Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016
Sự kiện di cư 1954-1955 trong lịch sử Việt Nam và thế giới
PGS TS Nguyễn Đình Lê
Từ tháng 9 năm 1954 đến tháng 7 năm 1955 là thời kỳ chuyển quân tập kết của 2 bên tham chiến ở theo qui định của Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam. Trong khoảng 300 ngày đó, có sự kiện nổi bật diễn ra trong phạm vi cả nước là cuộc di dân, chuyển quân tập kết diễn ra sôi động, lôi kéo trên 1 triệu người lưu chuyển theo các hướng khác nhau.
Cuộc di dân chưa đầy một năm kể nổ ra trong bối cảnh quốc tế và Ở Việt Nam có nhiều yếu tố mới và dưới tác động của các nhân tố đó tạo nên sự bùng nổ của cuộc di dân có một không hai trong lịch sử dân tộc Việt Nam và cũng là một sự kiện hiếm có trong lịch sử thế giới hiện đại.
Bài viết này muốn trao đổi về những lý do dẫn đến sự dịch chuyển dân cư ồ ạt kể trên và xem xét vị trí, ý nghĩa, vị thế của sự kiện này trong mối tương quan của lịch sử Việt Nam quốc tế.
Cuộc di dân lịch sử
Trong vòng 300 ngày chuyển quân tập kết, có khoảng 1.200.000 người di dân từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Trong đó luồng thứ nhất có khoảng trên 1 triệu người, bao gồm lực lượng thuộc các bộ phận trong bộ máy cai trị và chiến tranh, các nhà thầu kinh doanh… của Pháp ở miền Bắc và một số đồng bào theo đạo thiên chúa…Nói chung, trừ bộ phận quần chúng nhân dân, còn lại là các thế lực chủ chốt trong bộ máy thực dân và lực lượng quân đội Pháp đồn trú ở miền Bắc. Lực lượng rút vào nam từ các vị trí đóng trú ở vùng đô thị hoặc vùng nông thôn trù phú của các tỉnh thuộc miền Bắc. Lực lượng này vào Nam di cư theo mô hình gia đình và trong số họ có những người thuộc diện có máu mặt có chức sắc nhất định trong xã hội thuộc địa của Pháp.
Ngược dòng di cư kể trên, có khoảng 150.000 người chuyển cư từ vùng phái Nam ra miền Bắc. Họ thuộc diện Quân-Dân-Chính-Đảng -từ gọi lúc đó, bao gồm cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, cán bộ chính quyền, Đảng các cấp và một số nhân sĩ trong mặt trận…Họ từng chiến đấu, công tác trong các chiến trường phía Nam, được lệnh rút quân ra Bắc. Họ ra đi từ các vùng sâu, vùng xa, vùng giải phóng. Đa số họ là những người độc thân, vô sản[i].
Với cuộc di cư song song diễn ra 2 chiều như vậy, diễn ra trong khoảng 10 tháng trời, khi cuộc chiến ở Đông Dương vừa kết thúc, khi các chiến trường trên cả nước đang ngổn ngang, mà có khoảng 1/30 tổng dân số di chuyển trong thời gian ngắn như vậy là một sự kiện hiếm có trong lịch sử Việt Nam và thế giới[ii].
Cuộc chuyển cư đặc biệt
Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam thường gắn với tiến trình phát triển lịch sử đất nước hoặc mở mang khu vực kinh tế hoặc bờ cõi…Bởi do đặc điẻm lịch sử của mình, cho nên đến trước Cách mạng Tháng 8 (1945), các cuộc di dân của người Việt thường theo hướng nhất quán: từ Bắc vào Nam[iii].
Lịch sử Việt Nam ghi nhận các cuộc di dân mang hướng Nam tiến diễn ra liên tục, diễn ra xuyên suốt gần 10 thế kỉ, bắt đầu từ triều Lý (Thế kỉ XXI) đến nửa đầu thế kỉ XX dưới thời thuộc Pháp.
Từ địa bàn thuộc phía bắc, dần dần cư dân Việt xuống sống với cộng đồng khác ở vùng nay thuộc Quảng Bình, Quảng Trị (thế kỉ XX); Huế (thời Trần); Quảng Nam, Quãng ngãi, Tuy Hòa (thế kỉ XV); cuối XVIII đã xuống vùng Phan Rang; sang thế kỉ XVIII, XIX đã xuống tận vùng đất phương Nam.
Sau đó từ khoảng 3 thế kỉ (từ XVII đến XIX) có các nhóm người khác nhau di cư vào lập nghiệp ơẻ vùng đất sau này gọi Nam Bộ. Họ gồm bộ phận khác nhau, trước hết là lớp hào lí, quan lại mộ dân từ các tỉnh phia bắc- nhất là vùng Thuận Quảng, đi chiêu mộ dân đinh đến khai thác vùng đất mới theo chỉ dụ của nhà Nguyễn. Bộ phận thứ hai gồm dân xiêu tán kiếm sống. Đó là các nông dân ở các vùng từ Quảng Bình trở vào rời quê hương bản quán vào vùng cực Nam kiếm sống. Họ đi tự phát và thường nương tựa vào nhau theo kiểu họ hàng lối xóm. Bộ phận thứ 3 thuộc tội phạm bị lưu đày, họ bị câu thúc đến vùng đất hoang sơ, bị cưỡng chế khai khẩn đất đai như một hình phạt của triều đình. Một bộ phạn cư dân khác cùng đồng hành đến vùng đất này là lực lượng lính tập. Họ đi theo quân ngũ vào đồn trú vùng biên thuỳ mà lúc đó gọi Trấn Biên- Phiên Trấn. Lực lượng này được tổ chức chặt chẽ và di chuyển có kế hoạch. Bộ phận cuối cùng là người Hoa ở Trung Quốc tiếp tục vượt biển vào vùng đất lập nghiệp ở đây.
Di dân suốt gần chục thế kỉ- mà điển hình là cuộc di dân vào vùng đất cực Nam trong vòng 3 thế kỉ vừa kể trên, đã là một nội dung của lịch sử đất nước và mặt khác cũng là đặc điểm di dân Nam tiến trong ngót ngàn năm qua của lịch sử Việt Nam.
Có nhiều lí do cụ thể để dòng người di cư từ Bắc vào Nam diễn ra suốt gần 1.000 năm trong lịch sử Đại Việt trước đó và Việt Nam sau này. Tuy nhiên, trừ nhóm người Hoa sang lánh trú, còn lại hầu hết người Việt khi di cư vào phía Nam đều có lí do chủ yếu từ nhu cầu kinh tế. Nhu cầu mở mang kinh tế có thể vì gia đình, có thể vì quyền lợi của cộng đồng, dân tộc.
Dưới thời cai trị của thực dân Pháp, xu hướng di dân Bắc Nam càng được đẩy nhanh hơn và nó tỷ lệ thuận với 2 lần khai thác thuộc địa của người Pháp. Chính quyền thực dân Pháp đã huy động hàng chục vạn cu li người miền Bắc vào xây dựng hệ thống đường sá, đồn điền ở phía Nam. Một bộ phận khác không nhiều bị cưỡng bức làm cu li ở vùng cao- kiểu di dân theo hướng Đông – Bắc (từ đồng bằng lên miền núi). Di dân dưới thời kỳ diễn ra bởi kiểu bắt phu cưỡng chế phục vụ thực dân Pháp.
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ sau năm 1884 cũng ghi nhận những cuộc di dân của người Việt Nam ra hải ngoại. Trừ một bộ phận nhỏ đi du học hải ngoại, còn lại có 2 sự kiện, 2 luồng chính đó là sự kiện những người yêu nước theo phong trào cần vương bị thực dân Pháp khủng bố ác liệt phải vượt biên ra nước ngoài, chủ yếu sang Lào. Sự kiện thứ 2 là khi thực dân Pháp bắt hàng vạn lính thuộc địa xứ An Nam tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Sau năm 1975, có hai luồng di cư lớn lôi cuốn hàng triệu người. Một là những người di tản ra nước ngoài và 2 là những người di dân vào vùng Tây Nguyên lập nghiệp. Các cuộc di dân có hay không có tổ chức sau năm 1975 đã có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội của cả nước. Tuy nhiên các sự kiện này không giống như cuộc di dân sau tháng 7-1954. Đây là sự kiện đặc biệt, cuộc di dân đặc biệt chưa từng có trong lịch sử Việt Nam: Tính đồng bộ, tổ chức, nhanh chóng và động cơ di dân của sự kiện này khác biệt với các cuộc di chuyển dân cư trong lịch sử Việt Nam.
Di dân gắn liền phân vùng địa chính trị
Cuộc di dân nhanh chóng, ồ ạt ở Việt Nam vừa kể trên đã tạo ra khoảng cách chính trị cho 2 vùng miền. Đó là sự tợp hợp lực lượng từng đối đầu nhau trong 9 năm chiến đấu về phía 2 vùng địa lý. Lực lượng Việt Minh, kháng chiến ra Bắc, lực lượng của Pháp dồn vào Nam.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã làm sụp đổ chế độ thực dân Pháp từng tồn tại gần một trăm năm ở Việt Nam. Chiến thắng đó tạo cho lực lượng kháng chiến trên phạm vi cả nước có ưu thế vượt trội so với lực lượng Pháp.
Tuy nhiên, theo các điều khoản của Hiệp định Giơ-ne- vơ, hầu hết các lực lượng vũ trang và cán bộ chủ chốt lực lượng kháng chiến ở miền Nam tập kết ra Bắc. Họ là lực lượng tiên phong, đi đầu, quyết định trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh của mọi vùng đất phương Nam. Dù cuộc kháng chiến ở đâu cũng do nhân dân quyết định, nhưng họ là linh hồn của cuộc đấu tranh sinh tử vói kẻ thù. Đặc biệt ở vùng đất phía Nam, xa Trung ương, thì vai trò của các cán bộ Quân-Dân-Chính-Đảng vô cùng quan trọng.
Cùng với việc rút quân ra Bắc, lực lượng kháng chiến cũng bàn giao toàn bộ vùng giải phóng ở miền Nam cho đối phương kiểm soát. Vùng giải phóng ở miền Nam từng trải qua thời kỳ thăng trầm khác nhau, nhưng vào Đông Xuân 1953-1954 đã phát triển vượt bậc. Tại miền Trung, vùng giải phóng, tự do rộng lớn mênh mong. Người Pháp chỉ kiểm soát được vùng ven biển nhỏ hẹp từ bến phà Ròn đến Đà Nẵng. Tại vùng Nam Bộ, vùng giải phóng đã bao trùm khắp nơi và vùng đối phương kiểm soát bị thu hẹp tối đa.
Chuyển quân tập kết, lực lượng việt Minh đã bàn giao toàn bộ vùng giải phóng cho đối phương kiểm soát. Đối kháng về địa chính trị từng có ở miền Nam không còn sau thời kỳ chuyển quân tập kết.
Mặt khác, chính quyền kháng chiến các cấp ở miền Nam cũng giải thể sau tháng 7-1954. Chính quyền kháng chiến, chính quyền cách mạng của nhân dân ở miền Nam được xây dựng trong Cách mạng Tháng 8 (1945) và trưởng thành vượt bậc trong 9 năm kháng chiến. Thực hiện Hiệp định, nên Chính quyền nhân dân, thành quả của Cách mạng Tháng 8 (1945) và 9 năm kháng cũng phải giải thể.
Tình hình cũng có phần giống như vậy nhưng theo chiều ngược lại. Lực lượng thuộc đội quân xâm lược của thực dân Pháp có đến hàng chục vạn quân cũng lần lượt rút khỏi miền Bắc. Hệ thống chính quyền của Pháp và các công sở, có sở sản xuất kinh doanh… của Pháp từng đóng trú ở vùng đồng bằng, đô thị cũng rút vào Nam, giao toàn bộ vùng bắc vĩ tuyến 17 cho chính phủ Việt Nam – Dân chủ – Cộng hòa kiểm soát. Toàn bộ hệ thống tề ngụy của Pháp ở miền Bắc không còn.
Việc tiếp quản miền Bắc trong năm 1954-1955 đã xóa bỏ hoàn toàn vùng tạm chiếm trước đây và quá trình đó diễn ra theo chiều hướng giải kinh tế – xã hội thời thuộc Pháo trên phạm vi toàn miền Bắc.
Như vậy, với việc 2 bên thực hiện chuyển quân tập kết đã mở ra vùng địa chính trị mới. Vùng địa chính trị này khác sự phân vùng thời kỳ 9 năm. Trong 9 năm chiến tranh (1945-1954) có vùng do Việt Minh kiểm soát và vùng còn lại do đối phương kiểm soát. Sự phân vùng này có ngay từ ngày đầu cuộc chiến và sự biến chuyển của nó tùy theo nhịp điệu cuộc chiến trên chiến trường. Xu hướng chung là vùng Việt Minh (còn gọi vùng Giải phóng) ngày càng mở rộng và vùng đối phương kiểm soát ngày càng thu hẹp. Tuy nhiên nói chung vùng Giải phóng thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa trung tâm đô thị. Vùng còn lại, gồm các trung tâm đô thị, huyết mạch giao thông do Pháp kiểm soát. Địa chính trị như vậy mở vùng theo kiểu hướng Đông và Tây (Đông vùng đồng bằng, trung châu đô thị; Tây vùng rừng núi thưa dân, hoang vu…).
Vùng địa chính trị Nam – Bắc (Miền Bắc và miền Nam) hình thành sau tháng7 -1954 đã đặt ra tiền đề để chia cắt đất nước mà phía bên chiến tuyến không muốn thực hiện Hiệp thương tổng tuyển cử. Vùng địa chính trị với tầm vóc qui mô một quốc gia đã có liên đới đến cuộc di cư năm 1954-1955. Một đất nước thống nhất lại bị phân chia thành 2 cực sau 1954.
Trong lịch sử Việt Nam, việc phân chia, cát cứ, đặc biệt phân chia Trịnh Nguyễn đã từng tồn tại trăm năm, tồn tại trong thế kỉ XVII và XVIII. Tuy nhiên sự chia cắt này không phải vì ý thức hệ xã hội như thời kỳ sau 1954, mà ở đây thực chất là chuyện vương triều, kiểu “vua Lê, phủ Chúa” hay là đất nước có một lúc 2 thế lực phong kiến đối kháng, phân quyền[iv].
Tính chất sự phân chia đất nước ở Việt Nam từ sau 1954 khác các sự kiện phân ly từng tồn tại ở mấy thế kỉ trước. Sự phân chia này phản ánh kết quả cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của thời kỳ trước và từ đó nó khoảng cách chính trị (Political Gap) giữa 2 vùng càng sâu sắc. Sự phân chia đó mang tính thời đại: đấu tranh giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa và thế giới phương Tây.
Di dân mở ra cuộc đụng đầu mới quyết liệt
Việc chuyển quân tập kết nhằm giải quyết vấn đề xung đột vũ trang của 2 bên sau Điện Biên Phủ. Tình thế chiến trận cài răng lược giữa lực lượng Việt Minh và quân đội Pháp trong 9 năm kháng chiến từng tồn tại khắp 3 miền Trung – Nam – Bắc đã được giải quyết bằng việc chuyển quân tập kết kể trên.
Từ các vùng tập kết tạm thời xa nhất ở Đồng Tháp Mười, Xuyên Mộc, Cà Mau đến vùng rừng núi Kon Tum, qua Bình Định, Quãng Ngãi, Bến Hãi, đã có khoảng 14 – 15 vạn người ra Bắc theo đường mòn trên dãy Trường Sơn, hoặc đi trên các tàu của Ba Lan, Liên Xô…
Với việc di dân, chuyển vùng tập kết trong gần một năm trên đất nước Việt Nam đã xuất hiện khu vực địa chính trị mới: Phía bắc Bến Hải qui tụ những lực lượng ưu tú nhất của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc mà họ vừa góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội. Hơn 10 vạn cán bộ, chiến sỹ ra Bắc từng là lực lượng trụ cột cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Mặt khác lực lượng này cũng là thành tựu và kết quả của 9 năm trường chiến đấu của nhân dân miền Nam.
Quá trình qui tụ những lực lượng kháng chiến trung kiên nhất của cả nước về miền Bắc và đồng thời gần như tất cả những lực lượng thù địch với công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc của nhân dân ta đang trú đóng ở miền Bắc đi vào Nam, đã tạo nên một sức mạnh vượt trội mới cho lực lượng cách mạng, lực lượng kháng chiến cả nước tại miền Bắc.
Do điều kiện cách mạng lúc đó, nên hầu hết lực lượng cách mạng miền Nam, đặc biệt lực lượng vũ trang, phải tự túc mọi mặt. Chi viện của Trung ương cho miền Nam, đặc biệt vùng cực Nam rất ít. Do đó nếu như ở chiến trường chính, lực lượng vũ trang cách mạng có điều kiện thành lập 5-6 đại đoàn chủ lực thì ở miền Nam chủ yếu cấp trung đoàn hoặc tiểu đoàn. Toàn bộ vùng miền Trung chỉ có đại đoàn 325 hoạt động.
Việc rút hầu như toàn bộ cán bộ, chiến sỹ của lực lượng vũ trang cách mạng nói riêng và toàn thể cán bộ đảng viên chủ chốt từng hoạt động ở miền Nam trong thời kỳ tập kết đã để lại khoảng trống nhất định trong lực lượng đấu tranh của nhân dân miền Nam. Đồng bào, đồng chí ở lại miền Nam sau tháng 7-1954 đã không còn có đủ những ưu thế của mình vốn có khi đối mặt với kẻ thù như trong thời kỳ kháng chiến 9 năm. Nhìn trong phạm vi cục bộ, sức mạnh và lực lượng đấu tranh của nhân dân miền Nam sau sự kiện đó đã giảm rất nhiều.
Mặt khác, cùng với việc giải thể chính quyền kháng chiến các cấp và bàn giao vùng giải phóng rộng lớn cho đối phương kiểm soát, vô tình đã tạo nên một thực tế là hình như cách mạng miền Nam đã đi từ có về không, từ mạnh sang yếu. Thực sự tương quan đấu tranh sau thời kỳ tập kết đã bất lợi cho nhân dân miền Nam.
Trong khi đó, với việc qui tụ đạo quân từ miền Bắc về miền Nam, gom nhóm tất cả các thế lực thù địch với Việt Minh ở miền Bắc vào Nam, đối phương đã tạo một cục diện mới, có phần giống miền Bắc: là qui nhóm những bộ phận, lực lượng từng thân Pháp hay tham gia vào bộ máy của thực dân Pháp trong thời kỳ Pháp cai trị nước ta.
Chính vì thế, cuộc đi dân nói chung và sự kiện tập kết nói riêng đã tạo nên một diện mạo chính trị mới ở Việt Nam: Hai thế lực đối lập có xu hướng tập hợp theo 2 cực qua đường giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17. Với những đặc điểm qui tu lực lượng như vậy, cuộc đối đầu, đụng độ giữa 2 bên trong cuộc chiến đấu mới sẽ diễn ra vô vùng quyết liệt. Và thực tế cuộc xung đột khốc liệt đó kéo dài hơn 2 thập kỉ, ác liệt gấp bội phần cuộc kháng chiến lần thứ nhất.
Bộ phận của chiến tranh lạnh
Kết thúc Sau chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, người Pháp rút khỏi Việt Nam và thay chân Pháp, người Mỹ vào dựng lập Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi đó, nước Việt Nam – Dân chủ – Cộng hòa đã ra khỏi cuộc kháng chiến, bắt đầu thời kỳ mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhìn góc độ khác của 2 thể chế mới lập, đó là hình ảnh thu nhỏ của thế giới, của chiến tranh lạnh.
Việc di dân, tập kết lực lượng vào 2 phía nam bắc Vĩ tuyến 17 là sự kiện kết thúc cuộc chiến tranh 9 năm, nhưng mặt khác lại mở ra cuộc xung đột kéo dài 21 năm (1954-1975).
Việc chuyển cư tập kết là điều kiện khách quan tạo nên khoảng cách chính trị 2 miền và nội dung của đó chuyển hóa nhanh chóng theo xu thế lịch sử lúc đó.
Thoạt đầu, lực lượng đối lập 2 bên là Việt Minh với thực dân Pháp xâm lược. Việt Minh từng đồng nghĩa với độc lập dân tộc và đó là biểu tượng của phong trào kháng chiến chông Pháp (1945-1954). Việc di dân và sự can dự mới từ bên ngoài cùng với một số yếu tố khác đã đẩy lực lượng Việt Minh thành Việt Cộng. Cuộc chiến về ý thức hệ có ngay khi cuộc di cư ồ ạt diễn ra.
Cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà diễn ra từ năm 1954 đến năm 1975 vừa mang tính nội chiến (thống nhất tổ quốc), nhưng mặt khác, nó còn là hình ảnh thu nhỏ của chiến tranh lạnh, của cuộc đấu tranh từng được gọi giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa Nước Nga Xô viết với Hoa Kì.
Sự kiện chuyển cư 1954-1955 đã hàm chứa tất cả tính chất trên và nó góp phần đưa lịch sử Việt Nam thành một bộ phận quan trọng, nổi bật của lịch sử thế giới trong thập niên 1950-1970 của thế kỉ trước.
Chú thích
[i] Có khoảng hơn 1 triệu người miền Bắc vào Nam, bao gồm lực lượng trong hệ thống chính quyền và quân sự của Pháp ở miền Bắc, hàng chục vạn giáo dân, một số nhà kinh doanh, một số công chức, kỹ sư bác sỹ… và ở miền Nam có khoảng 150.000 cán bộ, chiến sỹ và học sinh miền Nam ra Bắc. (Xem: Lịch sử Việt Nam 1954-1975, Nxb. Giáo dục, HN, 2010, tr. 6-7.)
[ii] Đây là con số chúng tôi ước tính. Vì chưa có số liệu cụ thể dân số Việt Nam năm 1954. Chúng tôi tính theo số liệu dân số Việt Nam năm 1943 có khoảng 22.600.000 người (Theo Số liệu thống kê Việt Nam thế kỉ XX. Tập 1, Nxb. TCTK, HN, 2004, tr.37). Và số liệu dân số Việt Nam năm 1976 có khoảng 49.000.000người (Số liệu thống kê Việt Nam thế kỉ XX. Tập 2, Nxb. TCTK, HN, 2004, tr.42.)
[iii] Còn hướng người di dân từ Tây sang Đông, và ngược lại từ Đông về Tây (từ vùng rừng núi về đồng bằng và từ miền xuôi về miền ngược) có xảy ra nhưng không đáng kể.
iv] Tiến trình Lịch Sử Việt Nam – Nxb. Giáo dục, HN, 2012, tr.137.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét