Thứ Tư, 7 tháng 9, 2016

SỰ IM LẶNG CỦA NHÀ VĂN.


Phạm Ngọc Tiến

(Tôi viết bài này và cho đăng báo khi vấn đề Tôn Hoa Sen còn manh nha. Giờ thì rõ ràng là biển Ninh Thuận đang được tiến hành để đặt nhà máy thép. Post bài lên fb được coi là một ý kiến của tôi phản đối việc có thêm nhà máy thép. Biển sẽ còn lại gì? Chúng ta cần cá hay cần thép? Có cần phải đánh đổi với giá quá đắt như vậy không? Và các nhà văn yêu quý, khi chúng ta viết những gì phản biện với các vấn đề xã hội mà chúng ta quan tâm theo cảm nhận cũng như quan điểm của mình chính là khi chúng ta đang thực thi nghĩa vụ công dân của một nhà văn đối với đất nước.)


Kính gửi các nhà văn yêu quý.
Không hiểu sao cứ những lúc cuộc sống có biến cố xảy ra, bao giờ tôi cũng nghĩ đến các nhà văn trước tiên. Chẳng hạn một đám cháy lớn. Một đám cháy, lẽ ra cần phải huy động cứu hỏa và họ chính là người tất cả cần nhất trong tình huống đó. Nhưng không, cứu hỏa đến với đám cháy là việc tất nhiên. Họ sẽ sử dụng chuyên môn của họ dập tắt đám cháy. Một việc quá đỗi bình thường. Còn các nhà văn thì tôi nghĩ nếu họ gặp đám cháy ấy họ sẽ làm gì?
Vâng, nếu gặp một đám cháy thì các nhà văn sẽ làm gì? Câu hỏi ấy cứ xoay đi trở lại nhiều lần trong tôi. Sứ mạng của họ không phải để dập lửa. Luận theo lô zích thông thường, họ sẽ quan sát đám cháy, suy nghĩ rồi miêu tả nó. Những hậu quả. Bài học rút ra từ rất nhiều góc độ. Thậm chí là họ diễn giải tâm lý đám cháy trong nhiều chiều. Tất nhiên điều này có ích cho không chỉ nhà văn. Nhưng tôi biết sẽ có không ít nhà văn bình thản đứng nhìn đám cháy và lặng lẽ bước đi. Cái đám cháy ấy hoặc không đủ để tác động đến cảm xúc của họ hoặc nó chẳng liên quan gì. Tóm lại là họ bước qua đám cháy bằng sự im lặng. Một sự im lặng được gọi theo cách rất cũ kỹ ấy là vô cảm. Sự vô cảm cố hữu của đám đông trước những gì bất thường xảy ra của đời sống vốn đã không còn là sự lạ ở ngày hôm nay.
Lần ngược lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, các nhà văn của chúng ta luôn bám sát đời sống cùng những biến cố của đất nước. Đó là những cuộc chiến tranh giữ nước trường kỳ và khốc liệt. Những tác phẩm được viết ra bằng chính máu của nhà văn. Đó cũng là những sai lầm khó tránh ở mỗi thời kỳ và chính nhà văn lên tiếng. Không ít người đã phải trả giá bằng sinh mạng chính trị thậm chí bằng cả sự nghiệp của mình nhưng sự dấn thân của họ thật sự là những điều xã hội cần. Nó có ích. Tôi có may mắn quen biết một số nhà văn của những thời kỳ này. Họ thực sự là những nhân cách lớn. Thế hệ những nhà văn tham gia chiến tranh, họ là những người lính thực thụ và tác phẩm của họ xuất hiện trong tâm thế của người trong cuộc. Đọc tác phẩm viết về chiến tranh nếu của một ai đó không trong cuộc sẽ thấy sự hời hợt giả tạo. Ở chiều ngược lại, những trang viết khét lẹt khói súng, ta sẽ nhận được sự thuyết phục, chia sẻ và cảm nhận nhiều điều của chiến tranh mang tới để thấy được cái giá của hòa bình lớn lao mức nào và chiến tranh tàn khốc ra sao. Để rồi nhận chân giá trị sự sống và vì thế thêm yêu cuộc đời mà ta may mắn có mặt.
Tôi nói những điều trên từ đúc kết của chính mình. Những trang văn của các thế hệ đàn anh đã giúp cho tôi những hiểu biết về đời sống về chiến cuộc về chân lý và lớn hơn là một tình yêu cuộc sống. Có lẽ tôi trở thành nhà văn phần nhiều cũng là nhờ ở điều này. Và tôi nhận thức được rằng, chẳng có sứ mạng to tát nào dành cho nhà văn cả. Giản đơn chỉ là anh hãy sống và viết từ chính thu nhận đời sống. Vậy thôi. Hãy là người trong cuộc.
Thưa các nhà văn kính mến.
Xã hội của chúng ta hiện nay đang ở trong một giai đoạn có quá nhiều biến động và khó khăn. Công cuộc đổi mới 30 năm đã có không ít thành tựu làm thay đổi diện mạo xã hội và đời sống người dân. Nhưng hơn bao giờ chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức lớn. Tình hình chính trị cũng như kinh tế của thế giới luôn trong tình trạng khủng hoảng có những tác động nhiều mặt đến đất nước chúng ta. Trong khu vực luôn căng thẳng vì những tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải tạo ra sự khó lường với những quốc gia có chung biển Đông. Hiểm họa ngoại xâm luôn hiển hiện thường trực đối với biển đảo của đất nước. Kinh tế trong nước gặp vô vàn khó khăn. Bộ máy quản lý bộc lộ những khiếm khuyết hệ thống. Phải thẳng thắn thừa nhận một bộ phận không nhỏ đội ngũ lãnh đạo yếu kém, tham nhũng gây sự trì trệ trên nhiều lĩnh vực. Môi trường sau những sai lầm từ những quyết sách của những cán bộ có thẩm quyền đã kéo theo bao hệ lụy, thậm chí là hủy diệt môi trường mà Formosa là điển hình. Niềm tin của nhân dân sút giảm. Mâu thuẫn giầu nghèo phân chia các giai tầng xã hội…Nhiều lắm, có thể nói đất nước chúng ta đang đứng trước những nguy cơ tiềm tàng thù trong, giặc ngoài. Văn học có những gì trong giai đoạn nước sôi lửa bỏng này và nhà văn chúng ta đang đứng ở đâu?
Thừa nhận có rất nhiều tác phẩm đề cập đến những vấn đề của đất nước hôm nay. Không ít nhà văn miệt mài theo đuổi những giá trị của quá khứ thông qua những trang viết tái hiện các cuộc chiến. Nhiều nhà văn viết về những mảng nóng xã hội. Nhưng tại sao lại hiếm hoi những tác phẩm được công chúng đón nhận? Vì sao?
Mới đây một phóng viên nữ hỏi tôi, tại sao trong những biến cố của đất nước hiếm thấy nhà văn các anh lên tiếng. Có phải nhà văn cần sự lắng đọng của thời gian để nghiền ngẫm mới phát biểu được bằng tác phẩm. Tôi chưa kịp trả lời thì nữ phóng viên cũng là một nhà thơ này kết luận. Ngụy biện thôi, khi anh không dám mở miệng trước lâm nguy dân tộc thì mặc nhiên anh đã đứng ngoài cuộc, đứng ngoài số phận nhân dân. Tháng trước khi đi qua Hà Tĩnh, tôi ghé vào Kỳ Phương là một phường của thị xã Kỳ Anh chịu trực tiếp hậu quả biển nhiễm độc từ thảm họa Formosa. Khi biết tôi là biên kịch của một vài phim chính luận có chút ít sự chú ý, người dân đã hỏi thẳng. Tại sao không làm phim về biển độc. Phải có những bộ phim nói về chúng tôi chứ, đời sống của chúng tôi nếu các anh không nói ra thì ai nói. Chúng tôi cần những phim như vậy. Trong cả hai trường hợp vừa nêu tôi đều im lặng. Một sự im lặng xấu hổ đến mức tủi nhục.
Hãy khoan bàn đến tác phẩm bởi rõ ràng câu hỏi nhà văn chúng ta đang đứng ở đâu lại là điều tiên quyết. Tôi làm việc trong những căn phòng máy lạnh. Di chuyển bằng những phương tiện đầy đủ tiện nghi, thu nhập khá và dứt khoát không nằm trong số đông nghèo khó. Các nhà văn khác cũng vậy. Nếu có ai đó bần hàn thì đó chỉ là cá biệt của sự lười biếng và bất tài. Nhà văn sống sung túc và được xã hội chiều chuộng. Danh xưng nhà văn giúp chúng ta dễ dàng có vị thế. Khi có chủ trương dự án bauxite Tây Nguyên, đứng trước những bất cập của dự án nhiều nhà khoa học, nhân sĩ, trí thức…đã phân tích lên tiếng kêu gọi sự thận trọng của dự án. Lúc đó có bao nhiêu nhà văn lên tiếng. Thậm chí đến cả ký vào bản kiến nghị cho dừng dự án ngay chính tôi cũng không ký. Khi cá chết vì biển độc ở các tỉnh miền Trung có được mấy nhà văn đăng đàn hoặc viết bài về thảm họa này. Ngay trên mạng xã hội khi có những bài viết dũng cảm vạch tội Formosa thì cũng có rất ít nhà văn trong số những người sử dụng mạng dám bày tỏ sự đồng tình dù chỉ là một nút bấm like. Điều gì vậy? Biển đảo Tổ quốc bị xâm phạm, có bao nhiêu nhà văn bày tỏ chính kiến của mình?
Tôi gọi thẳng ra chúng ta im lặng bởi chúng ta sợ hãi. Nữ nhà báo nói rất trúng căn bệnh sợ hãi của nhà văn. Khi anh không dám mở miệng, anh im lặng vì sợ liên lụy, sợ mất đi bổng lộc thì đừng nói đến tác phẩm làm gì. Nhà văn đang đứng bên lề cuộc sống. Câu trả lời là vậy. Đã đứng bên lề cuộc sống thì sao phản ánh được những gì của cuộc sống diễn ra. Tất nhiên không phải tất cả nhà văn như thế. Vẫn có những nhà văn dũng cảm xông xáo bất chấp mọi hiểm nguy để bám sát hiện thực đời sống đưa vào tác phẩm. Đến đây chắc chắn sẽ có không ít nhà văn phản đối thậm chí dè bỉu lên án tôi. Vâng, tôi biết mình chỉ là một nhà văn bình thường là loại nhà văn số đông chứ không phải số ít nhà văn tài năng đặt được dấu ấn vào văn học. Nhưng chả nhẽ vì thế mà tôi không có quyền nói ra. Tôi nói những điều này nhưng thực chất cũng như tâm sự với chính mình. Sự sợ hãi đã khiến nhà văn chúng ta im lặng. Đúng là thế.
Trở lại với đám cháy. Sự im lặng của nhà văn nghĩa là cái đám cháy ấy sẽ không được nhà văn khả dĩ tìm ra được phương cách ngăn chặn để nó đừng xảy đến tương tự trong tương lai, điều mà công chúng cần ở văn học. Khi nhà văn im lặng trước an nguy đất nước thì cái trách nhiệm công dân nhà văn sẽ chẳng còn tác dụng nếu không muốn nói một cách cực đoan là nó đã bị chối bỏ bằng sự vô dụng. Sự vô cảm của nhà văn suy cho cùng cũng là hệ lụy chung của xã hội nhưng nó gây ra di chứng nhiều hơn. Dĩ nhiên đó cũng chính là nguyên nhân thiếu vắng những tác phẩm để đời như đã từng trong quá khứ. Tôi nghĩ đã đến lúc nhà văn cần lên tiếng mạnh mẽ để bước đi cùng nhịp với đời sống. Để những đám cháy đừng xảy ra. Hy vọng là thế./.

Đà Nẵng 12/8/2016
PNT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét