Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014
Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam ( Kỳ 1)
Phạm Hồng Sơn dịch
Lời người dịch
Truyền thông đại chúng (mass media), cạnh những đức hạnh không thể phủ nhận, có một ác tính cũng không thể phủ nhận: đẩy con người thành những đám đông, giết tư duy độc lập cá nhân. Dù đám đông không phải luôn vô ích, có lúc đám đông còn là yếu tố cốt tử cho tiến bộ, Guistave Le Bon năm 1895 đã viết thế này: “Dù sao tôi cũng phải nói với độc giả ngay rằng tại sao những nghiên cứu của tôi sẽ đưa ra những kết luận khác với những gì ban đầu mọi người có thể mong đợi, ví dụ các đám đông thường có mức độ trí tuệ vô cùng thấp, kể cả các đám đông toàn người tinh hoa”.(1)
Dĩ nhiên sự giao động của ác tính đó, giữa bị kìm chế tối đa hay được tự do tung hoành, là phụ thuộc vào mức độ dân chủ của chế độ chính trị, cũng giao động giữa hai cực: Dân chủ tự do đầy đủ (fully liberal democracy) hay Phi dân chủ-độc tài toàn trị (totalitarianism). Không nói thêm, chắc đa số chúng ta đã biết Việt Nam đang có chế độ chính trị nào và, vì vậy đang phải chịu loại “ác tính” thuộc cực nào của mass media. Nhưng chưa hết, Việt Nam chúng ta còn phải chịu một ác nghiệt khác, đó là: Kiểm-Duyệt-Giấu-Mặt hay Tự-Kiểm-Duyệt. Để dễ hình dung hơn, dù chỉ một phần, về hiểm họa của Tự-Kiểm-Duyệt, có lẽ không gì hơn bằng việc xem lại một nhận xét về các biện pháp mà chính quyền Việt Nam đã dùng để kiểm duyệt, trấn áp trong Nhân văn Giai phẩm qua lời nhà thơ Lê Hoài Nguyên, tức ông Thái Kế Toại, cựu Đại tá An ninh Văn hóa (A25 trước, nay A87): “Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có một mãnh lực vô hình ghê gớm, nó làm tê liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần của một bộ phận trí thức tinh hoa trong thời gian dài 30 năm.“ (2)
Ai còn chưa thấy tính hủy diệt nhân sinh, vừa khủng khiếp vừa ác hiểm, của loại Kiểm-Duyệt-Giấu-Mặt hay Tự-Kiểm-Duyệt?
Đó cũng là đề tài chính trong một bài viết gần đây của một giáo sư người Mỹ, ông Thomas A. Bass. Và có một sự trùng hợp, vừa ngẫu nhiên vừa xót xa, giữa ông Lê và ông Bass: cả hai cùng mô tả một hiện thực kiểm duyệt giết chết giới tinh hoa – cái đầu của một dân tộc. Chỉ có điều hai hiện thực đó cách nhau tới nửa thế kỷ.
Tuy nhiên bài viết của ông Bass, được độc giả Việt Nam biết đến, cho tới nay, chủ yếu qua mạng và chủ yếu qua một bản dịch tiếng Việt, đã gây ra một cuộc tranh luận khá căng thẳng trên mạng với một hệ quả là dịch giả rút lại bản dịch.
Nền tảng chính của những người phản đối bài viết (bài dịch) là: tác giả vi phạm tính riêng tư, vi phạm đạo đức nghề báo trong việc bảo vệ nguồn tin và, nghiêm trọng hơn, có thể làm nguy hiểm cho những nguồn tin đang còn sống ở Việt Nam.
Trong vấn đề này quan điểm của riêng tôi xin được bày tỏ ngắn gọn thế này:
1. Sự bất đồng về bài viết của ông Bass được thể hiện công khai bằng lý lẽ là một điều lợi cho tiến bộ chung, cho tiệm cận sự thật và công lý.
2. Phẫu tích mở tung cái nội tạng hóc hiểm của con ác quỉ Kiểm-Duyệt-Giấu-Mặt ở Việt Nam là một việc khó có thể tránh hết được những đụng chạm không đáng có. Nhưng những nỗ lực phơi toàn bộ cấu trúc của con ác quỉ Kiểm-Duyệt-Giấu-Mặt ra ánh sáng để cho toàn dân Việt Nam và nhân loại biết rõ là những việc cần nhận được lời hoan nghênh hơn là chỉ trích.
3. Sợ hãi là một đặc tính chung của tất cả, không ngoại lệ, của những người phải sống trong một chế độ độc tài toàn trị. Nỗi sợ hãi đó có thể do nhìn thấy những “nòng súng”. Nhưng cũng có thể đó chỉ là “nòng súng” giả hoặc chỉ là một ảo giác của sợ hãi. Ví dụ, tôi tin những nhân viên an ninh có súng như ông Thái Kế Toại trước đây chỉ thuộc hạng “nòng súng” giả mà thôi.
4. Những suy nghĩ của ông Bass về Kiểm-Duyệt-Giấu-Mặt ở Việt Nam có thể khiến nhiều người Việt cảm thấy hơi lạ âu cũng là điều dễ hiểu, vì những người ở trên cao, thậm chí trên một cành cao sắp gãy, thường vẫn bình tâm hơn người ở xa nhìn vào.
Do vậy, tôi xin được chia sẻ hoàn toàn với những người đã băn khoăn, lo lắng hoặc có thể đang phải chịu những hệ lụy không đáng có từ bài viết của ông Thomas A. Bass. Song, tôi cũng xin được trân trọng chia sẻ với ông Thomas A. Bass. Sự chia sẻ nhỏ bé này chính là bản dịch bài phóng sự công phu, gai góc, tinh về chính trị và đẹp về văn chương của ông Bass. Hân hạnh giới thiệu.
_________
(1) “Je dois cependant expliquer au lecteur pourquoi il me verra tirer de mes études des conclusions différentes de celles qu’au premier abord on pourrait croire qu’elles comportent ; constater par exemple l’extrême infériorité mentale des foules, y compris les assemblées d’élite”, Guistave Le Bon (1841-1931), Psychologie des foules, Alcan, Paris, 1895, trang ii.
(2) Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân văn Giai phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành.
***
Đó là những ngày đen tối ở Việt Nam khi tòa án sẵn sàng kết những án tù nhiều năm cho nhà văn, nhà báo, blogger và bất cứ ai dám chỉ trích giới lãnh đạo. Đã qua lâu rồi sự thăng hoa ngắn ngủi của văn chương Việt Nam sau khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, đó là thời kỳ được biết đến với cái tên đổi mới. Sau hai mươi năm, bằng bút đỏ và nhà tù, các nhà kiểm duyệt đã dọn sạch một thế hệ cầm bút Việt Nam, đẩy tất cả thành, hoặc câm lặng hoặc lưu vong.
Bản thân tôi cũng vừa phải trải qua năm năm vật lộn với các nhà kiểm duyệt của Việt Nam. Họ cần mẫn cắt bỏ, viết lại, rồi ngăn chặn không cho xuất bản một bản dịch tiếng Việt một cuốn sách của tôi. Đó là cuốn The Spy Who Loved Us (2009). Dựa theo một bài trên tạp chí New Yorker năm 2005, tôi viết cuốn đó để kể về Phạm Xuân Ẩn, một nhà báo miền Nam Việt Nam, người có một sự nghiệp tình báo hết sức hiệu quả và lâu dài cho những người cộng sản Bắc Việt, suốt từ thập niên 1940 cho tới tận lúc ông qua đời năm 2006 – sự nghiệp đó đã làm ông Ẩn trở thành một trong những điệp viên lớn nhất trong thế kỷ XX. Được đào tạo nghề phóng viên tại Hoa Kỳ, ông Ẩn bắt đầu hoạt động điệp báo dưới cái vỏ nhà báo. Ông Ẩn làm phóng viên cho tạp chí Time suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam và có một giai đoạn ngắn đảm nhiệm chức trưởng văn phòng của Time tại Sài Gòn. Với nhiệm vụ lập bản đồ chiến trường, nắm vững các di chuyển của quân đội và đánh giá, phân tích các thông tin chính trị, quân sự, nhà báo Ẩn đã tiết lộ các thông tin vô giá cho phía Quân đội Bắc Việt.
Sau chiến tranh, những người cộng sản chiến thắng đã trao danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân cho nhà báo Ẩn và đưa ông lên cấp tướng. Lẽ đương nhiên ông Ẩn trở thành một đề tài cho giới viết tiểu sử và thực tế có sáu cuốn sách đã xuất bản viết về ông, kể cả một cuốn bằng tiếng Anh do nhà sử học Larry Berman thuộc Đại học Bang Georgia viết – cuốn Điệp viên hoàn hảo (Perfect Spy) xuất bản năm 2007, cuốn sách đã khắc họa ông Ẩn là một nhà yêu nước, một chuyên gia phân tích chiến lược giàu kinh nghiệm do đã từng quan sát cuộc chiến Việt Nam từ góc rất rộng. Những khắc họa đó trong Điệp viên hoàn hảo được duy trì cho tới tận lúc ông Ẩn tận hưởng hưu trí trong phòng khách gia đình, nơi ông tiếp nhiều đoàn khách danh giá, từ Morley Safer cho tới Daniel Ellsberg.
Khắc họa của tôi về cuộc đời ông Ẩn thì phiền toái hơn. Tôi đã kết luận rằng: ông nhà báo có khiếu nói tuyệt đỉnh này đã tạo ra một vỏ bọc thứ hai, cho hoạt động tình báo của ông ấy. Tự cho là một người bạn của phương Tây, một người trung thực chưa bao giờ nói dối một câu, (dù cả cuộc đời ông Ẩn phải sống bằng thủ đoạn), nhưng ông Ẩn lại làm việc cho cơ quan tình báo quân sự Việt Nam, không chỉ trong suốt thời chiến mà còn kéo dài thêm 30 năm sau chiến tranh. Nhưng đồng thời giới mối lái quyền lực Bắc Việt không tin cậy ông Ẩn, một người gốc miền Nam có bộ óc trứ tuyệt, từng có những chỉ trích mạnh về tham nhũng, về sự bất tài của chính quyền cộng sản Việt Nam. Con đường thăng tiến trong quân đội của ông Ẩn chậm chạp, đầy hiềm tỵ và ông từng phải sống trong sự giám sát của công an trong nhiều năm. Có thể ban đầu chính quyền Việt Nam cũng thấy thích về viễn cảnh có không phải một mà là hai người Mỹ viết về người “điệp viên hoàn hảo” của họ. Nhưng càng xem cuốn của tôi về ông Ẩn họ càng hoảng và càng đòi cuốn sách phải bị chặt thêm nữa, viết lại nữa trước khi có thể được duyệt xét để xuất bản.
Nhiều nơi ở Việt Nam đã đề nghị được dịch cuốn của tôi, trong đó có Nhà xuất bản Công an Nhân dân (một cơ quan của Bộ Công an), và cả Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (một trong những nơi kiểm duyệt quan trọng nhất của Việt Nam), nhưng tôi từ chối. Cuối cùng tôi ký hợp đồng với Nhã Nam vào tháng Bảy năm 2009. Nhã Nam là một nhà xuất bản đã được tôn trọng với nhiều sách dịch của các tác gia từ Jack Kerouac, Annie Proulx đến Umberto Eco và cả Haruki Murakami. Nhã Nam là một nhà xuất bản độc lập, thuộc số không nhiều những nhà xuất bản không dính dáng tới một bộ hay một cơ quan kiểm duyệt nào của chính quyền. Nhã Nam thỉnh thoảng bị phạt vì xuất bản những cuốn sách “nhạy cảm” và đôi khi một số sách của Nhã Nam bị thu hồi, tiêu hủy. Chỉ mãi sau này tôi mới hiểu ra rằng cái danh vị độc lập trong xuất bản của Nhã Nam không đảm bảo để có được sự độc lập, nhưng Nhã Nam đã hảo tâm cho tôi biết mọi động thái diễn ra suốt năm năm qua trong việc kiểm duyệt cuốn sách của tôi, The Spy Who Loved Us.
Nhiều tác giả không thèm quan tâm tới các bản dịch tác phẩm của họ. Họ thường ủy thác việc bán tác quyền phái sinh cho đại diện của họ và chỉ liếc qua các bản dịch sau đó nếu là tiếng Đức, tiếng Hoa. Nhưng tôi lại có một ý định khác cho bản dịch tiếng Việt cuốn của tôi. Tôi đã nghi là sẽ bị kiểm duyệt và tôi muốn xem qui trình ấy diễn ra thế nào, vì thế tôi yêu cầu đại diện của tôi phải viết vào hợp đồng một điều khoản nói rõ rằng cuốn sách sẽ không được xuất bản nếu không có sự đồng ý trước từ tôi và tôi phải được có ý kiến về mọi thay đổi so với bản gốc. Còn các điều khoản khác tôi dùng để biến cuốn sách thành một cái máy dò, ghi lại các địa chấn của chữ nghĩa, văn chương. Tôi muốn nắm được hoạt động của các nhà kiểm duyệt, thấy được những quan tâm, lo lắng thực sự của họ là gì để rồi có thể biết chính quyền Việt Nam sợ hãi điều gì và muốn trấn áp cái gì.
Việc dịch cuốn sách của tôi ra tiếng Việt được bắt đầu vào tháng Ba năm 2010 khi tôi nhận được một e-mail: “Tôi là Nguyễn Việt Long từ công ty Nhã Nam, tôi đang biên tập bản dịch The Spy Who Loved Us. Tôi mong muốn được trao đổi với ông về bản dịch này.”
Và ông Long bắt đầu bằng việc hỏi tôi có biết những cái dấu chính xác trong tên của người ông của Phạm Xuân Ẩn không. Những dấu đó trong tiếng Anh không có nhưng quan trọng trong tiếng Việt. Tôi cảm kích về sự chú ý tới từng chi tiết như thế của ông Long. Nhưng đáng tiếc, phần còn lại của e-mail lại có một giọng văn dạy bảo nặng hơn. “Ông đã phạm một số sai lầm,” ông Long viết thế trước khi đưa ra chỉnh sửa cho một loạt vấn đề. Nhưng rất nhiều những lỗi đó lại không thực sự là lỗi mà chỉ thuộc vấn đề diễn giải, nhận xét hoặc là các vấn đề còn đang tranh cãi về tư liệu lịch sử. Những cái đó đại loại cũng tương tự như một cuộc “bình luận bóng chày chuyên sâu”, với những chi tiết nhỏ nhặt, rối mù nhưng rất tốt để làm các học giả phải quay cuồng quanh các tiểu tiết mà quên đi vấn đề chính.
Ví dụ, có phải đúng là Jean Baptiste Ngô Đình Diệm (Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa) đã trở thành quan đầu tỉnh lúc 25 tuổi? Câu trả lời chắc chắn phải phụ thuộc vào ngày sinh của ông ấy, mà đây lại là điều không có câu trả lời chính xác. Vì người Việt có tục nói lệch ngày sinh của mình nhằm xua đuổi ma tà, để cải thiện số mệnh và còn để hấp dẫn những bạn bè trẻ hơn. Vì vậy cùng một sự kiện, đối với một tác giả người Mỹ thì không quan trọng nhưng lại là một vấn đề lớn đối với người Việt. Còn nếu bạn tin ngay rằng Ngô Đình Diệm là một con rối của Mỹ, là một con chó dẫn đường cho đế quốc xâm lược, xong rồi mới muốn xem những thành tựu của ông ấy thời trẻ, thì cũng là điều hợp lý nếu bạn đi ngay tới chỗ phủ nhận việc ông Diệm là quan đầu tỉnh trẻ nhất trong lịch sử Việt Nam và bạn sẽ làm cho vấn đề rối tung lên để dễ dàng bác bỏ.
Đáp lại một đề nghị từ đại diện văn chương của tôi, ông Long đã viết vào ngày 15 tháng Ba thế này: “Sẽ (chắc chắn) có kiểm duyệt, cuốn sách nhạy cảm. Nhưng xin đừng lo. Chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi với tác giả và sẽ cố hết sức để bảo vệ nhiều nhất có thể cho sự toàn vẹn của cuốn sách.”
Ông Long lúc đó đang cố làm để cuốn sách được ra đời vào dịp 30 tháng Tư –ngày chấm dứt chiến tranh Việt Nam, thời điểm thuận lợi cho cuốn sách. Nhưng sau khi đại diện của tôi nhắc ông Long phải tuân thủ hợp đồng để cho tôi xem bản dịch trước khi có thể ấn hành thì ông Long lỡ hẹn, và cứ lỡ hẹn chuyển cho tôi bản dịch thêm nhiều lần nữa cho tới tận sáu tháng sau, tháng Chín năm 2010, tôi mới nhận được một bản dịch bông. Điều đầu tiên tôi thấy lạ là có nhiều chú thích ở những chỗ mà bản gốc không có. Tôi đã tập hợp được một số bạn bè để giúp tôi soát lại bản dịch, đó là những người làm nghiên cứu, dịch thuật, và cả một cựu nhân viên CIA, một cựu nhân viên ngoại giao có vợ là người Việt. Sau khi xem họ đã cho tôi những tin không được khả quan lắm. Nhiều chú thích được bắt đầu bằng câu “tác giả đã lầm”, và tiếp đó là những diễn giải, chỉnh sửa các “sai lầm” của tôi.
Đúng là tôi đã hiểu lầm chức năng của các biên tập viên Việt Nam. Thậm chí trước khi phải gặp những nhà kiểm duyệt đích thực – những tay kiểm soát việc cấp phép xuất bản ở Việt Nam – cuốn sách của tôi đã phải để cho người trong nhà xoa nắn trước rồi. Ông Long là người ra tay đầu tiên, ông cắt xén càng hiệu suất thì càng được giới chức nhà nước hoan nghênh. Dĩ nhiên, khi cần, chính giới chức nhà nước sẽ tự ra tay, cắt bỏ thêm.
GIÁP ĐẤU BÊN LỀ VĂN CHƯƠNG
Tôi lại viết cho ông Long, đề nghị ông bỏ những chú thích ấy đi. Nhưng thật tội, ông Long bây giờ đã ở thế kẹt cứng, một bên là tác giả đầy cương quyết, còn bên kia là những người kiểm duyệt cũng đầy yêu sách. Khi sa vào những điểm tinh tế của lịch sử và địa lý Việt Nam, người biên tập viên của tôi và tôi bắt đầu một cuộc trao đổi thư từ dài dằng dặc. Cốt lõi của trao đổi này có thể được hiểu qua việc bàn luận về Rừng Sát – khu rừng của những sát thủ, và cũng là đối tượng chú thích đầu tiên của ông Long.
Rừng Sát nằm về phía đông nam Sài Gòn, nơi có các sông lạch chính cho tàu thuyền từ biển ra vào thành phố. Rừng Sát là rừng cây đặc biệt trên sình lầy vùng triều, nhiều năm từng là bản cứ của nhóm đạo tặc sông nước Bình Xuyên. Người Pháp cũng đã sử dụng nhóm đạo tặc này trong việc điều hành các hoạt động thuộc địa hóa của họ tại Việt Nam. Bảy Viễn, thủ lĩnh của quân Bình Xuyên, từng được đưa lên tới cấp tướng và được giao cho kiểm soát Sài Gòn như một lãnh địa riêng. Bảy Viễn còn sở hữu Xóm Bình Khang, một nhà thổ lớn nhất châu Á lúc đó, với khoảng 1.200 nhân viên. Ông ta cũng điều hành một sòng bạc lớn mang tên Đại Thế giới (Grand Monde) tại Chợ Lớn và một sòng khác, Kim Chung (Cloche d’Or), ở Sài Gòn. Phụ tá tâm phúc của Bảy Viễn được giao làm cảnh sát trưởng một khu vực trung tâm chạy dài khoảng 100 cây số từ Sài Gòn tới Vũng Tàu (Cap Saint Jacques- Mũi biển Thánh Giắc). Nhưng hoạt động bộn tiền nhất cho Bảy Viễn, trong đó một phần lợi nhuận phải chuyển cho chính quyền Pháp, là buôn bán thuốc phiện – hoạt động trải suốt từ Lào sang tận Marseille. Rừng Sát cũng được cộng sản dùng làm hậu cứ hay vùng đệm cho các hoạt động của họ trong suốt cuộc chiến Việt Nam. Các thủy tặc Bình Xuyên cũng có một thời gian ngắn chơi hai mặt với cộng sản trước khi chuyển sang phía đối lập.
Bảy Viễn từng phải trốn vào Rừng Sát khi Sài Gòn trở nên quá “nóng”, trước khi phải sang Paris để “gác kiếm” và thi thoảng dắt một con hổ đã thuần đi dạo trên đại lộ lộng lẫy Champs Elysée. Những chuyện đó xảy ra năm 1955, sau khi điệp viên người Mỹ huyền thoại Edward Lansdale đặt chân tới Sài Gòn. Với mục tiêu hất người Pháp ra khỏi thuộc địa của họ và trợ giúp xây dựng một chính quyền trung thành với Hoa Kỳ, Edward Lansdale cho mở một chiến dịch tấn công Bình Xuyên. Quân đội Việt Nam khi đó đã phải chiến đấu giành từng căn nhà với Bảy Viễn ở Sài Gòn. Quân số tham gia trận đánh kéo dài một tuần này nhiều hơn số quân tham chiến trong trận Tết Mậu Thân 1968 sau này. Có 500 người chết, 2000 người bị thương và khoảng 20.000 người khác mất nhà cửa. Cuộc đối đầu gián tiếp này giữa Pháp và Hoa Kỳ chính là dấu mốc cho cuộc chuyển đổi từ Cuộc chiến Đông Dương I sang Cuộc chiến Đông Dương II.
Phạm Xuân Ẩn từng nói rằng mọi ngón nghề tình báo ông biết được là đều từ Edward Lansdale. Lansdale chính là người đỡ đầu của ông Ẩn khi ông Ẩn bắt đầu nghề điệp viên quân sự và cũng chính Lansdale đã khuyên ông Ẩn đi Hoa Kỳ học nghề báo. Vì Rừng Sát có ý nghĩa quan trọng đối với cả những nhà thực dân lẫn những người cộng sản, những quân đạo tặc và giới tình báo, nên tôi đã thu thập rất nhiều tư liệu để xem lại vị trí của nó trong lịch sử Việt Nam. Chính đó là lý do tại sao tôi cảm thấy rất không vui khi nhìn thấy một chú thích ghi rằng: “Tác giả đã lầm.”
Đó không phải là Rừng Sát mà là Rừng Sác, ông Long nói. Nhưng như vậy là đã biến Khu rừng đầm lầy của những sát thủ (Swamp of the Assassins) trở thành Khu rừng của những bụi cây ở ven biển (Forest of Seacoast Shrubs) mất rồi. (khu) Rừng trong tiếng Anh là forest nhưng khi nói đến rừng ngập mặn trên vùng đất lầy thì nên gọi là swamp. Còn Sát là một từ Hán-Việt, nghĩa là giết (kill) như trong từ ám sát (to assassinate). Chính quyền vừa rồi đã đặt lại tên là Rừng Sác vì chính quyền nói rằng cái tên này chưa bao giờ được là tên đúng. Tại sao chính quyền lại cố nhấn mạnh tới chuyện này? Chính quyền giải thích rằng vì người Việt ở miền Nam đã làm sai lệch ngôn ngữ của đất nước và họ đã vô thức nói sai như thế từ hàng trăm năm nay. Với những từ có chữ tận cùng là “t” thì người Nam cũng phát âm giống những từ có chữ tận cùng là “k” hoặc “c”. Vì vậy, Rừng Sác đã bị biến nhầm thành Rừng Sát là vì người Nam không thể phát âm đúng và họ thường bị nhầm giữa các từ có cùng âm như nhau. Không nghi ngờ gì nữa, giới chức cộng sản, đằng sau việc đặt lại tên đó, đã rất nhạy cảm về việc đã từng sử dụng Rừng Sát làm căn cứ trong cuộc chiến với Mỹ. Nên họ không muốn bị đánh đồng với những sát thủ ẩn nấp trong vùng đầm lầy của rừng ngập mặn đó.
Thực ra vấn đề có thể được hóa giải hay hơn bằng cách nói rằng thôi thì trước đây vùng này được gọi là X nhưng nay đã được gọi là Y, thế là xong. Nhưng các nhà kiểm duyệt Việt Nam không làm như vậy. Vì họ có một cách nhìn toàn trị đối với lịch sử. Họ muốn xuyên lại thời gian để vặn chỉnh lại những sai sót của quá khứ cho phù hợp với hiện tại. Thậm chí nếu như phải trích dẫn trao đổi, Bảy Viễn và Lansdale hẳn sẽ bị buộc phải nói về khu rừng ven biển thay vì Rừng Sát. Có thể hình dung ra biết bao văn bản, phát biểu bị bóp méo được sinh ra từ việc đưa các di lệch niên đại cùng các thuật ngữ cộng sản vào tư liệu lịch sử. Do vậy, chẳng có cách nào khác tôi buộc phải bắt tay vào một chiến dịch nhằm chứng minh: “Biên tập viên sai”.
Tôi gửi cho ông Long nhiều bản đồ của Pháp và Việt Nam, trong đó có một bản đồ Việt Nam in năm 1955 về các kế hoạch tấn công quân Bình Xuyên. Tôi lại gửi thêm các bản đồ từ Trung tâm Chỉ huy của Hải quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Operations) trong khu vực, thêm bản sao tấm giấy khen của Tổng thống Richard Nixon dành cho Nhóm Tuần tra Đặc khu Rừng Sát (Rung Sat Special Zone Patrol Group) và một bản báo cáo của Viện Khoa học Hoa Kỳ về Rừng Sát. Tôi gửi cả bản đồ từ vệ tinh của Google năm 2010 với khu vực được đánh dấu là Rừng Sát. Sau đó tôi còn gửi thêm cả một tấm ảnh chiếc xe bus đang rời thành phố Hồ Chí Minh với điểm đến được ghi rõ là Rừng Sát.
Ông Long thì gửi cho tôi các “dẫn chứng và cứ liệu” của ông ấy, gồm website của Khu Nghỉ dưỡng và Ăn uống Rừng Sác (Rung Sac Resort and Restaurant), một vài bản giới thiệu về các dự án nhà ở có vốn đầu tư, mà tôi nghĩ là của giới quan chức của Đảng tại địa phương. Tôi tiếp tục gia tăng lý luận qua e-mail cho tới khi ông Long viết: “Tôi đồng ý loại hoàn toàn chú thích về Rừng Sát.” Nhưng khi chúng tôi quay sang các chú thích còn lại, ông Long và tôi lại tiếp tục giáp đấu ngay bên lề văn chương. Mọi trao đổi qua e-mail đều trở thành Hành trình Ngược về Rừng Sát và cuối cùng ông Long đề nghị: “loại hết các chú thích sai hoặc những chú thích liên quan tới sai lầm của ông.” Tôi vui vẻ chấp nhận đề nghị này.
Tiếp theo chúng tôi tranh luận về nhan đề sách. Theo tôi “The Spy Who Loved Us” (“Điệp viên yêu chúng ta”) có thể dịch thành “Điệp viên yêu nước Mỹ” (The Spy Who Loved America), hoặc thi vị hơn, “Kẻ thù tuyệt nhất của Mỹ” (America’s Best Enemy), ngoại trừ bị các nhà kiểm duyệt bác bỏ. Ông Long thì diễn giải, “Kẻ thù tuyệt nhất của Mỹ” tốt đấy nhưng hơi nhạy cảm. Tại sao lại là “kẻ thù tuyệt nhất” nhỉ? Phải chăng muốn ám chỉ Phạm Xuân Ẩn không trung thành hoàn toàn với sự nghiệp cách mạng sao? Sau nhiều trăn trở thêm nữa về “lập trường đúng đắn”, ông Long thừa nhận: “vấn đề thực sự rắc rối, phức tạp hơn chúng tôi tưởng.” Sau đó tôi nhận được lời nhắn là “Điệp viên yêu nước Mỹ” (The Spy Who Loved America) vừa bị giới quản lý xuất bản “loại ngay rồi”.
Quãng thời gian này, những người giúp tôi thẩm tra lại bản dịch bông, tất cả họ đều muốn giữ kín danh tính, đã liệt kê được một loạt các câu, các chữ, các đoạn đã bị xóa, xén so với bản gốc. Tôi gửi danh sách đó cho ông Long và nhận được hồi âm: “Tôi đảm bảo với ông là người dịch không bỏ sót một câu một đoạn nào cả. Ông ấy chỉ lưu ý những câu nhạy cảm thôi. Những gì bị sót hay thay đổi là của tôi.”
Tháng Mười 2010, ông Long viết cho tôi nói rằng ông ấy đang “mệt vì dự án này” và đang thấy chán nản vì hai nhà xuất bản nhà nước đã từ chối. Ông Long lúc đó vẫn đang cố có được giấy phép xuất bản từ một nơi thứ ba nhưng mọi người lưu ý ông ấy về việc Đại hội XI của Đảng sắp diễn ra vào đầu năm 2011, “thời điểm nhạy cảm” cho giới xuất bản ở Việt Nam. Đây là lúc tế nhị vì “ai cũng làm cái-không-làm-gì cho đỡ rắc rối”, ông Long viết vậy.
Tháng Mười Hai 2010 ông Long viết cho đại diện của tôi: “Chúng tôi rất hiểu sự nóng lòng của tác giả! Nhưng tình hình ở đây xấu hơn quí vị có thể hình dung. Một nhà xuất bản nhà nước khác vừa từ chối cấp phép cho bản dịch của chúng tôi. Rõ ràng đây là một cuốn sách rất nhạy cảm vào lúc này. Mọi thứ giờ đây đang lơ lửng trước gió.”
Lúc ông Long cho tôi biết lại có thêm một loạt các nhà xuất bản khác từ chối, tôi đã hình dung ra qui trình đó có gì đó tương tự như việc Randam House phải đưa một cuốn sách soi qua một công ty xuất bản của Bộ Quốc phòng Mỹ, và nếu Ban Báo chí của Bộ Quốc phòng không duyệt thì Random House lại phải đưa sang các nhà xuất bản khác thuộc Bộ An ninh Nội địa hoặc của FBI (Cục Điều tra Liên Bang Mỹ). Những cuộc gặp gỡ, quan hệ như thế chắc chắn phải dài dòng và nhục mạ, và, trong một nền văn hóa sính quà cáp như Việt Nam, đương nhiên chúng cũng phải rất tốn kém.
Tôi nín lòng cho hết năm 2011 để cho Đảng Cộng sản Việt Nam đảo xong ban lãnh đạo mới. Tháng Hai 2012 tôi viết cho ông Long chúc ông một năm Thủy Rồng hạnh phúc và hỏi liệu ông có thể giúp tôi biết danh sách tất cả những cơ quan của chính quyền đã tham gia vào việc kiểm duyệt cuốn sách của tôi không. Một tháng sau, ông ấy viết lại và xin lỗi vì đã bỏ bẵng. Ông Long cho biết đã bỏ việc ở Nhã Nam để đi làm biên tập cho một công ty chuyên xuất bản sách toán cho trẻ em. Tôi thấy nhói lên trong lòng, có thể chính tôi là người đã gây ra sự đổi việc đó. “Về giấy phép xuất bản cho The Spy Who Loved Us”, ông Long viết, “Nhã Nam đang tiến hành và vẫn tiếp tục chờ các nhà xuất bản, không hề dừng lại như ông có thể nghĩ đâu. Tôi vừa mới hỏi và được biết là những người ở Nhã Nam vẫn hy vọng cuốn sách sẽ in được.”
“Về mặt chính thức thì chỉ các nhà xuất bản thuộc nhà nước mới được làm sách in,” Ông Long giải thích. “Vì vậy một công ty sở hữu tư nhân (non-state, phi nhà nước) như Nhã Nam buộc phải tham gia vào hoạt động gọi là liên-kết-xuất-bản để làm sách dưới sự bảo trợ của một nhà xuất bản nhà nước và trả một chi phí xuất bản cho nhà xuất bản (nhà nước) đó.”
“Về mặt luật pháp, ở Việt Nam không có kiểm duyệt,” ông Long tiếp tục, “nhưng các giám đốc, các tổng biên tập các nhà xuất bản đôi khi được yêu cầu phải loại những chỗ nhạy cảm hoặc thậm chí họ rụt rè đến mức không dám xuất bản (như trường hợp của chúng ta đây). Hành động kiểu đó chúng tôi gọi là tự-kiểm-duyệt, và đây chính là nút thắt rắc rối nhất của ngành xuất bản tại Việt Nam.”
Ông Long gửi kèm cho tôi Luật Xuất bản của Việt Nam dày khoảng 22 trang, trong đó có Điều 5.2 quả thật qui định rất rõ ràng và bình dị thế này: “Nhà nước không kiểm duyệt các tác phẩm trước khi xuất bản.” Phần còn lại của luật thì lại dành để qui định ngược với Điều 5.2 vừa nói, ví dụ như liệt kê những thứ bị “cấm trong hoạt động xuất bản. Có cả “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 10), “kích động chiến tranh xâm lược, “truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín, dị đoan hoặc phá hoại thuần phong mỹ tục.” Những điều khoản khác dành cho việc bảo vệ Đảng, quân đội, quốc phòng và những loại bí mật khác của nhà nước. “Xuyên tạc sự thật lịch sử”, đặc biệt là “phủ nhận thành tựu cách mạng” cũng bị cấm.
Ông Long nói với tôi rằng người biên tập mới cho sách của tôi ở Nhã Nam là cô Nguyễn Thị Thu Yến, người đang nhận cả trách nhiệm thương thảo các hợp đồng với nước ngoài. Sau bốn tháng trao đổi qua lại bằng e-mail với nhau, ông Long và tôi đã làm ra được bản dịch bông thứ hai đã sửa và bỏ hết các chú thích, ít nhất như những cố vấn của tôi và tôi đã yêu cầu. Nhưng bản dịch bông này vẫn bị gạt bỏ và bị viết lại ở khoảng vài chục chỗ. Tất cả những gì phê phán Trung Quốc đều bị xóa. Những gì nói tới trại cải tạo, hối lộ, tham nhũng, sai lầm của Đảng Cộng sản và nhiều chủ đề “nhạy cảm” khác cũng thế, bị loại hết. Tiếc thay, bản bông đó của Ông Long cũng sớm bị thay bằng một bản khác – bản được chính thức cấp phép. Một lần nữa, tôi lại hiểu nhầm bản chất của ngành xuất bản Việt Nam. Sau tất cả những tháng ngày như thế cuốn sách của tôi vẫn chưa bị kiểm duyệt xong. Nó vẫn còn đang ở trong vòng tái-kiểm-tiền-kiểm-duyệt, mà công đoạn cạo rửa nghiêm chỉnh những chỗ nhạy cảm trong cuốn sách của tôi lại vẫn còn ở phía trước.
TRAO ĐỔI CON TIN
Tháng Sáu 2012 tôi nhận được e-mail từ cô Thu Yến báo cho tôi biết là: Điệp viên yêu chúng ta (The Spy Who Loved Us) (hoặc với bất kỳ nhan đề nào khác của cuốn sách) cuối cùng đã được duyệt cho xuất bản. Nhà xuất bản Lao Động, thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, vừa đồng ý làm đối tác đồng xuất bản với chúng tôi. Như một bùa chú để làm ngán những nhà kiểm duyệt kém thế lực hơn, Lao Động sẽ đứng tên trên trang bìa. Nhưng cô Yến thừa nhận thỏa thuận này đi kèm một số nhượng bộ. “Sau một thời gian rất dài xin giấy phép chúng tôi cuối cùng đã có được kết quả tích cực từ Nhà xuất bản Lao Động”, cô Yến kể. “Và để cuốn của ông được xuất bản đã có một số chỗ buộc phải cắt và thay đổi, không có cách nào khác được. Tuy nhiên, lại có những điều hay là họ biên tập rất tốt về tiếng Việt và về văn chương.”
Không có một trang dịch bông nào được gửi cho tôi. Thay vào đó cô Yến mô tả văn bản bị kiểm duyệt. “Vì nội dung trong sách của ông quá nhạy cảm, tôi rất hy vọng ông sẽ xem những thay đổi đó với thiện chí ủng hộ nhất để cuốn sách được tới tay độc giả.”
Cô Yến gửi kèm theo e-mail một tập 12 trang liệt kê ít nhất 333 chỗ bị cắt thêm. Có những câu, những đoạn và có chỗ cả một trang sách mất hẳn. Người ta xén đi từ nhan đề sách cho tới cả những lời tri ân cuối sách của tác giả. Nhiều sự kiện lịch sử và nhiều nhân vật đều bị gạt bỏ. Võ Nguyên Giáp, vị tướng vĩ đại của Việt Nam từng thắng trận Điện Biên Phủ cũng biến mất trong nguồn trích dẫn. Đại tá Bùi Tín, người đã tiếp nhận sự đầu hàng của chính quyền miền Nam Việt Nam năm 1975 cũng bị cạo sạch khỏi bản dịch, cả trong lời cảm ơn cũng biến mất. Những chỗ tả cuộc tương tác của Phạm Xuân Ẩn với Đảng, quân đội, Trung Quốc và công an cũng bị loại hết. Cả những chỗ chỉ nhằm bông đùa hay một chút giễu cợt cũng bị cấm.
“Ông không thể viết sự thật ở Việt Nam được đâu,” một cố vấn của tôi nói thế, đó là một cựu giáo sư văn chương hiện đang sống tại Hoa Kỳ. “Đất nước tôi đã mất cho sự dối trá rồi. Chủ điểm trong sách của ông là về một con người nhưng giờ đây đã bị loại hết tất cả các chi tiết đã làm cho nó thành một câu chuyện đặc biệt và hấp dẫn.”
“Những người cộng sản rất muốn những người như ông phát ngôn. Vì những luận điệu tuyên truyền của họ sẽ trở nên thật hơn nếu lại do một người phương Tây viết. Ông đang bị họ sử dụng như một công cụ thôi. Ông có thể phản đối và thỏa thuận những thứ trông có vẻ là những nhượng bộ nhỏ. Nhưng cuối cùng họ sẽ thắng. Họ vẫn luôn thắng”, bà giáo sư cảnh báo tôi.
“Ngay cả ngôn từ trong bản dịch này cũng không đẹp. Nó có vẻ mù mờ chứ không sáng rõ. Nhiều từ lại mượn của Trung Hoa. Những từ khác thì lại là những chữ mà người Pháp gọi là langue de bois- lưỡi gỗ, thứ sáo ngữ của loài chính trị vẹt. Họ dùng những từ ngữ như thế là vì người cộng sản cho rằng họ là người ở bề trên. Họ muốn kiểm soát tất cả, kể cả các suy nghĩ của ông.”
“Có quá nhiều thứ trong sách làm cho các nhà kiểm duyệt không thích nên họ phải cắt, cắt và cắt.” Bà giáo sư nói thế khi so bản dịch bông của Lao Động với bản bông của ông Long và nói thêm: “Tôi quá đau đầu chỉ vì xem bản dịch này.” Phạm Xuân Ẩn không được phép “yêu” nước Mỹ hay “yêu” cái thời gian ông ta học báo ở California. Ông ta chỉ được phép “hiểu” nước Mỹ thôi. Câu nói dí dỏm mà tinh tế của ông Ẩn rằng ông ấy chưa bao giờ muốn trở thành một điệp viên và xem nghề đó là “công việc của lũ chó săn” cũng bị biến. Câu ông Ẩn nói ông đã sinh vào thời điểm lịch sử bi thảm của Việt Nam với một khí quyển toàn mùi tráo trở, cắt. Tuần lễ Vàng do Hồ Chí Minh tổ chức năm 1946 để có đủ của hối lộ cho quân đội Trung Hoa rút khỏi Bắc Việt, xóa.
Họ cũng không cho phép gia đình Phạm Xuân Ẩn “đã di cư từ Bắc vào Nam”. Cả ông Ẩn cũng vậy, không được phép là người đã Nam tiến – một sự kiện lịch sử của người Việt tiến xuống phương Nam diễn ra trong mấy trăm năm xuôi theo dãy Trường Sơn để khai khẩn, chiếm đóng những vùng đất trước đó là nơi sinh sống của người Thượng, Chăm, Khmer và nhiều dân tộc thiểu số khác. Những khen ngợi văn học Pháp, biến mất. Ông Ẩn cũng không được phép nói chính nước Pháp đã tạo ra diện mạo hiện đại cho Việt Nam. Mô tả của ông Ẩn về chủ nghĩa cộng sản như một lý tưởng hão huyền, một khát vọng không thể thực hiện được, cắt. Lời khen của ông Ẩn về Edward Lansdale là một điệp viên vĩ đại đã dạy cho ông Ẩn bí quyết nghề tình báo, cắt. Suốt cuốn sách, sự hung hãn của miền Bắc bị làm nhẹ đi, còn sự man khai của miền Nam bị cường điệu thêm. Người cộng sản luôn luôn đi đầu và nhân dân hồ hởi theo sau. Chỗ Phạm Xuân Ẩn cố gắng phân biệt giữa đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam và đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản – cắt.
Chúng tôi mới chỉ xem tới trang số 38, thì bạn tôi nói. “Họ muốn giết cuốn sách này. Họ không thích cuốn sách của ông một chút nào.” Các bàn luận về chính sách ruộng đất, sở hữu tập thể của cộng sản – cắt. Người cộng sản nay không còn phải chịu trách nhiệm về vụ phục kích giết chết người thầy thời trung học của Phạm Xuân Ẩn vào năm 1947 nữa. Thay vào đó là “có một cuộc phục kích” do những kẻ vô danh thực hiện. Chuyến thăm Việt Nam của John F. Kennedy và em trai ông là Robert năm 1951, cắt. Những chỉ dẫn về biển đảo, các mỏ dầu ngoài khơi đang tranh chấp với Trung Quốc, cắt. Những chỗ nói về quân đạo tặc Bình Xuyên từng chiến đấu cho cộng sản trước khi chuyển thành đối kháng, cắt. “Những con người này càng ngày càng hoang tưởng.” bà giáo sư ngao ngán.
Cũng có rất nhiều lỗi dịch do những biên tập viên Việt Nam của tôi đã, hoặc hiểu lầm hoặc cố tình không hiểu. Ví dụ, ghost writer (người viết thuê giấu mặt), betrayal (phản bội), bribery (hối lộ), treachery (phản trắc), terrorism (khủng bố), torture (tra tấn), front organizations (tổ chức bình phong), ethnic minorities (các nhóm sắc tộc thiểu số), và reeducation camps (trại cải tạo). Họ không cho phép nói rằng người Pháp đã dạy cho người Việt nhiều thứ. Hay Việt Nam chưa bao giờ tạo ra người tỵ nạn. Nó chỉ sinh ra những người định cư ở nước ngoài. Những ám chỉ chủ nghĩa cộng sản là “thần thất bại”, cắt. Chỗ Phạm Xuân Ẩn tự mô tả mình là người có một bộ óc Mỹ ghép với cái thân Việt Nam, gạch. Phân tích của ông Ẩn về lý do và cách người cộng sản thay thế nhà nước cảnh sát của Ngô Đình Diệm bằng một nhà nước cảnh sát của chính họ, cắt.
Câu chuyện về nạn nhân người Mỹ đầu tiên trong cuộc chiến Việt Nam, Peter Dewey sĩ quan OSS (Office of Strategic Services – tiền thân của CIA) đã vô tình bị cộng sản ám sát năm 1945, biến. Các sĩ quan quân đội Việt Nam cũng bị loại ra khỏi các chiến dịch. Không được mô tả cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân như một thất bại quân sự. Viết là chó bị thui sống cũng không được nốt. Những táy máy tình dục, nhân tình nhân ngãi, lang chạ hay cưỡng hôn đều phải biến khi quan chức cộng sản có mặt. Những cảnh Sài Gòn ngay sau khi cuộc chiến kết thúc, về thiếu thốn lương thực, về tình trạng an ninh siết chặt, cũng mất. Ngay cả lệnh cấm chọi gà cũng không được đả động. Sự kiện Thuyền nhân bỏ nước ra đi sau 1975, xóa. Việt Nam chiến tranh với Cambodia năm 1978, bỏ. Việt Nam chiến tranh với Trung Quốc năm 1979, xóa. Mong ước cuối cùng của Phạm Xuân Ẩn là được hỏa táng, đem tro hài rải xuống sông Đồng Nai, cắt. (Thay vào đó, ông Ẩn khi chết đã được một tang lễ cấp nhà nước với bài điếu văn ca tụng do người đứng đầu tình báo quân đội đọc). Khi chúng tôi xem đến phần cuối thì phát hiện ra toàn bộ các trang ghi chú và ghi nguồn đều bị bỏ hết. Rồi mất cả những trang thuộc phần chỉ mục (index), nơi có rất nhiều từ hẳn sẽ phải đổi thành nghĩa ngược lại nếu vẫn được giữ lại.
“Ơn Trời, thế là chúng ta đã xong,” bạn tôi nói. “Việc này đã khiến tôi có nhiều đêm hãi hùng, bạc cả tóc.”
Bản dịch bông của Lao Động đúng là một đánh đố. Phải xử sự sao đây với một chuyện vô đạo thế này? Các cố vấn gợi ý cho tôi hai giải pháp. Một, vứt phắt dự án này đi. Hai, tiến hành một cuộc mặc cả trao đổi con tin. Nhã Nam và Lao Động sẽ được phép tiếp tục xuất bản cuốn sách nhưng chỉ với điều kiện là phải đưa cho tôi bản dịch và bản dịch này sẽ được phục hồi như nguyên bản và sẽ được công bố trên Internet.
Để chuẩn bị cho những đàm phán này, tôi phải xem lại hợp đồng đã ký với Nhã Nam ba năm trước. Nhà xuất bản chỉ được phép có những “thay đổi nhẹ so với văn bản gốc” và các thay đổi này “không được làm biến hẳn nghĩa hoặc gây ra sự thay đổi trầm trọng cho văn bản” Tôi cũng yêu cầu đại diện của tôi ở New York nói với đại diện phụ của chúng tôi ở Bangkok cảnh báo cho Nhã Nam biết là họ đang vi phạm hợp đồng khi lấy một tác phẩm tuyên truyền thay vào bản dịch.
Cùng với việc trả cho tôi tiền bản quyền dịch – việc đã bị trì hoãn vì “sơ suất ngoài ý muốn” – Nhã Nam bắt đầu rà soát lại những chỗ “phải cắt và thay đổi một cách bất đắc dĩ”. Họ đã định đặt nhan đề cho sách là “Điệp viên hoàn hảo” (Perfect Spy) nhưng bây giờ cô Yến đã đồng ý dùng lại nhan đề trước đây do ông Long và tôi đã thống nhất. “Việc bản dịch này bị kiểm duyệt là điều cả hai bên chúng ta đã trông thấy ngay từ ban đầu.” Cô Yến đã viết như thế cho đại diện của tôi vào tháng Bảy 2012. “Mức độ bản dịch bị kiểm duyệt có thể đã gây sốc cho tác giả (và cả chúng tôi nữa). Nhưng chúng tôi là người ở đây, luôn đang sống ở đây, chúng tôi hiểu tình trạng của đất nước chúng tôi. Chúng tôi đã đi gặp cả thảy bảy nhà xuất bản khác nhau của nhà nước nhưng cuối cùng chỉ có Nhà xuất bản Lao Động cho chúng tôi giấy phép kèm theo yêu cầu phải cắt và thay đổi nhiều chỗ.”
Việc tôi hủy bỏ hợp đồng xuất bản sẽ là “giải pháp giải thoát dễ dàng nhất,” như cô Yến viết, nhưng “điều này không công bằng cho chúng tôi, cho những ý định trung thực của chúng tôi. Chúng tôi sẽ rất thất vọng nếu điều đó xảy ra.” Cô Yến kết luận.
Những bàn thảo về trao đổi con tin cũng không suôn sẻ. Cô Yến đòi được quyền kiểm duyệt cuốn sách sẽ được công bố trên Internet, nghĩa là bành trướng sự kiểm duyệt của Việt Nam ra toàn cầu. Nhưng rồi cô ấy cũng rút yêu cầu xuống còn: bản dịch đầy đủ chỉ được công bố trên mạng sau khi cuốn sách ở Việt Nam ra đời được sáu tháng. Chúng tôi cũng thống nhất với nhau sẽ có một câu khuyến cáo được in trên trang bản quyền như thế này: “Đây chỉ là bản dịch một phần của The Spy Who Loved Us. Những phần khác đã bị lược bỏ hoặc bị thay đổi.”
Khoảng cuối năm, khi tôi còn chờ bản dịch bông mới để xem lại và lúc này giấy phép xuất bản cũng sắp hết hạn, cô Yến viết cho tôi: “Tại sao ông lại đồng ý làm việc với Nhã Nam trong khi ông không tin tưởng biên tập viên Việt Nam của ông?” Chúng tôi không đáng tin bằng các bạn của ông, sao?” Tôi hình dung những ngón tay có những chiếc móng tay sơn của cô ấy đang cào lên bàn phím: “Chúng tôi không muốn nghe thêm những ý kiến từ bên ngoài nữa đâu. Thế là không chuyên nghiệp.”
Tháng Sáu 2013 cô Yến gửi e-mail cho tôi thông báo rằng Nhã Nam vẫn đang cố gắng lấy giấy phép (vì giấy phép trước đó đã hết hạn) và cô ấy hy vọng sẽ sớm báo tin vui. Cô ấy thừa nhận là những người vừa đọc cuốn sách đã “hãi hùng” dự án này. Tuần sau đó tôi nhận được lời đề nghị kết “bạn” của cô Yến trên Facebook.
KHÔNG CẦN GIẾT
Qui trình kiểm duyệt ở Việt Nam đã được nhà báo Việt Nam Phạm Đoan Trang mô tả trên blog vào tháng Sáu 2013 và trích đăng trên tờ The Irrawaddy Magazine. Cô Trang cho biết hàng tuần, “ở Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và ở Thành phố Hồ Chí Minh thì bộ phận phía Nam của ban này lại triệu tập một cuộc họp ‘định hướng’ với lãnh đạo của những tờ báo lớn trong nước”. “Không phải là ngẫu nhiên khi tất cả các lãnh đạo báo đều là đảng viên. Quan chức Bộ Thông tin Truyền thông và Bộ Công an cũng có mặt… Tại các cuộc họp này, ai đó ở Ban Tuyên giáo sẽ đánh giá hoạt động của các tờ báo trong tuần vừa qua, biểu dương tờ nào biết phục tùng, khiển trách và đôi khi phạt những tờ nào đi chệch hướng.”
Những chỉ thị dành cho các “các đồng chí biên tập, lãnh đạo báo chí” trong các cuộc họp như thế đôi khi cũng bị rò rỉ ra và đăng trên mạng blog – những diễn đàn online ngày càng giúp người Việt biết thêm được nhiều tin tức. Chính qua đó dân tình mới biết rằng báo chí không được đưa tin về các ứng cử viên chính trị độc lập, thí dụ như nữ diễn viên Hồng Ánh; không được gọi nhà hoạt động bất đồng chính kiến Cù Huy Hà Vũ, người bị cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước”, là “Tiến sĩ Vũ”. Thông tin về sự cố khách du lịch nước ngoài chết trong một vụ đắm tàu ở Hạ Long, về quyết định xây nhà máy điện hạt nhân của chính phủ Việt Nam, về việc Trung Quốc khai thác bauxite từ một mỏ khoáng sản lớn ở dãy Trường Sơn cũng bị ỉm đi.
Các cuộc họp hàng tuần như thế được giữ bí mật, còn các trao đổi, chỉ thị khác trong tuần thì được thực hiện theo cách gặp trực tiếp hoặc qua điện thoại. “Do không có bằng chứng vật chất nào về những định hướng như thế, cho nên khi bị chỉ trích là bịt miệng báo chí về chuyện này chuyện nọ, các quan chức của Bộ Thông tin Truyền thông có thể trả lời một cách rất nghiêm túc rằng Việt Nam bị ‘các thế lực thù địch’ vu khống, bôi nhọ”, nhà báo Trang viết. Nhưng những phủ nhận như thế đã bị lố khi một băng ghi âm bí mật một cuộc họp chỉ đạo đã được BBC cho phát vào năm 2012.
Ban Tuyên giáo coi truyền thông Việt Nam là “tiếng nói của các tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội.” Quan điểm này đã được pháp điển hóa trong Luật Truyền thông. Luật này yêu cầu các nhà báo “tuyên truyền đường lối và chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và những thành tựu của đất nước và thế giới về văn hóa, thành tựu về khoa học và kỹ thuật” của Việt Nam.
Nhà báo Trang kết thúc bài viết của mình bằng một nhận định hài hước và chua chát: “Việt Nam không nằm trong số các nước nguy hiểm đối với nhà báo,” cô nói. “Nhà nước không cần phải giết nhà báo để có thể kiểm soát truyền thông, bởi vì nói chung, các nhà báo có thẻ của Việt Nam không được phép làm việc gì để đến mức phải bị giết.”
Một người khác cũng có nhiều hiểu biết về tình trạng kiểm duyệt ở Việt Nam là David Brown, một cựu nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ đã từng quay lại Việt Nam làm biên tập viên (copy editor) cho trang điện tử tiếng Anh của một tờ báo Việt Nam. Trong bài viết trên Asia Times tháng Hai 2012, Brown cho biết “Các lãnh đạo biên tập và xuất bản (trong tờ báo của ông Brown) đã phải cùng họp với Ban Tuyên giáo Trung ương của Đảng vào thứ Ba hàng tuần. Ở đó họ và những đồng nghiệp đồng cấp từ các báo khác được cảnh báo về những ‘chủ đề nhạy cảm’.”
Brown cho biết có những vùng “điện-cao-thế-báo-chí”, báo của ông không được phép đụng tới. Những chủ đề húy kỵ đó gồm các tin không đẹp cho Đảng Cộng sản, chính sách của chính phủ, chiến lược quốc phòng, quan hệ với Trung Quốc, quyền của các nhóm thiểu số, quyền con người, dân chủ, các cổ xúy cho chính trị đa nguyên, các thông tin về các sự kiện cách mạng ở các nước cộng sản khác, sự khác biệt giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, và các câu chuyện về người tỵ nạn Việt Nam. Một chủ đề mà báo của ông Brown được cho phép viết là vấn đề tội phạm. Báo chí Việt Nam không phải là không có tý răng nào cả, ông Brown nhận định. Thực tế thì nhà báo có thể rất hữu dụng cho chính quyền trong việc lật tẩy các tham nhũng, tội ác ở cấp thấp. “Muốn có độc giả họ phải lao vào các vụ xì-căng-đan, truy tìm các ‘tệ nạn xã hội’ và phải giành lấy phần thắng về mình bằng mọi cách. Tham nhũng các kiểu, ít nhất ở địa phương, là một chủ đề nhà báo có thể tự do phản ánh.”
Một chuyên gia khác về kiểm duyệt ở Việt Nam là cựu phóng viên BBC Bill Hayton, người đã bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 2007 và vẫn bị cấm cửa. Viết trên tạp chí Forbes năm 2010, Hayton cho biết những giới hạn trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam nằm ở Điều 4 Hiến pháp: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội..” Tất cả những điều đó có thể diễn tả lại thế này: cái gì Đảng muốn, Đảng sẽ lấy, cái gì Đảng sợ, Đảng sẽ triệt. “Việt Nam không có truyền thông độc lập hợp pháp. Mọi cơ quan xuất bản đều thuộc nhà nước hoặc của Đảng Cộng sản.” Bill Hayton kết luận.
Để chúng ta không nghĩ rằng nền văn hóa Việt Nam đã bị đông cứng ngay tại chỗ, các nhà báo Trang, Brown, Hayton và những nhà quan sát khác nhắc chúng ta rằng luật chơi vẫn đang liên tục biến đổi và được tái diễn giải. “Việt Nam… thuộc một trong những xã hội khát vọng nhất và năng động nhất trên hành tinh này,” ông Hayton nhận xét. “Đó là nhờ sự thăng bằng kỳ lạ giữa sự kiểm soát của Đảng và sự thiếu kiểm soát –đã nhiều lần tự biểu hiện bằng hiện thực phá rào ở Việt Nam.” Chừng nào bạn “không thách thức trực diện Đảng hoặc không chọc quá sâu vào tham nhũng tầng cao, biên tập viên và nhà báo có thể cứ gối cao mà ngủ.” Bill Hayton khẳng định.
Nhưng trong một số tình huống, ngay cả các nhà báo bới sâu vào vụ việc vẫn có thể yên ổn, tùy vào việc ai kiểm soát sự rò rỉ thông tin và nhằm mục đích gì. Qui trình rò rỉ thông tin một cách có kiểm soát như vừa nói đã được Geoffrey Cain, một chuyên gia khác về kiểm duyệt của Việt Nam, nói đến cách đây không lâu. Trong bản luận văn thạc sĩ làm tại Viện Nghiên cứu Phương Đông và châu Phi (School of Oriental and African Studies) thuộc Đại học London, Cain viết là Đảng Cộng sản ở Việt Nam sử dụng nhà báo và nhà văn như một “lực lượng cảnh sát phi chính thức”. Họ giúp chính quyền trung ương giữ các quan chức địa phương trong vòng qui định, hạn chế nhận của đút và tuần tiễu các mặt của đời sống công cộng, nếu không chúng vẫn có thể còn nằm trong bóng tối. Đó là hiện thân của “chế độ độc tài mềm dẻo” với đặc thù là “hàng loạt hành động xuôi, ngược nhau của giới tinh hoa được điều khiển và kiểm soát bằng một công cụ gọi là ‘sự lập lờ’”. Điều thường được mô tả ở Việt Nam như cuộc đấu giữa hai phe “cải cách” và “bảo thủ” thực ra là một phương pháp để cho một xã hội đang ngày càng ngả về phía thị trường có thể “đồng thời vừa có tính trấn áp lại vừa có khả năng đáp ứng, thích nghi.” Với cách diễn giải này, giới nhà báo và blogger đang tự đóng góp vào việc “giữ trật tự phi chính thức” cho những kẻ trục lợi của thị trường tự do.
Các cơ chế “pháp luật” để bắt các nhà báo, các blogger đã đi quá giới hạn hoặc vô tình bước nhầm vào các qui tắc đang thay đổi gồm Điều 88 Luật Hình sự, cấm “làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và Điều 79 Luật Hình sự, cấm “hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.” Nhưng còn có nhiều lý do khác để bắt giữ từ “trốn thuế” cho tới “ăn cắp bí mật quốc gia và bán cho người nước ngoài.” (Đây là cáo buộc đã dùng để chống lại nhà văn Dương Thu Hương khi bà gửi bản thảo một cuốn sách của bà cho một nhà xuất bản ở California.)
Các biện pháp trấn áp khác còn nằm trong Luật Báo chí ra đời năm 1990, sửa đổi năm 1999. Luật này bắt đầu bằng tuyên bố “Báo chí ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội” (Điều 1). “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.” (Điều 2:3). Rồi còn Luật Xuất bản năm 2004, cấm “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, “truyền bá tư tưởng phản động”, và “tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại”
Danh sách các điều luật và qui định còn gồm các nghị định và “thông tư”. Nghị định số 56 về “Hoạt động Văn hóa-Thông tin”, cấm “phủ nhận thành quả cách mạng”, Nghị định số 97 về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và Thông tin điện tử trên Internet”, cấm sử dụng Internet “làm tổn hại đến uy tín của cá nhân và các tổ chức”, Thông tư số 7 của Bộ Thông tin, giới hạn các blog vào “những thông tin mang tính chất cá nhân” và yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến phải thực hiện chế độ báo cáo định kì về người sử dụng “sáu tháng một lần và báo cáo đột xuất theo yêu cầu”, và Dự thảo Nghị định năm 2012 về “Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng”, trong đó yêu cầu các công ty nước ngoài cung cấp thông tin bằng tiếng Việt phải “lọc và loại bỏ những nội dung bị cấm”.
Dự thảo Nghị định năm 2012 này đã được thông qua vào năm sau thành Nghị định 72, nghiêm cấm các blog đưa các “thông tin tổng hợp” và chỉ được đăng các tin tức cá nhân, khiến các cá nhân đưa tin tức hoặc các bình luận chính trị lên mạng thành một việc bất hợp pháp. Tháng Tám 2013 tổ chức Nhà báo Không Biên giới đã lên án Nghị định 72 là “cực kỳ vô lý và hết sức nguy hiểm” và cho rằng Nghị định 72 chỉ có thể thực hiện được bằng “sự theo dõi của nhà nước một cách thường xuyên trên toàn bộ không gian Internet… Mục tiêu trá hình của nghị định này là để cố giữ cho Đảng Cộng sản vẫn giữ quyền lực lãnh đạo bằng mọi giá thông qua việc giữ độc quyền về thông tin và tin tức cho nhà nước.”
Việt Nam đã học rất nhiều kỹ thuật kiểm soát Internet từ Trung Quốc, nước láng giềng phía Bắc. Theo Văn bút Quốc tế (PEN International) Trung Quốc đã bỏ tù hàng chục tác giả, gồm cả người được Giải Nobel Hòa bình Lưu Hiểu Ba. Tương tự Trung Quốc, Việt Nam cũng thuộc hạng gần cuối trong các bảng xếp hạng về tự do báo chí. Freedom House gọi truyền thông Việt Nam là “phi tự do”. Năm 2014 Nhà báo Không Biên giới xếp Việt Nam thứ 174, đứng giữa Iran và Trung Quốc, trong số 180 nước về tự do báo chí. Năm 2013, tổ chức Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) xếp Việt Nam đứng thứ 5 trong số những nước bỏ tù nhà báo nhiều nhất, ít nhất có khoảng 18 nhà báo đang nằm trong tù. Mới đây, lại xảy ra một cuộc trấn áp khốc liệt nhằm vào các blogger và những người phản đối Trung Quốc. Hàng chục người lại vào tù với những bản án lên tới 12 năm. Các nhà hoạt động cổ xúy dân chủ và nhân quyền, những nhà văn, blogger, các phóng viên điều tra, những dân oan phản đối chính sách đất đai, những người chỉ trích, vạch trần các nhũng nhiễu, sai phạm của chính quyền, tất cả đều đang bị lùa vào tấm lưới vét toàn trị mang tên Việt Nam.
(Còn tiếp 1 kỳ)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét