là tiêu biểu của thanh niên thời kỳ này.

Chính quyền thuộc địa của Pasquier nhanh chóng phản ứng với xu thế này. Họ lập tức cổ võ truyền thống dân tộc, giá trị cổ điển của nước Annam, và tái lập hình ảnh và vị thế của triều đình Huế. Nhưng ngai vàng lại bất ngờ trống vắng khi vị vua thân Pháp là Khải Định lăn ra chết. Chính quyền thực của Huế, không nằm trong tay vua, mà nằm trong tay các quan lại. Họ bắt đầu chống Pháp theo kiểu của họ, bằng cách đòi hỏi sử dụng hiệp ước 1884. Để làm điều này, quan đại thần Nguyễn Hữu Bài yêu cầu Pháp mang hoàng tử trẻ lúc này đang học ở Pháp, là Bảo Đại, trở về. Một vị quan – trí thức khác là Phạm Quỳnh lại đòi xây dựng quân chủ lập hiến. Trí thức tây học thậm chí còn cực đoan hơn, đòi dẹp luôn triều đình mà lập ra cái gì đó mới mẻ hơn hẳn. Kết quả là Bảo Đại quay về Huế năm 1932 khi 20 tuổi. Một năm sau, năm 1933, Nguyễn Hữu Bài, 70 tuổi, bị Pháp lật đổ và thay người thân Pháp là Phạm Quỳnh vào. Cũng trong năm này, Phạm Quỳnh cạnh tranh quan điểm khá mạnh với một quan khác và khiến viên quan này phải từ chức, rồi từ đó mang tư tưởng chống Pháp và có hào quang của một vị quan treo ấn từ quan. Đó là Ngô Đình Diệm. Năm này Ngô Đình Diệm 32 tuổi và là thượng thư trẻ nhất của triều đình. Sau khi từ quan, Ngô Đình Diệm tham gia các hoạt động ngầm chống Pháp của hoàng thân Cường Để, do đó bị mật thám Pháp theo dõi rất chặt chẽ .

Đầu những năm 1940, Nhật tiến vào Indochina với thỏa thuận ngoại giao mềm mại với chính quyền Vichy. Kiểm soát của chính quyền Pháp trở nên lỏng lẻo, mật thám Pháp sao nhãng việc giám sát. Hiến binh Nhật bắt đầu các hoạt động ngầm ủng hộ các tổ chức kháng Pháp.

Ở phía nam họ hỗ trợ Cao Đài, Hòa Hảo. Năm 1942, lãnh đạo Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị mật thám Pháp vây bắt. Hiến binh Nhật đã giải thoát rất ngoạn mục vị lãnh đạo tôn giáo 22 tuổi khỏi tay mật thám Pháp. Nhưng đến năm 1947, ở tuổi 27, Huỳnh Phú Sổ không thoát nổi tay Việt Minh. Cũng năm 1942, giáo chủ Phạm Công Tắc, lúc này 52 tuổi, bị Pháp bắt và đày qua Madagascar. Ở đó Phạm Công Tắc bị giam chung với tù cộng sản, trong đó có Lê Giản. Hồi ký Lê Giản có kể lại chuyện này.

Ở miền trung người Nhật ủng hộ các nhóm Đại Việt thân Nhật và chịu ảnh hưởng của Cường Để, trong đó có nhóm Ngô Đình Diệm. Năm 1944 khi mật thám Pháp vây bắt Ngô Đình Diệm, hiến binh Nhật đã giải cứu rồi mang Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn để bảo vệ.

Ở miền bắc họ tuyên truyền và lấy tình cảm của trí thức trẻ và học sinh sinh viên trong Đông Dương Học Xá (Université indochinoise), đặc biệt là với nhóm Đại Việt của Trương Tử Anh và học giả Trần Trọng Kim. Tháng 7 năm 1944 thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh bắt Trương Tử Anh, hiến binh Nhật can thiệp không cho bắt. Hồi ký của Bùi Diễm mô tả khá sống động hoạt động ngầm và nổi của người Nhật ở Hà Nội quãng thời gian này: rất tinh tế, tinh xảo và hiệu quả.

Khi người Nhật đảo chính Pháp, họ tiếp quản căn cứ không quân rất quan trọng là Gia Lâm. Sau họ bàn giao lại cho Việt Minh khi phe này lên nắm chính quyền. Chiến tranh Việt – Pháp nổ ra, Pháp chiếm lại Gia Lâm. Sĩ quan Nhật huấn luyện đội cảm tử quân toàn dùng yêu tạ (ưu tạ, nghĩa là giang hồ thảo khấu) của Hoàng Minh Chính và Lê Minh Nghĩa các kỹ thuật thuốc nổ để đánh sân bay Gia Lâm giáp Tết 1947 (trận đánh đầu tiên của Việt Minh vào căn cứ quân sự hàng khủng của Pháp). Hỗ trợ huấn luyện quân sự của sĩ quan Nhật giúp Việt Minh (rất quan trọng) ở miền nam sẽ được kể tiếp ở phần “miền nam” phía dưới. Sau cả Hoàng Minh Chính và Lê Minh Nghĩa đều bi bắt trong vụ án chống Đảng nên trận Gia Lâm và trận Bắc Ninh bị xóa mờ khỏi quân sử.

Cùng lúc này ở bên kia biên giới, các hội kháng Pháp dưới sự bảo kê của cả quân đội Trung Hoa (quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch) và quân đội Trung Quốc (đảng cộng sản của Chu Ân Lai), xuất hiện chi chít: Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội xuất hiện sớm nhất, năm 1936, ở Nam Kinh (của Hồ Học Lãm, du học sinh Đông Du và sau này tham gia hội của Phan Bội Châu, và là sĩ quan cao cấp của quốc dân đảng), Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội (thỏa hiệp hợp tác giữa VNQDĐ và ĐCS Đông Dương), và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội do chính tướng của Quốc dân đảng là Trương Phát Khuê tổ chức cho người Việt hải ngoại. Trong nhóm của Trương Phát Khuê có Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội sau được dựng lại thànhViệt Minh.

Có một chi tiết mà lịch sử lại rất nghịch ngợm ở đây, đó là Trương Phát Khuê chính là người đã bắt bỏ tù Hồ Chí Minh ở Trung Quốc rồi lại thả ra (8/1942 đến 9/1943) để tận dụng nhân vật tài năng này xây dựng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội sau khi Hồ Chí Minh bỏ đi để về với Việt Minh, ngay lập tức chia rẽ nội bộ và suy yếu. Ngay cả tên Hồ Chí Minh, cũng được cho là do Nguyễn Ái Quốc sử dụng từ năm 1939 dưới vỏ bọc một sĩ quan Bát Lộ Quân của Diệp Kiếm Anh ở Quế Lâm để lẩn trốn sự truy tìm của trùm mật vụ quốc dân đảng là Tai Li (Dai Li, Taili, Đới Lạp, 戴笠) vốn có mạng lưới chân tay trên khắp đất Trung Hoa và cả ở các khu nhượng địa, đặc biệt là các nhóm xã hội đen hoạt động ngầm.

Cũng trong thời gian 1939-1940, dưới tên Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ Chu Ân Lai (người quen cũ từ hồi ở Pháp 1921), liên hệ với nhóm VNĐLĐMH (Việt Minh) và ủy ban hải ngoại của ĐCS Đông Dương của Hồ Học Lãm , Hoàng Văn Hoan và Phùng Chí Kiên; đồng thời tìm cách liên lạc với Đảng cộng sản Đông dương ở trong nước nhưng bất thành. Cùng lúc này ở trong nước, Chu Văn Tấn và Hoàng Văn Thụ tổ chức khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 5 năm 1940, lúc Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Hoàng Văn Thụ gửi sang Trung Quốc, họ đã gặp Nguyễn Ái Quốc vào tháng 6 ở Côn Minh nhưng sử dụng tên cũ hồi ở Hồng Công là Vương. Đây là lần đầu tiên Võ Nguyên Giáp gặp Hồ Chí Minh, và là lần đầu tiên Hồ Chí Minh trở về đất mẹ. Họ đi vào Pắc Bó. Năm 1943, khi Hồ Chí Minh được Trương Phát Khuê thả ra khỏi tù, quản thúc rồi đồng ý cho về Việt Nam, Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đi đón lần thứ hai. Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh đi Trung Quốc để trả cho quân Đồng Minh (thực tế là không lực Hoa Kỳ) trung úy Shaw (được Việt Minh cứu) cốt để kết nối với các cơ quan tình báo Mỹ OWI, OSS và tướng Chennault (tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ) ở Côn Minh. Khi trở về Việt Nam vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1945, thì Hoàng Quốc Việt và Chu Văn Tấn đã xây dựng xong chiến khu Cao Bằng, Bắc Cạn nên từ Pắc Bó Hồ Chí Minh đi xuống Kim Lung. Chính ở Kim Lung, toán Con Nai đã gặp Hồ Chí Minh. Từ Kim Lung họ cùng nhau đi tiếp đến Na Lừa, Kim Long và gặp Võ Nguyên Giáp lên đón. Đây là lần thứ ba Võ Nguyên Giáp đón Hồ Chí Minh. Tại đây Hồ Chí Minh đổi tên địa danh thành làng Tân Trào (New Tide).

Khi rời quê hương, Nguyễn Tất Thành có một danh và một phận. Khi rời Pháp qua Nga, Nguyễn Ái Quốc có danh và phận khác. Khi rời Trung Quốc trở lại quê hương sau nhiều năm lưu lạc, Hồ Chí Minh có danh và phận thứ ba. Khi rời Tân Trào về Hà Nội, tất cả các danh và phận chập lại thành một để trở thành sứ mệnh. Quãng đường đấy dài 35 năm, trong đó 5 năm cuối chủ yếu là đi bộ.

Còn ở ngay Hà Nội, Trường Chinh tổ chức Hội Văn Hóa Cứu Quốc và thành lập hai đảng Việt Nam Xã Hội Đảng và Việt Nam Dân Chủ Đảng. Đảng Dân chủ chỉ vài năm sau được Việt Minh sử dụng làm công cụ chính danh khi cướp chính quyền ở Hà Nội và thành lập chính phủ. Với sáng kiến này, Trường Chinh đã tỏa sáng rất rực rỡ trong hàng ngũ lý luận của Việt Minh với tầm nhìn xa trông rộng của mình. Và phải rất lâu sau mới tỏa sáng thêm lần nữa, cũng ở vai trò Tổng Bí Thư, ở đêm trước Đổi Mới.

Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, rất bất ngờ và gọn ghẽ. Nhưng họ đã không chọn Cường Để, một nhân vật thân Nhật nhưng chống Pháp mà vẫn sử dụng Bảo Đại vốn thân Pháp. Người ký tuyên ngôn độc lập cho nước Việt, dưới sự che chở của Nhật, là Vua Bảo Đại cùng sáu vị thượng thư, trong đó có Phạm Quỳnh, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945. Tuyên ngôn độc lập này có đoạn: “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.”

Bất ngờ hơn nữa, người Nhật không chọn Ngô Đình Diệm, vốn đang được quân đội Nhật che chở ở Sài Gòn làm thủ tướng, vì ông này trung thành với Cường Để. Thay vào đó họ chọn Trần Trọng Kim là một học giả nổi danh. Trước đó Trần Trọng Kim được người Nhật đưa đi trốn ở Singapore . Chính phủ Trần Trọng Kim với nội các toàn dân trí thức thượng lưu đã ra mắt quốc dân với tên gọi Đế Quốc Việt Nam (Vua Bảo Đại ký chấp thuận nội các này ngày 7 tháng 4 năm 1945). Thị trưởng Hà Nội đầu tiên, Đốc lý Trần Văn Lai, chính là thị trưởng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong thời gian ngắn ngủi làm thị trưởng, Trần Văn Lai đã thay đổi ngôn ngữ hành chính từ Pháp qua Việt, thay các tên phố Hà Nội từ tên Pháp qua tên danh nhân Việt, phá tượng Pháp dựng ở Hà Nội.

Chỉ vài tháng sau,ngày 23 tháng 8, tức 4 ngày sau Cách Mạng Tháng 8, Bảo Đại nhận được yêu cầu thoái vị từ Chính phủ nhân dân cách mạng của Hồ Chí Minh. Tìm hiểu một hồi, Bảo Đại biết Hồ Chí Minh là ai, bèn thoái vị và trở thành công dân nước độc lập, ra Hà Nội làm cố vấn Vĩnh Thụy. Trong hồi ký “Một cơn gió bụi” của Trần Trọng Kim đăng trên báo năm 1949 có nhắc lại câu nói lừng danh của Bảo Đại về việc này.

Ở Bắc Bộ, Việt Minh làm chủ tình hình nhờ tảo thanh triệt để các phe đối lập. Quân Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch, lúc này Hồng Quân của Mao chưa thắng thế, và cũng không phải ở phe Đồng Minh), yểm trợ cho Quốc Dân Đảng và nhùng nhằng với cả Việt Minh lẫn Pháp. Việt Minh ký Hiệp ước sơ bộ Pháp Việt (ngày 6 tháng 3 năm 1946) để lấy tính chính danh cho chính phủ Việt Minh nằm trong Liên hiệp Pháp đồng thời đồng ý cho quân đội Pháp (tướng Leclerc) quay lại miền bắc để đẩy quân Tưởng, kẻ thù của Việt Minh ra khỏi lãnh thổ. Quốc Dân Đảng và Đại Việt gặp tai nạn nặng khi khi mất hậu thuẫn Trung Hoa, nên bị quân đội Pháp và Việt Minh, lúc này chưa chiến tranh, phối hợp tiễu trừ. Các chiến khu của Đại Việt và Quốc Dân Đảng, hai lực lượng chống Pháp quyết liệt, ở dọc sông Hồng bị lực lượng vũ trang Việt Minh của Võ Nguyên Giáp tấn công và xóa sổ. Trương Tử Anh bị bắt. Các lãnh đạo Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Vũ Hồng Khanh nhanh chân đi thoát qua biên giới. Thế nhưng Hiệp ước sơ bộ có nội dung thỏa hiệp với Pháp (chấp nhận cho Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp) và rước quân đội Pháp trở lại Việt Nam, về pháp lý đã tạo ra một nước Việt Nam chỉ có Bắc bộ và Trung bộ, và do đó lại đặt Việt Minh vào thế đối lập với các đảng phái và các tổ chức có vũ trang có tinh thần chống Pháp ở Nam bộ. Nam bộ chỉ sáp nhập trở lại với Việt Nam được sau đó mấy năm nhờ công đàm phán của Bảo Đại (Hiệp ước Élysée năm 1949).

Ở Nam Bộ tình hình rắc rối hơn nhiều. Ngay sau khi Nhật đầu hàng, Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất bao gồm tất cả các lực lượng khác nhau, bao gồm cả Việt Minh vẫn Cao Đài, Hòa Hảo …nổi lên. Một trong các lãnh đạo của mặt trận này là Ngô Đình Diệm. Lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn lúc đó là Trần Văn Giàu (Bí thư xứ ủy, sau khởi nghĩa đứng đầu Lâm ủy hành chính), Dương Bạch Mai (là ủy viên trưởng của quốc gia tự vệ cuộc nằm trong Lâm ủy hành chính). Chính quyền Việt Minh ở Sài Gòn chỉ tảo thanh được các nhóm đối lập giàu trí thức mà kém vũ trang là nhóm Lập Hiến (Bùi Quang Chiêu) và nhóm Troskist (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm) . Cả Trần Văn Giàu và Dương Bạch Mai đều có quan hệ cá nhân với nhóm Trotkist do cùng hoạt động chính trị hồi ở Paris hoặc quen nhau trong tù thực dân. Đường hướng vô sản của Troskist (Đệ tứ quốc tế, tả đối lập với Đệ tam quốc tế Stalinist của Việt Minh) khiến cho nhóm Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu rất nổi trong quần chúng lao động khi nhóm này rời Pháp quay về Sài Gòn để hoạt động chính trị. Đặc biệt là nhà cách mạng Tạ Thu Thâu rất được ngưỡng mộ. Phan Văn Hùm bị ám sát ở Thủ Đức không gây ồn ào, nhưng Tạ Thu Thâu bị xử chém công khai ở Quảng Ngãi, Việt Minh phải thay mấy nhóm hành quyết mới giết nổi ông này vì uy danh lớn quá, không ai dám ra tay. Ngô Đình Diệm bị công an Việt Minh bắt và chuyển ra Hà Nội. Các nhóm như Hòa Hảo, Cao Đài súng ống đầy mình do Nhật yểm trợ nên Việt Minh không thể cưỡng được, đành thôi. Tuy nhiên lãnh tụ Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị phục kích chết sau đó hơn một năm, khi chiến tranh Pháp Việt đã nổ ra (1947). Lực lượng Thanh Niên Tiền Phong rời Sài Gòn đi về nông thôn. Trần Văn Giàu coi như mất giá, phải ra Hà Nội làm nhà nghiên cứu cạo giấy, mở đường cho hai siêu sao là Nguyễn Bình (vốn là đảng viên quốc dân đảng, sau khi đi tù Côn Đảo đã chuyển qua hàng ngũ cộng sản lãnh đạo các hoạt động quân sự) và Lê Duẩn (lãnh đạo chính trị). Hồi ký Trần Văn Giàu, xuất bản không chính thức từ bản thảo ở Long An, hé lộ một nửa chuyện này. Sách về Cách Mạng Tháng 8 và sử đảng xuất bản ở HN những năm 1960 không nhắc gì đến Nguyễn Bình và Trần Văn Giàu. Ở giai đoạn này Dương Bạch Mai, Nguyễn Bình ở tuổi trên 40 và nắm Công An, Quân đội. Lê Duẩn, Trần Văn Giàu trẻ hơn, đều dưới 40 và nắm xứ ủy.

Ở Nam Bộ, quân Đồng Minh Anh rút đi, để lại Đông Dương cho Pháp. Ở đây có những phép đảo nghịch khá thú vị. Khi Nhật đảo chính Pháp, quân đội Pháp đóng ở Bắc Bộ, bao gồm cả sĩ quan Pháp gốc Việt, chạy qua biên giới Việt Trung, sau họ quay lại, gây sức ép lên Việt Minh. Ở Nam Bộ, sau khi Nhật đầu hàng, các sĩ quan Nhật không muốn rơi vào tay đồng minh kẻ thì tự tử, kẻ chạy qua Liên Việt (do Việt Minh lập ra). Trung úy Yushida chạy qua làm cố vấn cho quân đội Cao Đài, đại úy Kani Bushi làm cho Hòa Hảo. Hai sĩ quan Nhật đi làm như vậy là do một sĩ quan cao cấp hơn tên là Ishitako giao nhiệm vụ. Ishitako làm cho Việt Minh ở Liên Khu 5 với tên Việt là Nguyễn Thống. Việt Minh kiểm soát Liên khu 5 rất lâu (cho đến chiến dịch Atlante năm 1953 Pháp mới chiếm được). Trong thời gian này, Nguyễn Thống tiếp tục giao cho Shiato là cựu tư lệnh Hiến binh Nhật mở các khóa đào tạo tình báo cho Việt Minh ở Quảng Ngãi. Nguyễn Thống cũng chỉ huy mở đường mòn nối Liên Khu 5 (Nam Trung Bộ) và Liên Khu 7 (Nam Bộ). Đường này có tên đường Liên Việt Liên Khu 5. Đây chính là đường mòn Hồ Chí Minh sau này. Bản thân Nguyễn Thống mở các lớp đào tạo sĩ quan ở miền tây. Các sĩ quan Nhật đã đóng góp rất nhiều cho các khóa đầu của Trường lục quân trung học Quảng Ngãi do tướng Nguyễn Sơn làm hiệu trưởng. Năm 1950, Nguyễn Sơn quay trở lại Trung Quốc, các sĩ quan Nhật như Nguyễn Thống, Shiato, các sĩ quan của Nguyễn Bình … đều bị Việt Minh cô lập hoặc tảo thanh để giữ cho hàng ngũ cao cấp của họ được “kinship” đồng chất đồng màu.

Ở Bắc Bộ, quân Đồng Minh Tàu Tưởng rút đi khỏi đất liền miền bắc nhưng vẫn chiếm các hải đảo (giải giáp từ quân Nhật) vốn trước do Pháp công nhận thuộc Annam do Pháp bảo hộ (1932), sau Pháp sáp nhập vào Đông Dương Thuộc Pháp (cũng trong năm 1932). Hải quân Pháp không chịu mất chủ quyền của quốc gia, đánh nhau với quân Tàu Tưởng, đến năm 1950 mới xong.

V. Những gì xảy ra trong 1949-1950, chuyện Hoàng Sa, Trường Sa, Cochinchina và di sản của thời kỳ này.

Năm 1950, theo hiệp ước Élysée mà chính phủ Pháp ký với Bảo Đại, Nam Bộ (Cochinchina) quay trở về với đất mẹ Việt Nam. Lần đầu tiên ba miền thống nhất. Cochinchina, bao gồm cả Khmer Prom và đảo Phú Quốc cũng thoát được nỗ lực xâu xé của hoàng thân Sihanouk. Pháp cũng bàn giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) của Bảo Đại.

Lúc này, ở Hoàng Sa, Trường Sa đã có hoạt động khoa học của Pháp: các trạm khí tượng do Pháp thành lập từ trước 1940. Tổ chức khí tượng thế giới (OMM) chấp thuận đăng ký các trạm khí tượng Hoàng Sa, Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: trạm Phú Lâm số hiệu 48859, trạm Hoàng Sa số hiệu 48860, trạm Ba Bình số hiệu 48419. Năm nhân viên khí tượng đầu tiên được cử ra Hoàng Sa là do Nguyễn Xiển đào tạo ở trạm thiên văn Phủ Liễn năm 1937.

Ngày 14/10/1950, Thủ hiến Trung kỳ là Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa từ Chính phủ Pháp sang Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên quân đội Pháp vẫn đóng ở Hoàng Sa cho tới 1956. Phan Văn Giáo được Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ngày 5/7/1949 cùng thời gian với ông Trần Văn Hữu được làm Thủ hiến Nam Việt, và ông Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt. Phan Văn Giáo người Khánh Hòa vốn là dược sỹ và kinh doanh thuốc, làm ngân hàng và tham gia chính trị, rất giàu có ở Thanh Hóa. Năm 1945 bị Hoàng Đạo (Việt Minh) bắt, rồi bỏ trốn được ra Hà Nội. Sau Phan Văn Giáo được phong hàm Trung Tướng để xây dựng quân đội miền trung (Việt Binh Đoàn), tiền thân của quân đội VNCH sau này.

Tháng 9 năm 1951 diễn ra Hội nghị San Francisco. Đây là hội nghị của các nước Đồng Minh (phe thắng trận thế chiến 2) tổ chức để giải quyết các vấn đề hậu chiến ở Châu Á Thái Bình Dương, trong đó có giải quyết các tài sản của Nhật và quan hệ ngoại giao với Nhật. Có 51 nước được mời, không có Trung quốc lục địa (của Mao). Việt Nam được mời với tư cách là thành viên của Liên Hiệp Pháp.

Về Hoàng Sa và Trường Sa: ngày 5 tháng 9 năm 1951, đại diện Liên Xô là Andrei Gromyko (sau này rất nổi tiếng ở Việt Nam với vai trò ngoại trưởng) đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc (của Mao). Đề nghị này được bỏ phiếu và kết quả là 3 phiếu thuận, 1 phiếu trắng và 47 phiếu chống. Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này của Liên Xô!

Hai ngày sau, ngày 7 tháng 9 năm 1951,thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu, trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam, đăng đàn xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ông nói: “Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt Nam”. Không có nước nào phản đối tuyên bố này, kể cả đoàn Liên Xô.

Điều này một lần nữa được hiệp ước Geneva (sau Điện Biên Phủ 1954) công nhận cho chính phủ Bảo Đại ở phía nam vĩ tuyến 17.

Công lao của Bảo Đại với Nam Bộ, sau là cả Việt Nam, ở chỗ này không thể không công nhận. Hai ông hoàng Bảo Đại và Cường Để đã làm được những việc xứng đáng với dòng dõi vua chúa lập quốc của mình.

Tháng 5 năm 1956 lợi dụng Quốc gia Việt Nam lúc này mới chuyển thành Việt Nam Cộng Hòa (1955 với Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên), Tàu Tưởng Đài Loan chiếm Ba Bình Trường Sa. Ngay lập tức Ngô Đình Diệm cho hải quân ra đánh chiếm lại (tháng 8 năm 1956).

Đến năm 1974, thay vì quân Tưởng ở Đảo, lần này quân Mao ở Lục Địa, đánh Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 (sau hiệp định Paris) đã suy yếu lắm rồi. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, dù biết hải quân mình yếu và kém cỏi hơn hẳn, vẫn ra lệnh đánh trả. Đây là quyết định sáng suốt nhất và có tính chiến lược nhất của Nguyễn Văn Thiệu. Đánh trả chính là tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ nhất. Nó cũng chuyển tải thông điệp cho đời sau: để lấy lại Hoàng Sa, không cách nào khác là phải dùng biện pháp quân sự.

Trong các sách của người Châu Âu viết về đất nước, con người và lịch sử của chúng ta từ những năm cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, có nhiều cách họ nhìn nhận chúng ta vừa thú vị vừa tạo thành di sản lịch sử.

Một trong những điểm họ đánh giá về đất nước chúng ta, ở cái thời kỳ mông muội ấy, là chẳng có gì ngoài lợi thế địa lý. Họ ở đây là các hải đội của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và sau này là Pháp. Trên các con tàu ấy là hải quân, là các tu sỹ dòng Tên, dòng Đa Minh, dòng Phan Xi Cô, là các nhà buôn Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh. Ở giữa những người Châu Âu văn minh, người Việt mông muội, là các thương gia Hoa, thương gia Nhật và cả giáo dân Nhật, các linh mục lai giữa người Bồ và người Đông Nam Á.

Người Châu Âu là người vẽ bản đồ thế giới. Họ biết cái gì thì vẽ cái đấy. Biết tên gì thì đặt tên đấy. Thực tế trước khi người Bồ vẽ lại bản đồ thế giới, chỉ có biển của người Chàm (Sea of Champa, Champa Sea). Người Châu Âu biết đến Trung Hoa, Nhật Bản, Malaysia và Chăm Pa trước khi biết đến chúng ta. Biển Đông là cách chúng ta đặt gọi vùng biển của mình vì biển này ở phía Đông. Nó được người Trung Quốc gọi là Nan Hai vì ở phía Nam của họ. Cách đặt và gọi tên này tự nó cho thấy tính địa phương mà thiếu tính quốc tế. Các nước Đông Nam Á gọi vùng biển này là Champa Sea. Rồi trên bản đồ tên Biển Chăm Pa được thay thành Biển Trung Hoa bởi người Bồ Đào Nha, lúc đó là cường quốc số một về hàng hải, vẽ bản đồ là Mar Da China. Sau này đổi thành biển Nam Trung Hoa để phân biệt với vùng biển phía bắc.

Quay lại lợi thế địa lý. Vì các lý do cấm xuất nhập khẩu ở Nhật, cấm đạo ở Nhật và Trung Quốc, tự nhiên Phố Hiến và Hội An trở thành hai thương cảng lớn, đặc biệt là Hội An. Các tàu buôn và truyền giáo bắt đầu đi từ Malacca, Macao và Nhật bản đến Hội An và Phố Hiến.

Phố Hiến còn là nơi tụ tập của thương nhân Hoa bởi triều đình, lúc đó là chúa Trịnh, cấm tiệt người Hoa sống ở Kẻ Chợ.

Người Châu Âu coi hai xứ này là hai nước riêng biệt. Nước của Vua Nguyễn là Cochinchina. Nước của vua Lê và Chúa Trịnh là Tonkin. Bất chấp nguồn gốc của hai cái tên này, nhưng khi dịch ra tiếng Việt thì Cochinchina phải là Vương Quốc Đàng Trong (Xứ Đàng Trong, Nam Hà, Nam Kỳ, Nam Bộ) còn Tonkin phải là Vương Quốc Đàng Ngoài (Xứ Đàng Ngoài, Bắc Hà, Bắc Kỳ, Bắc Bộ). Tên riêng Gulf of Tonkin hiện vẫn còn tồn tại.

Cochin là cách đọc tên Giao Chỉ bằng tiếng Malay rồi phiên âm qua tiếng Bồ. Cochinchina là Nước Giao Chỉ thuộc Trung Hoa, nhưng chỉ đây là tên gọi của người Âu cho mảnh đất này, bản chất cái tên này chỉ là để gọi vùng đất Đàng Trong. Sau này xứ Đàng Trong (Cochinchina) sáp nhập với Miền Tây (của Mạc Thiên Tứ) và được gọi bằng nhiều tên khác nhau: Nam Phần, Nam Kỳ, Nam Bộ … và rồi hiện nay được gọi là Miền Nam.

Có một chi tiết là trong cuộc cạnh tranh chiếm đất thuộc địa của Anh và Pháp nhân lúc Bồ Đào Nha suy yếu, người Anh đã đến Việt Nam (ngày nay) rất sớm. Họ đã chiếm Côn Đảo (đặt căn cứ hải quân, văn phòng thương mại) mấy năm rồi lại bỏ đi. Họ cũng đặt văn phòng thương mại ở Phố Hiến, rồi Kẻ Chợ, rồi cũng bỏ đi. Người Hà Lan cũng bỏ xứ Đàng Ngoài mà đi. Người đến sau, là người Pháp, cuối cùng lại là kẻ chiếm miền đất này. Khi người Pháp đến Côn Đảo hơn 100 năm sau, họ còn thấy tàn tích nhà cửa pháo đài do người Anh xây dựng. Có lẽ ở gần cái vũng phía đầu sân bay Cỏ Ống bây giờ. Ở Côn Đảo có một mũi là mũi Tàu Chìm hay gì đó, có lẽ là tàu của quân Anh đến đây và bị đắm.

Trước khi Nguyễn Huệ nổi lên như một thế lực thì đã có những người Châu Âu buôn súng đại bác bán cho Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh). Có cả người Bồ ở lại xứ Đàng Trong, mở xưởng đúc đại bác ở gần Huế để bán cho vua Đàng Trong. Người nước ngoài cho rằng người Việt học nghề và làm nghề giỏi. Chỉ cho họ cách làm là họ có thể làm được. Người nước ngoài cũng cho rằng xứ Đàng Ngoài quá nghèo, không có vốn, họ làm được nhiều thứ để xuất khẩu, nhưng phải đặt hàng và ứng tiền thì họ mới làm. Điều này khiến cho quay vòng vốn rất chậm. Sản lượng xuất khẩu thấp. Họ cũng nhận thấy phụ nữ thích lấy người Châu Âu, kể cả với giá rẻ, để sinh con lai cho đẹp. Giá rẻ là vì hồi đó có thể bán vợ. Đàn ông nghèo, bán vợ cho các nhà buôn nước ngoài vài tháng, khi họ đang ở Phố Hiến hoặc Kẻ Chợ để đợi giao hàng.

Tất cả các thuyền bè, của hải quân, nhà buôn hay truyền giáo. Đến Đàng Trong hay Đàng Ngoài, từ Macao, Malacca đều đi qua một bãi đá ngầm lớn rồi vào cửa biển Hội An hoặc ra bắc vào cửa Thái bình rồi đến Phố Hiến. Bãi đá ngầm lớn này dần dần được ghi trên bản đồ là Paracel rồi là Paracel và Spratly. Bãi đá ngầm này được người Châu Âu cho rằng thuộc về Xứ Đàng Trong. Không phải vô cớ mà khi thống nhất đất nước, Nguyễn Ánh Gia Long, xác lập lãnh thổ của Việt Nam trên các hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc, Côn Đảo … Như vậy khi nói đến Paracel (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa) ở thời kỳ này thì phải nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Vương Quốc Đàng Trong (Cochinchina) của các Vua Nguyễn.

VI. Lại quay về với năm 1946

Hiệp ước mùng 6 tháng 3 cho quân đội Pháp quay lại Đông Dương với người đứng đầu cực kỳ quyền lực (Cao Ủy) là đô đốc hải quâncó cái tên dài lòng thòng là George Louis Marie Thierry D’Argenlieu. Ông này chống lại yêu cầu đòi thống nhất Nam Bộ của chính phủ Hồ Chí Minh. Đàm phán giữa hai phe diễn ra ở Đà Lạt nhưng thất bại. Đọc hồi ký Ký vãng Đà Lạt của Hoàng Xuân Hãn sẽ thấy không khí giai đoạn này. Để vứt Hiệp định sơ bộ Pháp Việt vào sọt rác D’Argenlieu thản nhiên dựng Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc (Cộng Hòa Đàng Trong / Republic of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm President . Nguyễn Văn Thinh có quốc tịch Pháp và là thành viên nhóm Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu. Chính phủ bù nhìn này theo trường phái ly khai Nam Bộ nên bị các nhóm chống Pháp có vũ trang, từ Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và cả Việt Minh xúm lại đánh đập. Lực lượng của Việt Minh lúc này do siêu sao Nguyễn Bình, vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng cũ, lãnh đạo. Các hoạt động vũ trang trong nội thành của Nguyễn Bình chính là mẫu hình cho các vụ đánh bom của Biệt động Sài Gòn sau này. Ý tưởng về một Liên bang Đông Dương gồm 5 bang (state) bao gồm Lào, Cambodia, Cochinchina, Annam, Tonkin nằm trong Liên hiệp Pháp (French Union) hình thành ở giai đoạn này.

Uy tín và tài năng cá nhân của Nguyễn Bình đã thống lĩnh được các lực lượng vũ trang chống Pháp vốn rất lộn xộn và hiềm khích nhau ở Nam Bộ, xây dựng Vệ quốc đoàn, đánh đập Pháp và chính phủ Cộng Hòa Nam Kỳ rất tàn nhẫn. Nhờ đó khi Hồ Chí Minh khi đi Pháp đã có những thỏa thuận (với Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại) có lợi cho chính phủ Việt Minh và hai bên ngừng bắn. Việc này kết liễu luôn nhà nước Cộng Hòa Nam Kỳ. Nguyễn Văn Thinh tự sát.

Sau Hội nghị Đà Lạt và trước hội nghị Fontainebleau, D’Argenlieu đến Hà Nội gặp Hồ Chí Minh ngày 19/5/1945. Trước đó một ngày, ngày 18/5, báo Cứu Quốc đăng bài “Cụ Hồ Chí Minh với dân tộc Việt Nam” trong đó đầu tiên họ “tiết lộ” ngày sinh của vị chủ tịch là ngày 19/5 để hôm sau Hà Nội treo cờ hoa. Các thương thuyết Pháp Việt (Việt Minh) dùng dằng mãi rồi thất bại, chiến tranh Pháp Việt (Đông Dương lần thứ nhất) nổ ra. Chính phủ Việt Minh quay thủ phủ cũ của họ là Tân Trào.

VII. Hình thành Việt Nam Cộng Hòa

Sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh, chỉ trong thời gian ngắn, để thay thế Pháp lần lượt lắp Lê Văn Hoạch (Cao Đài) rồi Nguyễn Văn Xuân vào chỗ trống. Tất cả các nhân vật miền nam thân Pháp này, lại hùa với nhóm chống Việt Minh đang lưu vong ở Tàu, cùng nhau ủng hộ Bảo Đại. Bảo Đại lúc này ở Hong Kong (1947) và bắt đầu có tín hiệu muốn đàm phán với Pháp. Trong quá trình này, Pháp xây dựng Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ với tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng.

Nguyễn Văn Xuân có quốc tịch Pháp và là thiếu tướng trong quân đội Pháp, trở về Việt Nam khoảng tháng 8 năm 1947. Tháng 9 thì bác sỹ Lê Văn Hoạch từ chức, Hội đồng tư vấn Nam Kỳ bầu Nguyễn Văn Xuân lên thủ tướng ngày 1 tháng 10 năm 1947. Nguyễn Văn Xuân đổi tên Nam Kỳ thành Nam Phần. Cũng như bác sỹ Thinh và bác sỹ Thạch, tướng Xuân lên nhậm chức là tỏ rõ ý đồ thống nhất ba miền thành một nước Việt Nam. Nguyễn Văn Xuân không nói được tiếng Việt, nhưng làm việc giỏi, có ý đồ. Tháng 12, thủ tướng Xuân qua Hongkong gặp Bảo Đại bàn việc mở Chính phủ trung ương lâm thời (Provisional Central Government of Vietnam). Tên của chính phủ đã cho thấy chính phủ mới này chỉ là tạm thời, lấy chính danh để đàm phán với Pháp đòi thống nhất ba miền và độc lập cho Việt Nam.

Đại hội đảng phái và nhân sĩ cả nước họp tại Sài Gòn 20 tháng 5 năm 1948 bao gồm Hội đồng tham nghị Nam Phần, Hội đồng chấp tranh Trung phần và Bắc phần, các đoàn thể đảng phái khác. Đại hội bầu Nguyễn văn Xuân làm Thủ tướng chính phủ lâm thời. Ngày 27 tháng 5, chánh phủ mới qua Hongkong gặp Bảo Đại. Ngày 2 tháng 6 năm 1948 chính phủ ban hành Hiến pháp tạm thời (Provisional status), trong đó quy định quốc kỳ (cờ vàng ba sọc, biến thể từ cờ quẻ ly), quốc ca (Thanh niên hành khúc của Lưu Hữu Phước). Tháng 6 năm 1948, Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại ra Hạ Long ký hiệp định Hạ Long với Cao ủy Pháp lúc này là Bollaert. Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại đều trưởng thành và được đào tạo ở các trường đại học hàng đầu của Pháp, lại quen sống với giới thượng lưu của Pháp, nên thái độ đàm phán với Pháp rất tự tin, khác hẳn đàm phán ở Đà Lạt. Về những điểm đàm phán thể hiện độc lập và thống nhất ba miền, Bollaert tỏ ý đe dọa, Nguyễn Văn Xuân chửi thẳng bằng tiếng Pháp, còn Bảo Đại nói những câu khinh thường. Ngày 5 tháng 6 ký xong, ngày 15 tháng 6 Thủ tướng Xuân qua Pháp. Từ đây bắt đầu đàm phán với Pháp, đến 25 tháng 4 năm 1949 mới xong.

Chính phủ Việt Minh phản đối dữ dội chính phủ Nguyễn Văn Xuân và gọi đây là chính phủ bù nhìn. Một vở kịch của Thế Lữ thời kỳ này chế diễu tướng Xuân rất buồn cười với việc “kéo mũi ra cho lõ như Tây”.

Đàm phán Pháp – Việt (Việt của Bảo Đại) đi đến hiệp ước Elysée. Pháp trao trả độc lập (pháp lý) và toàn vẹn lãnh thổ (tương đối) cho Việt Nam. Pháp vẫn nắm ngoại giao, quân đội, kinh tế và tiền tệ. Đồng thời tạo ra khu tự trị cao nguyên. Hiệp ước được quốc hội Pháp thông qua và ký tháng 3 năm 1949. Ba tháng sau Bảo Đại về Sài Gòn nhận chức quốc trưởng của một nhà nước mới toe: Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam). Tất nhiên trên thực tế, chính quyền mới này không can thiệp vào được các vùng do chính phủ Việt Minh đang kiểm soát.

Cũng trong năm 1950, nhờ Mỹ Anh tài trợ và được De Lattre ủng hộ, quân đội của Quốc Gia Việt Nam bắt đầu được hình thành. Nguyễn Văn Hinh, một sĩ quan không quân Pháp và có quốc tịch Pháp làm Tổng tham mưu trưởng đầu tiên với hàm thiếu tướng. Năm 1955 tướng Hinh bất đồng với Ngô Đình Diệm, trở về Pháp, tham gia quân đội Pháp, về hưu với hàm đại tướng quân đội Pháp.

VIII. Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm đến Đông Dương.

Giai đoạn này chính trị thế giới, do ảnh hưởng của Liên Xô và học thuyết của họ lúc đó là học thuyết (chủ nghĩa) Zhdanov (rất thô và đơn giản) đã chia thế giới theo một cách hết sức ngô nghê: chia thành hai phe. Phe Đế Quốc do Anh Mỹ đứng đầu, và phe Dân Chủ do Liên Xô đứng đầu. Để phát triển xã hội, học thuyết Zhdanov khuyến khích đấu tranh giai cấp không khoan nhượng. Tiếp đó cách mạng bạo lực của Mao thành công ở Trung Quốc, đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đảo. Trung Quốc và Liên Xô công nhận chính phủ Việt Minh (1949). Mỹ và Anh công nhận chính phủ của Bảo Đại (1950). Tính chính danh của hai chính phủ ở hai miền hình thành ở giai đoạn này và để lại di sản cho các giai đoạn kế tiếp. Đó cũng là lúc thế giới bước vào Chiến tranh lạnh.

Các học thuyết của Mỹ ở thời điểm này bắt đầu cho Đông Dương vào vòng ngắm. Theo Stanley Karnow, tháng 5 năm 1945, ngay sau khi Truman vào Nhà Trắng thế chỗ cho tổng thống Roosevelt qua đời, ngoại trưởng Edward Stettinius của Mỹ đã khẳng định với ngoại trưởng Pháp lúc đấy là George Bidault rằng Mỹ sẽ công nhận các đòi hỏi quyền lợi của Pháp ở Đông Dương. Sáng kiến của Truman tại Quốc hội ngày 12 tháng 3 năm 1947 về việc hỗ trợ người dân tự do, sau được gọi là học thuyết Truman, làm căng thẳng thêm chiến tranh lạnh. Ngày 25 tháng 6 năm 1950, Bắc Hàn tấn công Nam Hàn và bốn ngày sau chiếm Seoul. Sáu tháng trước đó Mao thắng thế toàn diện ở Trung Quốc và cùng Liên Xô công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Bốn ngày sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, ngày 28 tháng 6, Truman ký lệnh tăng tốc hỗ trợ Pháp. Một ngày sau đó 8 chiếc máy bay vận tải C-47 của Mỹ bay tới Bắc Việt và tham gia “trái luật” vào chiến tranh Đông Dương. Phải tới ngày 26 tháng 7 năm 1950 tổng thống Truman ký luật hỗ trợ quân sự cho Pháp và được Quốc hội Hoa kỳ thông qua. Mỹ đã chi gần 3 tỷ dollar để viện trợ cho Pháp ở Đông Dương trong 4 năm sau đó. Các phái đoàn cố vấn quân sự, kinh tế của Mỹ bắt đầu đến Sài Gòn. Tiền và vũ khí Mỹ, chuyên gia Mỹ, được dùng để bắt đầu xây dựng Quân đội cho Quốc gia Viêt Nam ở phía nam và choquân đội Pháp đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc. Các hoạt động của Edward Lansdale tốn kém lên tới hàng triệu dollar vẫn được tài trợ.

IX. Điện Biên, Geneva, và gia đình họ Ngô ở miền nam.


Từ năm 1950 đến năm 1954, khi Võ Nguyên Giáp vẫn kiên trì đánh Pháp ở rừng núi Bắc Bộ thì ở Nam Bộ quốc trưởng Bảo Đại một mặt xây dựng chính quyền của mình, vốn nhiều phe phái không đồng nhất, mặt khác kiên trì tiếp tục đàm phán với Pháp đòi hỏi độc lập thực sự của Việt Nam.

Bảo Đại là một ông vua, tức là như Dumas nói: vua là quý tộc của các quý tộc. Bảo Đại có các phẩm chất cao quý nhất của con người: thông minh, tinh tế, hiểu người, hiểu đời. Bên cạnh đó, Bảo Đại được đào tạo đầy đủ về khoa học chính trị ở Sciences Po bên Pháp. Điểm yếu của Bảo Đại, cũng là tính quý tộc: mê đánh bài, mê gái, mê săn bắn, mê ngao du. Bảo Đại hiểu chính trị và biết dùng chính trị gia. Nhưng bản thân Bảo Đại lại muốn ở trên và bên ngoài mọi đảng chính trị, lại lười việc nước, ham chơi, không muốn làm lãnh đạo đất nước. Làm quốc trưởng, Bảo Đại cũng ở Đà Lạt đi săn, mọi việc thả cho Thủ Tướng làm.

Đây là thời kỳ thú vị của Sài Gòn. Không khí chính trị mới mẻ, các lực lượng quân sự hùa về với Bảo Đại, kinh tế ngầm liên quan đến buôn thuốc phiện do mafia đảo Corse nắm. Nhóm người Corse này lại kết nối với lực lượng bảo vệ an ninh đô thành, là nhóm Bình Xuyên. Bình Xuyên lại làm cả bảo kê gái và song bài. Bảo Đại sống bằng tài trợ của Pháp và Bình Xuyên. Sài Gòn như một thành phố quốc tế, đầy rẫy bọn buôn lậu và điệp viên. Graham Greene qua Sài Gòn vừa làm báo, vừa làm điệp viên, vừa hút thuốc phiện. Phạm Xuân Ẩn làm cho phòng nhì, kiểm soát bằng cách đọc lén thư từ của chính Greene. Ở ngoại ô, quân Việt Minh do Nguyễn Bình vẫn đánh Pháp. Lê Duẩn nắm Xứ Ủy, và theo KW Taylor, Lê Duẩn còn phải kiềm chế Nguyễn Bình. Một góc của Sài Gòn hồi đấy có thể thấy ở Sound of Silence.

Thủ tướng đầu tiên của Bảo Đại là Nguyễn Phan Long, thay cho Nguyễn Văn Xuân bởi Nguyễn Văn Xuân không nói được tiếng Việt. Nguyễn Văn Xuân làm phó thủ tướng cho đến khi chính phủ Nguyễn Phan Long hoàn thiện thì về Pháp. Nguyễn Phan Long là một người thuộc nhóm Lập Hiến, đòi Pháp trả độc lập hoàn toàn và tỏ ra thắm thiết với Mỹ. Ngay lập tức Pháp ép Phan Long nghỉ và thay bằng Trần Văn Hữu, một người nhà giàu quốc tịch Pháp (1950). Không ngờ Trần Văn Hữu ngày càng tỏ ra ái quốc, bỏ ra nhiều tháng đi Pháp (Pau) để tiếp tục tranh luận các điều khoản chưa rõ trong hiệp ước Élysée, đòi các quyền lợi kinh tế, quân sự, ngoại giao. Trần Văn Hữu chính là thủ tướng tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam như đã nói ở trên. Cuối cùng, tới năm 1952, Trần Văn Hữu làm việc thẳng với Anh Mỹ, khiến Pháp cay quá phải thay bằng Nguyễn Văn Tâm, một công dân Pháp và theo phe ly khai Nam Kỳ ngày trước.

Nguyễn Văn Tâm làm đến cuối năm 1953 thì từ chức, và đầu năm 1954 Bảo Đại bổ nhiệm Bửu Lộc, một người họ hàng của mình vào chức thủ tướng. Lúc này Bảo Đại đang ở Pháp để trực tiếp đàm phán về độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. Chiến tranh Pháp Việt đang đi đến hồi kết. Quân của Võ Nguyên Giáp bao vây Điện Biên Phủ. Ở vùng mà Việt Minh gọi là vùng tạm chiếm thì Đại Việt rất mạnh, đồng thời xuất hiện và trỗi dậy lực lượng của các linh mục Bùi Chu Phát Diệm. Ở Hà Nội, thị trưởng là Thẩm Hoàng Tín, một người nhà giàu gốc Hoa. Trong thời gian ông này làm thị trưởng (chấm dứt năm 1954) có sự kiện cầu Thê Húc bị sập (1952). Nguyễn Ngọc Diệm đã thiết kế và làm lại cây cầu này.

Cùng giai đoạn này Mỹ có các động thái tham gia sâu hơn ở Indochina. Theo cuốn CIA and the House of Ngo: Covert action in South Vietnam (1954-1963) của Thomas L. Ahern thì khi chiến tranh lạnh bắt đầu lạnh hơn, chiến thắng của Mao ở Trung quốc năm 1949 và chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào tháng 6 năm 1950, Hoa Kỳ hỗ trợ vật lực diện rộng cho Pháp đánh Việt Minh. Năm 1950 cũng là năm quốc hội Pháp phê chuẩn việc xây dựng chính phủ Việt nam độc lập danh định (nominally independent) với quốc trưởng Bảo Đại. Đến cuối năm 1953, theo yêu cầu của Bộ trưởng ngoại giao John Foster Dulles, chính phủ Hoa Kỳ cam kết chi 400 triệu dollar cho Pháp ở Đông Dương. Hoa kỳ cũng nhận ra chính quyền mới ở miền nam, mà thủ tướng được bổ nhiệm là Ngô Đình Diệm không chỉ thiếu hệ thống và nhân lực hành chính để vận hành đất nước, mà còn thiếu cả các chính trị gia bản địa để thực thi quyền lực, cũng như không có quân đội. CIA, lúc này đã hình thành, và rất thành công ở Iran, Guatemala, Italy và Philippine bắt đầu đưa các ngôi sao của mình, trong đó có Lansdale đến Sài Gòn. CIA nhận ra họ không chỉ phải “establish a leader” mà còn phải “create a country”. Các hoạt động gây sức ép với Pháp để thành lập quân đội cho Việt Nam Cộng Hòa, hỗ trợ Ngô Đình Nhu phát triển đảng Cần Lao theo chiều dọc xuống “grass root” …đều bắt đầu từ giai đoạn Mỹ bắt đầu tham gia vào Đông Dương và dần thay thế vai trò của Pháp.

Trong thời gian này anh em nhà họ Ngô phân công nhau mỗi người một việc. Sau khi được công an Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm ở nhà thờ Hàng Bột thêm một thời gian khá dài. Edward Miller lấy tin của mật thám Pháp cho biết Diệm ở lại lâu để lôi kéo các nhân vật quan trọng trong chính phủ Việt Minh, đặc biệt là lôi kéo Nguyễn Bình. Năm 1950 nhận thấy chính trị nghiêng hẳn về Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thoát ly khỏi quê hương cùng anh trai là Ngô Đình Thục. Điểm đầu tiên đến là Nhật và gặp hoàng thân Cường Để. Chuyến đi này thất bại, khi Diệm không tìm kiếm được gì từ nhóm Nhật thân Cường Để. Vả lại Cường Để qua đời sau đó vài tháng. Nhưng rất may cho Diệm, đi Nhật lại gặp nhà khoa học chính trị kiêm tình báo quân sự khu vực viễn đông của Hoa Kỳ tên là Wesley Fishel. Rời Nhật, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục đi Mỹ, thất bại trong tìm kiếm hỗ trợ từ chính phủ Hoa Kỳ, lại bay tiếp qua Roma và Paris. Ở Paris chính Bảo Đại từ chối gặp Ngô Đình Diệm. Sau thất bại này, Ngô ĐìnhDiệm quay về Hoa Kỳ và ở lại khá lâu. Edward Miller dành một chương để nói về quãng tời gian Ngô Đình Diệm ở Mỹ. Trong thời gian này, Ngô Đình Diệm thông qua các kênh công giáo La Mã và tư vấn của Wesley Fishel đã quen thân được thẩm phán Tối cao Pháp viện là William O. Douglas. Douglas tổ chức ăn tối để Ngô Đình Diệm gặp gỡ các nhân vật chính trị trẻ, trong đó có thượng nghị sỹ Mike Mansfield và thượng nghị sỹ John F Kennedy (sau trở thành tổng thống Hoa Kỳ).

Cùng lúc đó ở trong nước, Ngô Đình Nhu, một người lạnh lẽo và đặc biệt thông minh, đã bí mật thành lập Cần Lao Cách Mạng Đảng với chủ thuyết Nhân Vị ở Đà Lạt, thông qua các hội thảo nhỏ với lượng khách tham dự rất chọn lọc (1949). Trong cuốn sách mới xuất bản cuối xuân 2013, cuốn Missalliance: Ngo Dinh Diem, The United States and the Fate of Sound Vietnam, Edward Miller than rằng có quá ít thông tin về Cần Lao, do hoạt động của họ quá kín đáo. Ngay cả các tài liệu của mật thám Pháp và CIA giải mật gần đây cũng không tiết lộ được nhiều. Chỉ biết rằng Cần Lao bén rễ được vào chính phủ của Bảo Đại, vào quân đội của Quốc gia Việt Nam đang manh nha thành lập, vào các lực lượng công giáo. Mặt khác, Ngô Đình Nhu xây dựng tờ báo Tinh Thần và đứng sau ngầm chỉ huy để tuyên truyền cho đường lối “cách mạng chính trị kinh tế”. Ngô Đình Nhu cũng xây dựng các quan hệ vững chắc và dài lâu với giới lao động thông qua lãnh đạo nghiệp đoàn (Trần Quốc Bửu) và báo của họ (tờ Xã Hội), nắm được giới trí thức elite Bắc Kỳ chạy vào Nam Kỳ (Trần Chánh Thành). Và với quân đội thì thậm chí ngay khi Trường Võ bị Đà Lạt (Học viện quân sự Đà Lạt) mới được thành lập, Nhu đã đến phát biểu, qua đó gây ảnh hưởng đến các sỹ quan trẻ sau này. Theo Edward Miller, đến cuối năm 1953, mặc dù hoạt động ngầm nhưng mạng lưới chính trị của Ngô Đình Nhu đã trải khắp Indochina. Từ đó Ngô Đình Nhu lôi kéo được các thủ lĩnh các phe vũ trang chống cộng, ủng hộ Ngô Đình Nhu và rời xa Bảo Đại, lúc này đang ở Pháp.

Chính sự lớn mạnh về lực lượng chính trị của anh em họ Ngô ở trong nước, đã làm Bảo Đại phải cân nhắc về nhân vật vốn chống mình rất dữ dội là Ngô Đình Diệm.

Vào phút cuối cùng, Việt Minh thắng Điện Biên, còn ở Pháp Bảo Đại đạt được thỏa ước tối đa với Pháp Ngày 4 tháng 6 năm 1954, người Pháp, vốn cứng đầu, lèm bèm và ti tiện, đến lúc này mới trả độc lập toàn bộ cho Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Bảo Đại, với quyết định vừa lười nhác vừa dũng cảm, vừa sáng suốt, bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại biết trước một người tham vọng như Ngô Đình Diệm sẽ làm lãnh đạo quốc gia tốt hơn một ông vua ham chơi, và tất nhiên việc Diệm sẽ phế quốc trưởng Bảo Đại là một điều chắc chắn. Từ đó không bao giờ Bảo Đại quay về trong nước.

Sau khi được bổ nhiệm, Ngô Đình Diệm bay về Sài Gòn và lập chính phủ, ra mắt quốc dân ngày 7 tháng 7 năm 1954. Phần tiếp theo xem tại “Luận văn của ông Nhu“.

Hai tuần sau hiệp định Geneva được ký kết (ngày 21 tháng 7), chia đất nước thành hai nửa.

X. Những gạch nối.

Chỉ trong hơn 50 năm mà Việt Nam thay đổi quá nhiều.

Từ Đại Nam của nhà Nguyễn sau khi bị Pháp chiếm mà trở thành Annam, Đông Dương thuộc Pháp, rồi thành Việt Nam. Việc tiếp xúc với phương Tây đã mang đến cho Việt Nam nhiều cái tên xa lạ và khó hiểu: Cochinchina để chỉ Đàng Trong, Tonkin để chỉ Đàng Ngoài, và Indochina để chỉ chung ba nước Đông Dương. Chữ Indochina ấy, sau này làm khó cho cán bộ của Cường Để cử qua Anh và Đức để vận động, bởi người Anh và Đức, rồi sau là Mỹ, rất khó hiểu với địa danh mơ hồ nửa Ấn Độ (Indo) nửa Trung Hoa (China) này. Nó cũng khó hiểu chẳng kém việc người Việt hiểu tại sao Đàng Trong lại là Cochinchina.

Từ một đất nước chỉ có hai đàng: Đàng Trong và Đàng Ngoài, rồi có thêm kinh đô Huế ở giữa, đến thời Pháp thuộc trở thành ba miền Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Đến thời Nhật bảo hộ Trần Trọng Kim mà trở thành Nam Bộ, Bắc Bộ, Trung Bộ.

Việt Minh lấy chính quyền từ tay Trần Trọng Kim, nên xứ ủy phía nam của ĐCS Đông Dương là xứ ủy nam kỳ, khởi nghĩa đánh Pháp của họ năm 1940 là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nhưng sau năm 1945 họ lại có Nam Bộ Kháng Chiến, lại có ảnh lịch sử cướp chính quyền ở Bắc Bộ Phủ, rồi lại có cả sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Ngày nay các bản tin thời tiết trên VTV vẫn dùng các từ này.

Còn chính phủ Nguyễn Văn Xuân do Pháp bảo hộ lại gọi Nam Phần, Bắc Phần, Trung Phần. Nên sau này VNCH tiếp nối chính phủ Nguyễn Văn Xuân dùng các từ như vậy, nên ta có các danh từ kiểu Cao nguyên Trung phần.

Việt Nam từ một nước không có “giờ”, cho đến khi Pháp ở Paris theo hiệp ước quốc tế múi giờ (1911) mà Nam Kì lần đầu tiên theo giờ chuẩn thế giới (GMT+7), nhưng đến 1942 thì Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Phnom Penh, Vienchan …mới chính thức (bằng văn bản luật) theo giờ Đông Dương thuộc Pháp (GMT+8). Đến lúc Nhật đảo chính, Đông Dương theo GMT+9 của Nhật. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, vùng Việt Minh kiểm soát là GMT+7 còn vùng Pháp tái chiếm là GMT+8. Sài Gòn trước 75 là GMT+8, Hải Phòng trước 1955 là GMT+8. Hà nội trước 1954 là GMT+8 và sau 1954 là GMT+7.

Không phải cái gì của lịch sử cũng tồn tại vượt qua thời gian đến hiện tại hôm nay. Nhưng cái gì tồn tại được thì hẳn là quan trọng, bởi đó là cái quá khứ làm nên hiện tại. Và một phần nào đó của hiện tại sẽ trở thành lịch sử khi góp phần tạo dựng tương lai.

***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét