Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam ( Kỳ 2 )



Phạm Hồng Sơn dịch

Bài liên quan: Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia Thomas A. Bass – Phản hồi độc giả nhân lần xuất bản tại Berlin Nhà báo và nhà kiểm duyệt (1) Nhà báo và nhà kiểm duyệt (2) Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam (Bản dịch mới – Kỳ 1) Đọc toàn văn trong bản PDF

CÁC CƠ CHẾ KIỂM SOÁT VĂN CHƯƠNG

Một hôm vào tháng Ba 2014 một bản dịch tiếng Việt của The Spy Who Loved Us xuất hiện ở Hà Nội dầu không ai có thể cho tôi biết chắc và như tôi biết thì giấy phép xuất bản phải đến tháng Năm 2014 mới được cấp. Thậm chí nhan đề sách của bản dịch đó còn bị cắt và biến thành: Z.21, một mật danh của Phạm Xuân Ẩn. Dường như cuốn sách, giống như nhân vật của nó, có số phận phải âm thầm xuyên qua mảnh đất đầy bất trắc của những xung đột văn hóa tại Việt Nam.

Khi đang ngồi xem xét những chỗ bị cắt trong danh sách cuối cùng về các đoạn kiểm duyệt mà người ta đã gửi cho tôi trước đó, tôi nhận được một e-mail thông báo rằng cuốn sách đã được xuất bản. Đây là một vi phạm hợp đồng rõ ràng. Nhưng tôi quyết định không nhấn vào điểm này để được rảnh rang trong sáu tháng, như đã giao kèo, chuẩn bị cho việc công bố bản dịch không kiểm duyệt trên mạng (web). Web là nơi đang giúp văn chương Việt Nam giữ được sinh lực. Bởi cả một mạng lưới dày đặc và xám xịt được bện bằng những giám sát của công an, của tiền phạt, và cả bằng những song sắt nhà tù hay viễn cảnh lưu đày, đang mỗi ngày chụp sát hơn xuống giới nhà báo, blogger, nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà thơ nữa, khắp đất nước. Vâng, thậm chí nhà thơ Việt Nam cũng có thể bị tội vạ, như tôi sẽ sớm được biết trong chuyến thăm Việt Nam sắp tới.

Tôi đã tận dụng sự xôn xao chút ít của dư luận (gồm cả một bài đăng ngay trên trang bìa của tờ Tuổi Trẻ) từ việc xuất bản cuốn sách của tôi để lên kế hoạch cho hành trình tới Đông Nam Á. Tôi muốn được gặp những nhà kiểm duyệt mà tôi đã trao đổi, tranh luận suốt 5 năm qua, hoặc ít nhất là những người sẽ mạnh dạn nói chuyện với tôi. Vào một đêm cuối tháng Năm tôi tới Hà Nội trên một chuyến bay khởi hành từ Paris. Hạ cánh xong, tôi bơi luôn qua lớp sương mù đục của khói bụi hòa lẫn với nóng ẩm, rồi trú tại Khách sạn Nhà thờ trong khu phố cổ ngay gần Nhà thờ Lớn Saint Joseph. Từ nơi đó tôi lên lịch gặp Nguyễn Việt Long, biên tập viên đầu tiên của tôi ở Nhã Nam. Tôi cũng hẹn gặp với Nguyễn Nhật Anh và Vũ Hoàng Giang, giám đốc và phó giám đốc Nhã Nam. Sau này tôi mới biết có hai người nữa trong dự án này cũng muốn nói chuyện với tôi. Đó là ông Nguyễn Thế Vinh, biên tập viên của Hồng Đức – nhà xuất bản nhà nước đã đưa ra danh sách cắt xén cuối cùng, và cũng là nhà xuất bản mang lại giấy phép xuất bản cho cuốn sách. Một người khác, đó là ông Dương Trung Quốc, nhà sử học và là đại biểu của Quốc hội Việt Nam. Ông Quốc hình như là người đã có những tác động chính trị cần thiết cho cuốn sách của tôi – hoặc ít nhất là một phiên bản của nó – được xuất bản ở Việt Nam.

Người dịch của Z.21 là một nhà báo Hà Nội, ông Đỗ Tuấn Kiệt. Đáng tiếc là ông ấy lại không có ở Hà Nội trong khi tôi ở Việt Nam. Dựa vào bản dịch có thể thấy ông Kiệt là người nói tiếng Bắc, phương ngữ chiếm ưu thế, nay bị thấm nhiều thuật ngữ Mác-xít-Lê-nin-nít được mượn từ người Trung Quốc. Tai người miền Nam không hạp với loại ngôn ngữ này. Đó không phải là giọng của Phạm Xuân Ẩn, nhân vật trong cuốn sách của tôi, và quả thực, ông Ẩn đã chế giễu cách nói đó. Ông Ẩn đã coi mười tháng học ở Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội vào năm 1978 là một vụ “cải tạo” – một nỗ lực bị thất bại trong việc dạy ông Ẩn thứ ngôn ngữ đó. “Tôi đã sống quá lâu trong lòng kẻ thù,” ông Ẩn giãi bày. “Nên họ đưa tôi đi tái chế.”

Sau khi sách dịch xong, ông Long, biên tập viên của tôi, bắt tay vào công việc nặng nề: kiểm duyệt nó. Qua nhiều năm, trong khi ông cố tìm cách để có giấy phép xuất bản, bản dịch ngày càng phải chịu thêm nhiều thay đổi khi các nhà xuất bản cứ lần lượt từ chối. Sau đó tôi hình dung, như vậy là dự án này đã chín hẳn thành một thứ đang bốc mùi nguy hiểm. Đó không phải là thứ người ta muốn đụng vào nếu họ vẫn còn nâng niu sự nghiệp làm biên tập ở một tòa báo của Công an hay của Bộ Nội vụ. Bản thân ông Long chắc đã bắt đầu bị để ý. Sau đó ông đã bỏ khu vực xuất bản sách văn chương sang làm biên tập sách toán cho trẻ em.

Ông Long và tôi đồng ý gặp nhau ở khách sạn. Ông bấm chuông, bước vào phòng với một vẻ khá lo lắng. Ông ngồi ghé vào chiếc ghế sô-pha, xin lỗi vì đến muộn, và cuối cùng đồng ý uống cùng tôi một ly bia. Khoảng ngoài 50 với mái tóc đen vuông vức, ông Long trong bộ đồng phục thường thấy của cán bộ Việt Nam với đôi kính to tròn, áo sơ mi trắng cộc tay có chiếc bút nổi trên túi ngực, đồng hồ kim loại đeo trễ vòng quanh cổ tay, quần âu màu xám và đi đôi dép xăng-đan. Sau khi đưa mắt nhìn xung quanh như thể soát xem có những máy móc ghi âm nào không, ông Long bắt đầu trả lời những câu hỏi của tôi bằng kiểu giải thích xa xôi đầy cảnh giác của một người sống trong một nhà nước cảnh sát.

Được đào tạo ở Liên Xô cũ với chuyên ngành điều khiển học hay gọi là hệ thống kiểm soát các lò phản ứng hạt nhân, đặc biệt là cho lò hạt nhân ở Đà Lạt mà phía miền Bắc chiến thắng đã thu được sau khi người Mỹ rút đi năm 1975. Tốt nghiệp từ Viện Công nghệ Năng lượng Moskva (Moscow Power Engineering Institute), ông Long đã tự học tiếng Anh trong 5 năm khi du học ở đó.

Sau khi hàn huyên về lý do chuyển từ ngành điều khiển học sang lĩnh vực xuất bản, chúng tôi chuyển sang nói về cuốn sách của tôi. “Hết sức vất vả mới biên tập được cuốn của ông,” ông Long kể. “Tôi bị kẹt ở giữa, bị o ép giữa tác giả và cấp trên của tôi. Chính quyền thì tuyên bố đây là một cuốn nhạy cảm. Xử lý không đúng loại này, anh có thể phải rắc rối to. Đấy là tất cả những gì tôi có thể nói với ông.”

“Về mặt pháp luật, không có nhà xuất bản tư nhân ở Việt Nam. Do vậy Nhã Nam phải tự liên kết với một nhà xuất bản của nhà nước mỗi lần muốn ra một cuốn sách. Chúng tôi đã đưa cuốn của ông tới rất nhiều nhà xuất bản nhưng tất cả đều trả lại. Cuối cùng, chỉ có Hồng Đức là đồng ý xin giấy phép xuất bản cho nó thôi. Hồng Đức là một nhà xuất bản có thế lực.”

“Sao họ lại có thế lực?” tôi hỏi.

Ông Long cười ái ngại. “Thôi, chúng ta hãy chỉ nói là họ có thế lực. Tôi chỉ có thể nói được vậy thôi.” Sau này tôi biết Hồng Đức thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, một trong những cơ quan kiểm duyệt lớn nhất.

“Thế còn những điều bị cắt?” tôi tiếp tục tìm hiểu.

“Người dịch phải dịch toàn bộ sách. Sau đó chúng tôi sẽ bỏ đi tất cả những gì cần phải bỏ. Chúng tôi không thể nào để nguyên như vậy được. Xin xuất bản cuốn của ông là một hành trình hết sức khó nhọc. Rất nhiều vấn đề phải kiểm duyệt và chẳng có cách nào khác ngoài cắt bỏ.”

Khi tôi đề nghị cho ví dụ, ông nêu ra hai cái tên, Đại tá Bùi Tín, người đã chạy sang Pháp năm 1990 để phản đối Việt Nam thiếu dân chủ, và Tướng Giáp, trước khi mất năm 2013, đã viết nhiều thư phản đối ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam. “Không thể viết gì về những việc đó được,” ông Long nói. “Mọi người đều biết những việc đó, nhưng ông không thể có được giấy phép xuất bản nếu những thứ đó còn trong sách của ông.”

“Vậy tại sao ông biết cái gì sẽ bị kiểm duyệt?”

“Chúng tôi phải biết. Bằng quan sát. Có thể một số người có suy nghĩ khác, nhưng chúng tôi biết những gì cần làm. Nhiều chuyện còn phụ thuộc vào thời điểm nữa.” ông nói. “Chúng tôi đã xuất bản được một cuốn của Dalai Lama phản đối Trung Quốc. Nhưng khi giới chức phát hiện ra việc đó thì chúng tôi bị cấm, không cho làm thêm những sách của Dalai Lama nữa. Nói chung, chúng tôi không thể xuất bản bất cứ điều gì xấu cho Trung Quốc. Ví dụ cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Trung Quốc và Việt Nam là chủ đề chúng tôi không được phép đề cập.”

Ông Long hắng giọng vẻ bồn chồn. Ông từ chối ly bia thứ hai tôi mời. Rồi ông lại đưa mắt nhìn quanh phòng, nhưng không thấy điều gì lạ làm ông bớt đi vẻ rầu rĩ.

“Kiểm duyệt thường lặng lẽ,” ông nói. “Không hề bị cấm một cách chính thức nhưng tất cả các sách đã được xuất bản đều có thể đột nhiên biến mất khỏi các quầy.”

“Xuất bản cuốn của ông là việc cực kỳ nan giải. Đây là cuốn sách khó nhất đối với tôi đấy.”, ông nhắc lại.

Tôi hỏi thêm ông Long có phải là đảng viên của Đảng Cộng sản không. Ông thì không, nhưng anh trai ông là đảng viên. “Vào Đảng đem lại nhiều quyền lợi chính trị. Nó sẽ giúp ông leo cao trong các tổ chức nhà nước.”

Ông lịch thiệp từ chối một ly bia khác và nói đã đến giờ ông phải đi lấy xe máy để về nhà. Ông Long chúc mừng tôi về việc đã xuất bản được sách.

“Đó không thực sự là cuốn sách của tôi,” tôi đáp và nhắc có 400 đoạn đã bị cắt.

“Bốn trăm không phải quá nhiều,” ông Long nói. “Người Việt chúng tôi có câu: ‘Đầu xuôi, đuôi lọt’. Lần tái bản tới có thể một số đoạn đó sẽ được phục hồi”

Khi ông Long lách nhanh qua cửa ra ngoài, trông ông có cái dáng vẻ lo lắng vì đã nói quá nhiều trong cuộc gặp ngắn ngủi với tôi. Tôi chúc ông nhiều điều tốt đẹp trong công việc mới. “Lương khá hơn rồi,” ông đảm bảo với tôi.

VIỆT NAM HỌC

Sáng hôm sau, bắt một chiếc ta-xi tới quận Cầu Giấy ở phía tây thành phố, xe chạy qua nhiều hồ nước điểm xuyết trung tâm Hà Nội, tôi đến một đại lộ có hàng cây ở hai bên, nơi đây Nhã Nam, nhà xuất bản của tôi chiếm trọn một tòa nhà cũ có những cửa sổ chớp mở ra những ban-công có lan can bằng sắt. Mới quãng mười giờ sáng mà cả thành phố đã ngộp trong một bầu khí xam xám, nóng và ẩm. Quầy sách ở tầng trệt của Nhã Nam chất đầy những bản dịch của Proust, Kundera và Nabokov, và tôi thấy hân hạnh khi nhận ra một chồng sách ngay ngắn của mình được trưng cạnh Lolita. Tôi tự giới thiệu với người trực bàn và được dẫn lên gác gặp Nguyễn Nhật Anh, và cộng sự của ông, Vũ Hoàng Giang, phó giám đốc. Tôi đã gặp ông Giang tối hôm trước. Ông đã dự buổi nói chuyện của tôi ở Cinematheque Hà Nội mà tôi không biết trước, nhưng ngay sau đó ông Giang đã tự giới thiệu với tôi. Khi ông chủ tịch Nhã Nam đưa tặng tôi một bó hoa sen tim tím tôi chợt nghĩ rằng những phát biểu của tôi tối hôm trước có thể đã quá thẳng thắn.

Nguyễn Nhật Anh, dáng người dong dỏng vận áo phông đen, quần jeans, đi dép xăng-đan trông có dáng một khách nghiện cà-phê hơn là một biên tập viên của một nhà xuất bản lớn. Có tiếng là thính văn chương, ông Anh ngồi làm việc ở một cái bàn chất đầy sách và một chồng bản thảo cao. Cộng sự của ông, ông Giang, một người cao, đẹp trai, mặc một chiếc áo thun cổ bẻ, luôn tươi cười và có một hình xăm nhỏ trang trí ở cổ tay phải. Tôi hình dung hai người đang chia nhau cai quản cái tổ hợp này, ông Anh lo về nội dung chữ nghĩa còn ông Giang về việc bán hàng. Lúc sau tôi mới biết chồng giấy cao tôi tưởng là bản thảo trên bàn ông Anh thực ra là các bản hợp đồng xuất bản và ông Giang, có sở thích văn chương riêng, chính là người đã thu xếp để cuốn sách của tôi được xuất bản.

Cô Thu Yến, biên tập viên đã đấu với tôi trong vài năm qua, không được mời dự trong cuộc gặp này. Cô vẫn phải ngồi làm việc trong phòng giao dịch hợp đồng, nhưng đã có một người khác được thuê đến để phiên dịch – một phụ nữ Việt Nam trẻ trung từng làm cho một công ty luật của Mỹ. Khi ông Anh học giả và ông Giang tươi tắn nói về những điểm tế nhị trong ngành xuất bản Việt Nam thì những câu dịch của cô gái trẻ cứ ngắn dần, ngắn dần rồi gần như chẳng dịch gì cả. Rất may, tôi đã đưa theo người phiên dịch riêng của mình, và chúng tôi phải mất nhiều giờ đồng hồ trong buổi chiều hôm đó để dựng lại cuộc trò chuyện.

Tôi ngồi ở chiếc ghế bành trong phòng ông Anh. Bên ngoài những cửa sổ chớp, bầy ve trên cây đang phát ra những tiếng kêu chói tai dễ sợ. Ông Giang đã cảnh báo cho tôi biết trong e-mail về “hệ thống kiểm duyệt chặt và khá nặng tay của các nhà xuất bản thuộc nhà nước Việt Nam. Có lẽ ông khó mà hình dung hết được.” Sau khi được mời một tách trà xanh, chúng tôi đi luôn vào cuộc trao đổi về kiểm duyệt, nói chung ở Việt Nam và nói riêng trong trường hợp của tôi.

Ông Anh mở đầu, đáp lại những câu hỏi của tôi bằng những câu giải thích dài dòng, kiểu cách. Ông Giang tiếp tục khi ông chủ bỏ đấy, đi tới chiếc máy cà-phê espresso bên cạnh bàn làm việc và tự pha cho mình một cốc. Tôi đã thèm định xin một cốc nhưng quyết định giữ lịch sự và tiếp tục với món trà. Ông Anh mô tả cách các nhà kiểm duyệt soi xét cả những chi tiết nhỏ nhất. Ông lấy ví dụ, các nhân vật chính trị phải được kính cẩn. Không ai được phép gọi người sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hồ Chí Minh. Ông ta phải là Bác Hồ – điều đã khắc ông ta cùng lúc vào trong cấu trúc gia đình Việt Nam và lịch sử Việt Nam.

“Kiểm duyệt là việc rất hóc búa,” ông Anh nói. “Chúng tôi thực ra không có một hệ thống hay một bộ chuẩn mực nào để biết nó sẽ hành xử ra sao. Tất cả những điều chúng tôi biết chỉ là rất nhiều nhà xuất bản đã không dám in sách của ông.”

Các cửa ra vào và cửa sổ có khe thoáng trong phòng ông Anh đều mở ra một hàng hiên nhìn xuống phố nhưng chúng vẫn được đóng kín để ngăn bớt khí nóng. Ngoài chiếc bàn làm việc trĩu nặng bởi sách và một bàn pha cà-phê cũng chất đầy sách, căn phòng của ông Anh không chứa thứ gì khác ngoài chiếc ghế tôi đang ngồi và những bức tường xanh trống trơn.

“Vì trước đã có một cuốn về chủ đề này in được nên chúng tôi nghĩ rằng đến lượt chúng tôi sẽ dễ dàng hơn,” ông Anh nói. “Chúng tôi cũng đã tin chắc chúng tôi sẽ in được cuốn của ông.”

Tôi hỏi ông Anh tại sao lại chọn người dịch cuốn của tôi là người miền Bắc, làm mất đi những sắc thái tinh tế và không thể chuyển nổi cả những câu bông lơn của nhân vật anh hùng có xuất thân miền Nam.

“Các khác biệt đó cũng chỉ như âm nhạc,” ông Anh nói. “Cũng như các ca sĩ khác nhau hát cùng một bài và làm cho bài hát được thể hiện bằng nhiều cách thôi. Giống như khi dịch cuốn Những thứ họ mang của Tim O’Brien, chúng tôi đã phải cố giữ sao cho đúng với giọng miền Nam. Nhưng trong trường hợp của ông, chúng tôi xác định chúng tôi làm việc với một cuốn sách chính trị, một tác phẩm phi hư cấu. Người đọc những sách như thế là người miền Bắc nên ông cần làm cho sách dễ hiểu hơn với họ.”

Tôi đề nghị ông Anh và ông Giang nói thêm nữa về việc kiểm duyệt cuốn sách của tôi. Hai người mô tả về qui trình-đã-biết-cho-đến-hôm-nay, được bắt đầu với bản dịch, và được giao phó cho một người biết rõ ván bài sẽ được chơi như thế nào. Sau đó sách sẽ được chuyển cho biên tập viên, người sẽ loại đi tất cả những nội dung “nhạy cảm”.

“Sao người biên tập biết được cái gì cần bỏ?”

“Đấy là việc của ông ấy,” ông Anh trả lời. “Ông Long là một chuyên gia về các cơ chế kiểm soát – thường được gọi là điều khiển học – và một loạt những nguyên tắc tương tự được áp dụng trong lĩnh vực văn chương. Công đoạn kiểm duyệt ở nhà xuất bản có một số cơ chế kiểm soát chúng tôi biết rõ nhưng cũng còn nhiều thứ không biết được. Do vậy, chúng tôi phải trông cậy vào kinh nghiệm của người biên tập đã quen với việc cắt xén bản thảo. Người đó biết cái gì có nhiều khả năng không qua nổi các nhà kiểm duyệt.”

“Qui trình kiểm duyệt là nguy hiểm, nguy hiểm cho tác giả và cho cả nhà xuất bản nữa,” ông Anh nói thêm. Nói đến đây, ông Anh đã khẩy đôi dép ra khỏi chân và đang làm mát hai bàn chân trần trên nền nhà lát gạch men. Trên đầu, chiếc quạt hối hả phả hơi nóng xuống khắp phòng. Nhiệt độ ở Hà Nội, mùa Xuân này, đang vượt trên 37° C.

Ông Anh kể cho tôi nghe câu chuyện về một tập thơ của tác giả có tên Trần Dần do công ty ông xuất bản năm 2006. Các tác phẩm của Trần Dần đã bị cấm liên tục từ những năm 1950 khi ông dính vào vụ Nhân văn Giai phẩm – một phiên bản Cách mạng Văn hóa của Mao tại Việt Nam nhằm thanh trừng các văn nghệ sĩ, họ bị liệt vào danh sách đen, bị tống giam và bị cấm đoán suốt 50 năm. Một trong những nghệ sĩ đó là Văn Cao, người đã sáng tác cho Việt Nam bản Quốc ca năm 1945. Từ năm 1957 cho tới tận năm 1986, người Việt Nam đã phải ở trong một tình cảnh trớ trêu, được phép chơi nhạc nhưng không được hát bài Quốc ca của Văn Cao. Chỉ khi một số lời của Quốc ca được sửa đi thì bài hát mới được hát trở lại. Bản thân Văn Cao đã từ lâu thôi không sáng tác nhạc hay ca khúc nữa. Ông đã đứng vào hàng ngũ những nghệ sĩ Việt Nam, cỡ hàng trăm người, từ thập niên 1950 cho tới nay, phải im lặng hoặc đi sống đời lưu vong.

Những tưởng Mao đã chết từ lâu và cuộc Cách mạng Văn hóa của ông ta đã bị đả phá, Nhã Nam cho rằng sẽ an toàn khi in trở lại Trần Dần. Sau đó công ty có được giấy phép xuất bản từ một doanh nghiệp nhà nước ở Đà Nẵng và cho in một số thơ của Trần Dần, nhưng tiếng sét đã nổ. “Công an đến thẳng hội chợ thu hết tất cả sách về Trần Dần,” ông Anh kể. “Sau đó họ đến công ty khám xét, lục soát và thu hủy rất nhiều nữa. Chúng tôi quá kinh hoàng, đã nghĩ sẽ phải đóng cửa và chấm dứt công việc.”

“Nguyên nhân từ đâu?”

Ông Anh hạ thấp giọng và nói ra tên của một cơ quan: A25.

“Không, bây giờ là A87 rồi,” ông Giang thêm vào.

Các cơ quan của chính phủ bắt đầu với chữ A, nghĩa là “an ninh”, có rất nhiều. A25, bây giờ là A87, chuyên phụ trách về các nhà xuất bản.

“Đúng ra, đó là An ninh Văn Hóa, Cục An ninh Văn hóa,” ông Anh nói.

Tôi hỏi: “Địa chỉ ở đâu?”

“Họ chẳng có địa chỉ nào cả,” ý ông Anh nói là họ có mặt ở khắp nơi. Hai người bọn họ nói nhát gừng với nhau về cái nguyên nhân gây ra rắc rối nhưng không câu nào được dịch.

“Không có bất cứ một cơ quan nào chịu trách nhiệm về kiểm duyệt cả,“ ông Anh giải thích. “Nhưng có rất nhiều người thực hiện.” Tôi lại thấy ông Anh nêu ra cái tên Bộ Công an.

Ông Giang nêu tên Bộ Thông tin Truyền thông. “Đấy mới là cơ quan chịu trách nhiệm về xuất bản.”

Ông Anh bổ sung lực lượng cảnh sát quốc gia và một số tổ chức khác vào danh sách. “Cũng giống như mây trời ấy. Họ có mặt ở khắp nơi.”

“Thường họ không bắt biên tập viên. Tác giả thì có thể bị bắt. Nhưng nói chung các biên tập viên biết được trước khi nào sẽ có rắc rối,” ông nói.

Tôi đề nghị họ nói chi tiết hơn nữa về kiểm duyệt trong việc xuất bản cuốn sách của tôi. Đây chính là lúc lần đầu tiên tôi nghe nói tới Nguyễn Thế Vinh. Ông Vinh là người đã đưa ra danh sách cuối cùng cho những chỗ phải cắt và là người đảm bảo có được giấy phép xuất bản. Theo mô tả của hai người, tôi nhận ra sức mạnh đáng kể của ông Vinh trong ngành xuất bản. Từng làm giám đốc cho nhiều công ty, nhưng hiện thời ông Vinh làm biên tập viên cho Hồng Đức – một nhà xuất bản thuộc sở hữu nhà nước trực thuộc Bộ Thông tin Truyền thông. Công ty này không chỉ cấp giấy phép cho cuốn của tôi mà còn được thể hiện logo của nó trên trang bìa. Đúng ra thì sách có hai logo: Một, của Nhã Nam là con trâu đang lặc lè với một cậu bé (hoặc cô bé) đang đọc sách trên lưng, cái kia là của Hồng Đức với chữ H hoa trắng nằm trong chữ Đ hoa màu đen.

Tôi còn biết thêm một việc thú vị về ông Vinh. Ông cũng là người đã lấy được giấy phép cho cuốn Perfect Spy (Điệp viên hoàn hảo) của Giáo sư Berman. Bản dịch tiếng Việt của cuốn sách này đã được tưởng là chất bôi trơn cho cuốn sách của tôi và còn ai có thể thực hiện công việc loại này tốt hơn người đã từng hoàn tất việc đó.

Trong khi ông Anh lúi húi pha cà-phê cho mình, ông Giang tiếp tục kể. “Cuốn sách của ông đã bị năm hoặc sáu nhà xuất bản từ chối. Còn những nhà xuất bản khác lại muốn can thiệp quá nhiều, đòi thay cả nội dung. Họ liên tục đòi cắt thêm, cắt thêm. Nhưng chúng tôi không chịu, cho tới khi Nguyễn Thế Vinh nhận làm.”

“Ông ấy đòi thay đổi những gì?” Tôi hỏi.

Ông Anh đang đi đi lại lại phía sau bàn. Một cái chau mày làm tối sầm mặt ông Giang. “Lúc nào nói chuyện với ông ấy, ông đừng nên hỏi quá khó. Cái đó có thể làm ông Vinh mất lòng và không có lợi cho việc bán cuốn sách của ông.”

“Ai đã đề nghị ông Vinh tham gia vậy, thưa các ông?” Tôi hỏi thêm.

“Ông Giang đã tiếp cận ông ấy,” ông Anh trả lời. Tôi nhận thấy hai người đàn ông đã trở nên bất an khi nói cho tôi biết những chi tiết như thế. Và cả hai cùng ngồi im, khoanh tay trước ngực.

“Những người ở Hồng Đức cũng muốn viết một lời giới thiệu cho cuốn của ông nhưng chúng tôi từ chối.” Ông Anh lên tiếng trở lại.

Nghe thế, trong đầu tôi mường tượng ngay ra những gì mà Hồng Đức có thể viết để chuốt lại những câu văn thật chuẩn cho Phạm Xuân Ẩn – nhà tình báo “hoàn hảo”, một cán bộ cộng sản toàn năng nhưng đã khiến cho nhiều người phương Tây phải mê mẩn ngưỡng mộ. Tôi cảm thấy biết ơn những người biên tập đã cứu tôi thoát khỏi sự hổ thẹn này.

“Chính ông Vinh đã lĩnh trách nhiệm cho việc in cuốn sách của ông đấy,” ông Anh nói.

“Ý ông là cuốn sách có thể vẫn còn bị kiểm duyệt?”

“Ngay ngày mai vẫn có thể bị thu hồi,” ông Anh thêm vào. “Không ai biết lý do từ đâu cả. Chúng tôi vẫn phải trông chừng mọi dấu hiệu xấu vì lúc nào cũng có thể có một kẻ nào đó tìm thấy những chỗ gọi là ‘nhạy cảm’ trong bất kỳ cuốn sách nào.”

“Theo các ông tôi nên tránh nói những chủ đề nào khi còn ở Việt Nam?” Tôi tiếp lời.

“Xin ông hãy nhớ cho, ông Vinh là người thành đạt và có danh tiếng trong nghề.” Ông Anh trả lời.

Đến lúc này thì mọi người đều đã rõ quan điểm của tôi trong vấn đề kiểm duyệt – một việc hèn hạ của những kẻ có quyền chuyên lừa gạt những người yếu thế để bảo toàn quyền lợi riêng cho bản thân. Tôi không cần phải lặp lại những điều đã thể hiện.

“Ông không nên quá thẳng với ông Vinh. Ông ấy làm việc theo chỉ đạo của nhà xuất bản.” ông Anh tiếp lời.

“Ông cũng nên coi cuốn sách của mình như một vật thể sống. Nó có thể được tái bản, những chỗ đã bị cắt trong lần đầu có thể sẽ được bổ sung trong những lần sau.” Ông Giang giảng giải.

Tôi đảm bảo với ông Anh và ông Giang là tôi sẽ cố hết sức không làm mếch lòng ai. Cả hai cũng đều biết bản tiếng Việt đầy đủ không bị kiểm duyệt của tôi sẽ được công bố trên internet.

“Ngay bây giờ thì Việt Nam chúng tôi chẳng có chuẩn mực gì cả,” ông Giang nói. “Chúng tôi không được biết những quyền của mình và không biết kiểm duyệt sẽ đến từ đâu. Nhưng hệ thống của chúng tôi đang thay đổi. Hy vọng ông hiểu rằng chúng tôi có thể tiến bộ. Chúng tôi có thể làm tốt hơn nữa. Chúng tôi đang phải học để hội nhập với ngành xuất bản thế giới.”

“Nhưng nếu cuốn của ông được tái bản chúng tôi muốn đưa trở lại các chi tiết đã bị cắt,” ông Giang nói thêm. “Ông đã có cảm nhận tích cực về Việt Nam. Mọi người biết điều đó. Vậy mong ông hãy kiên nhẫn, cho chúng tôi thêm thời gian để xem xét, sắp đặt thêm. Mọi người đánh giá cao ông như một chuyên gia về Việt Nam, một nhà phê bình, đôi khi quá nghiêm, nhưng công bằng. Việt Nam học – có lẽ đó là từ nói đúng cho những việc ông đang làm.”

“Mỗi năm các ông xuất bản bao nhiêu cuốn loại ‘rắn’?” Tôi hỏi.

“Trong nghề này, chúng tôi chuyên làm những sách khó,” ông Anh trả lời. “Lĩnh vực nào cũng có cái khó của nó. Nhưng sách của ông là ca đặc biệt. Ca khó nhất. Riêng tôi đã định bỏ. Tôi cho rằng sẽ chẳng có hy vọng gì. Tôi là người nóng nảy mà cuốn đó lại quá ư là rắn. Tôi đã buông tay và nói ‘cuốn này sẽ không bao giờ in được đâu!’ Nhưng những đồng nghiệp của tôi kiên nhẫn hơn tôi, họ nói “Từ từ nào. Vẫn còn cơ hội mà.” Nhờ có ông Giang và cô Thu Yến nên cuốn sách của ông mới được nhìn thấy ánh sáng ở đây đấy. Họ đã rất kiên trì và nhẫn nại.”

“Có lúc tôi đã cảm thấy như bị kẹt giữa hai làn đạn,” ông Anh tiếp tục. “Tôi bị bắn liên tục từ cả hai phía. Tác giả thì phản đối việc cắt bỏ. Người kiểm duyệt thì yêu cầu phải cắt. Cũng có những tác giả thông cảm cho hệ thống này, như Milan Kundera chẳng hạn. Ông ấy đã từng sống lâu dưới chế độ kiểm duyệt. Khi chúng tôi in sách của ông ấy, ông ấy hiểu các vấn đề của chúng tôi và đồng ý cho chúng tôi làm những gì chúng tôi phải làm. Nếu mà ông hiểu cho hơn nữa thì chúng tôi đã được nhờ nhiều hơn.”

“Thay mặt nhà xuất bản, chúng tôi muốn nói với ông là chúng tôi chúc mừng cuốn sách của ông đã được xuất bản ở đây,” ông Giang tiếp lời. Có thể ông Giang đang cảm thấy áy náy vì tôi đã bị so sánh không được hay lắm với Milan Kundera. Thực ra tôi thấy buồn cười về chuyện một người tỵ nạn trốn khỏi Tiệp Khắc cộng sản lại tỏ ra dễ tính đến thế để bị kiểm duyệt ở Việt Nam cộng sản.

“Nhưng đây không phải lần đầu Việt Nam và Hoa Kỳ găng nhau trong đàm phán,” tôi nói. Ông Anh và ông Giang thích câu đùa của tôi. “Tôi vui vì chúng ta đã có một kết thúc có hậu.” Xong cả ba cùng bắt tay nhau. Sau đó tôi được đề nghị ngồi vào bàn của ông Anh để ký tặng sách của tôi cho các nhân viên Nhã Nam. Gần như mọi người trong công ty đều muốn có một cuốn trước khi điều có thể xảy ra: cuốn sách biến khỏi các giá sách. Suốt buổi trưa hôm đó mọi người liên tục vào phòng ông Anh để tôi ký.

ĐIỆP VIÊN HOÀN HẢO?

Đến nay đã có sáu cuốn sách viết về Phạm Xuân Ẩn, ba cuốn bằng tiếng Việt, một, tiếng Pháp và hai, tiếng Anh. Cuốn tiểu sử tự họa “chính thức”, Điệp viên hoàn hảo (Perfect Spy), được xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2007 và được dịch sang tiếng Việt một năm sau đó. “Chúng tôi đã làm cho cuốn đó hồng từ đầu chí cuối,” một người sành sỏi về xuất bản ở Việt Nam đã nói với tôi như thế. Nghĩa là các nhà kiểm duyệt Việt Nam đã tô cho thật nổi sắc thái yêu nước lên chân dung nhân vật anh hùng dân tộc vốn đã được chọn lọc kỹ.

Ngay từ nhan đề, Điệp viên hoàn hảo, đã đủ cho mọi người phải hiểu đó là nói về Phạm Xuân Ẩn một người Việt Nam vì dân tộc, yêu nước. Cuốn sách cũng cho rằng ông Ẩn đã về hưu một cách hạnh phúc khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 1975. Nhưng vấn đề của câu chuyện lại ở chỗ nó có vẻ không thật. Mọi điệp viên đều có một vỏ bọc và một cuộc đời được giấu kín phía sau trong cuộc sinh tồn hai mặt hoặc, như Phạm Xuân Ẩn, là bốn mặt. Vì, có lúc ông Ẩn làm cho Phòng Nhì của Pháp, lúc lại cho CIA và lúc lại cho cả cơ quan tình báo của Nam Việt lẫn Bắc Việt. Hoạt động tình báo cho người Pháp ông Ẩn chỉ ở mức làm thêm kiểm duyệt thuê ở Sở Bưu điện, cắt tỉa các điện tín của Graham Green trước khi gửi cho tạp chí Paris Match. Khi làm cho người Mỹ, ông Ẩn còn được đào tạo về khoa chiến tranh tâm lý trong những năm 1950 do chính Edward Lansdale và những nhân viên tình báo CIA khác huấn luyện.

Làm cho cơ quan tình báo của Nam Việt, ông Ẩn là cánh tay phải của trùm tình báo Trần Kim Tuyến, người có sự nghiệp được coi như kết thúc vào năm 1962 do bị thất sủng sau cú chính quyền bị lật đổ hụt. Nhưng ông Ẩn vẫn giữ quan hệ với ông Tuyến – người vẫn là “phù thủy” có tật đam mê lật đổ. Ông Ẩn đã giúp ông Tuyến nhiều thực phẩm, thuốc men (chắc chắn có cả tin tức kèm theo) khi ông trùm tình báo bị quản thúc tại gia. Sau đó ông Ẩn còn giúp ông Tuyến một phi vụ cuối cùng. Ông Ẩn cứu mạng ông Tuyến. Có một tấm ảnh nổi tiếng năm 1975 chụp chiếc trực thăng cuối cùng của Hoa Kỳ đang bay lên từ nóc tòa nhà số 22 đường Gia Long, cho thấy một chiếc thang mỏng manh bắc vào thân máy bay. Người cuối cùng leo lên chiếc thang đó chính là Trần Kim Tuyến, nhưng người giúp ông ta leo lên được chính là cựu trợ lý tâm phúc của ông ta. Tại sao ông Ẩn lại giúp cho người từng là đầu não rất lâu của ngành tình báo Nam Việt thoát khỏi những người cộng sản? “Tôi biết tôi sẽ gặp rắc rối,” ông Ẩn nói với tôi. “Đó là một sếp tình báo, một nhân vật quan trọng cần phải bắt lại, nhưng ông ấy là bạn tôi. Tôi có ân tình với ông ta.” Làm sao có thể biết được ông Ẩn đã quyết định phụng sự lòng trung thành với ai hay bao nhiêu câu hỏi khó trả lời đã tránh được khi ông Tuyến bay thoát sang Anh lưu vong.

Ông Ẩn đã giữ được vỏ bọc nhà báo trong suốt hai mươi năm, nhưng khi nó bị bung mất sau cuộc chiến, ông đã làm một vỏ thứ hai – một chiến lược gia tầm thế giới đang tận hưởng đời hưu trí phong lưu. Suốt ngày khách khứa, tán gẫu với nhiều nhà báo phương Tây. Gần đây tôi có xem một đoạn phim về ông Ẩn khi được phỏng vấn vào năm 1988, do nữ diễn viên Hollywood và cũng là một người tỵ nạn từ Việt Nam, tên Tiana Silliphant, thực hiện. Tiana lúc đó đang thu thập dữ liệu cho cuốn phim tài liệu của cô Từ Hollywood tới Hà Nội (From Hollywood to Hanoi). Ông Ẩn ngồi rất thoải mái ngay trên bậc cửa thềm nhà của ông, phía sau không phải một mà hai con chó giống Đức đang canh chừng. Tiana hỏi thẳng ông Ẩn về những người mà ông đã phản bội và những người bạn đã chết vì hoạt động tình báo của ông. Đôi mắt ông Ẩn dướn lên, sắc mặt thoáng biến. Nhưng ngay lập tức ông Ẩn trả lời bằng cách lái câu chuyện vào chiếc vỏ thứ hai. “Tôi mới rời quân ngũ, về hưu cách đây có vài tuần,” ông Ẩn thủng thẳng nói. “Tôi chưa bao giờ phản bội ai cả.”

Ông Ẩn nói trong băng rằng ông xuất ngũ, về hưu năm 1988. Nhưng có lần, cũng được ghi băng, ông lại nói rằng về hưu năm 2002 và một lần khác thì về hưu năm 2005. Đó là lần một vị khách đã trông thấy chiếc TV lớn màn hình phẳng trong phòng khách nhà ông có kèm tấm thiếp cho biết là quà tặng khi ông về hưu của những “người bạn” từ Tổng cục II – Tình báo Quân đội. Nhưng rất có thể ông Ẩn chưa bao giờ nghỉ hưu, ông vẫn luôn là thành viên của các cơ quan tình báo cho tới tận lúc qua đời. Dưới vỏ bọc thứ nhất, nhà báo, ông là một điệp viên suốt từ năm 1950 cho tới lúc mãn cuộc chiến Việt Nam. Trong lớp vỏ thứ hai, nhà chiến lược về hưu, ông đã hoạt động điệp báo thêm ba mươi năm nữa – lâu hơn cả giai đoạn đầu. Ông đã làm những gì trong vai trò một điệp viên còn hoạt động là điều vẫn chưa thể biết, nhưng chắc chắn ông đã báo cáo về những vị khách tới thăm và đưa ra những đánh giá, phân tích chính trị khiến ông trở nên có giá. Bằng việc dí dỏm nói về chuyện những người cộng sản đã thất bại trong việc “cải tạo” lại mình, ông Ẩn đã thành công trong việc làm lạc đi những ngờ vực rằng ông vẫn còn hoạt động tình báo. Điểm đặc biệt này chỉ được lộ ra khi Tướng Nguyễn Chí Vịnh đọc điếu văn trong đám tang ông Ẩn. Khi ấy Tướng Vịnh đang đứng đầu Tổng cục II. Điếu văn do Tướng Vịnh đọc cho biết ông Ẩn đã lập “những chiến công phi thường” ngay khi sống trong “lòng kẻ thù”, kèm theo danh sách các huân, huy chương của quân đội, mỗi chiếc đều là một câu chuyện lớn của đời ông.

Trong mục tham chiếu sơ sài, Điệp viên hoàn hảo cho biết Phạm Xuân Ẩn đã được tặng mười một huân, huy chương. Nhưng thực tế ông có tới mười sáu chiếc, trong đó sáu chiếc được trao sau 1975. Mười bốn trong tổng số, và bốn chiếc trong số sau 1975 là thuộc huân, huy chương chiến công, không phải cho các phân tích chiến lược mà vì những hành động quân sự cụ thể. Ông Ẩn đã giành được huân chương vì lập công trợ giúp chiến thuật cho các trận đánh từ Ấp Bắc năm 1963, Ia Đrăng 1965 cho tới Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc cuộc chiến năm 1975. Bốn huân chương chiến công khác được trao cho ông sau 1975 là vì những hoạt động nào vẫn còn là bí mật.

Giấu bớt huân, huy chương, hạ thấp ý nghĩa và làm quên đi sự thật rằng nhiều huân, huy chương đã được trao sau 1975 là một phần của chiến lược xây dựng Phạm Xuân Ẩn thành một “điệp viên hoàn hảo” với bản mặt hiền lành, như Hồ Chí Minh, để được nhấc hẳn ra ngoài tính chất đẫm máu ghê rợn của những cuộc chiến chống thực dân ở Việt Nam. Trong Điệp viên hoàn hảo, nhiều góc cạnh nghề nghiệp của ông Ẩn đã bị đẽo gọt hoặc phạt hẳn đi. Những tình tiết ông chỉ trích sự bất tài, tham nhũng của chế độ cộng sản, những nhận xét rất khó chịu của ông về ảnh hưởng của Nga, những phản đối Trung Quốc can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam và những câu bông đùa của ông về việc đã bị “cải tạo” lại vào năm 1978, cũng như sự đối lập của ông đối với nhóm lãnh đạo hiện thời ngả theo Trung Quốc, tất cả đều được kể mềm đi. Những chi tiết khác về việc vợ và bốn người con của ông đã được đưa sang Hoa Kỳ năm 1975 rồi một năm sau lại bị gọi về Việt Nam cũng đã được làm mờ đi hoặc lờ hẳn đi. Trong phiên bản được gia công để công chúng thưởng lãm, giống như người viết tiểu sử “chính thức” của ông đã kể, ông Ẩn vẫn ở lại Sài Gòn khi chiến tranh chấm dứt vì phải chăm sóc người mẹ già yếu. Nhưng thực ra tình báo Việt Nam từ trước đã có kế hoạch đưa ông sang Hoa Kỳ tiếp tục làm điệp báo cho chính quyền. Nhưng kế hoạch đó cuối cùng bị Bộ Chính trị bác nên ông buộc phải ở lại và phải gọi cả nhà quay trở về. Những thông tin về hoạt động của ông thời hậu chiến cho thấy Việt Nam đã có kế hoạch, và chắc chắn đã thành công, trong việc cài điệp viên vào Hoa Kỳ lúc chấm dứt chiến cuộc. Nhưng điều này cũng cho biết đã có một bất đồng lớn giữa cơ quan tình báo và Bộ Chính trị, và cơ quan tuyên truyền của Việt Nam muốn dùng câu chuyện một bà mẹ già yếu để che mối bất đồng đó đi.

Một khi những mảng tối đã được lắp trở lại cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn thì các nhà kiểm duyệt buộc phải chống lại những mô tả kém-hoàn hảo-hơn về ông. Đúng ra họ sẽ phải cần năm năm để viết lại cuộc đời ông và cố làm cho nó thật giống với phiên bản chính thức. Và nước cờ mở của Nhã Nam đã bị hụt. Vì một cuốn sách về Phạm Xuân Ẩn của một tác giả phương Tây đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam không có nghĩa là cuốn thứ hai sẽ được dễ dàng. Thật vậy, như chúng ta gần đây mới biết, ngay cả phiên bản “hồng” về cuộc đời ông Ẩn đã nói ở trên cũng là một vụ hồi hộp. Tin này do công điện ngoại giao Hoa Kỳ nói đến tháng Chín 2007 và được Wikileaks tiết lộ năm 2011. Điện tín từ Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở thành phố Hồ Chí Minh tả lại việc bản Việt ngữ Điệp viên hoàn hảo đã suýt bị Bộ Công an cho nghiền thành cám vào phút cuối như thế nào, dù việc in ấn hoàn toàn do một công ty của chính quyền thực hiện. Những nhà kiểm duyệt bên Bộ Công an phản đối “rất nhiều những trích dẫn lời Phạm Xuân Ẩn, ca cẩm về việc Việt Nam chỉ đơn thuần đổi ông chủ này lấy một ông chủ khác – tức Liên-Xô –, và chỉ trích của ông về nhiều chính sách sau chiến tranh của nhà nước.” Các biên tập viên cũng bị rắc rối vì đã “ủng hộ xuất bản một cuốn sách, trong đó một trong những anh hùng danh tiếng nhất của đất nước lại tung các tấn công vào khắp các chính sách hậu chiến của nhà nước Việt Nam và phê phán tính chất khép kín của xã hội Việt Nam.” Theo ghi chép của Tổng Lãnh sự, “phái ủng hộ cải cách trong chính quyền Việt Nam” đã chỉ “cao tay” hơn “phe chống cải cách” khi đích thân ông Chủ tịch nước phê chuẩn việc xuất bản cuốn sách.

Những câu chuyện kiểm duyệt vừa nói đã cho thấy thượng tôn luật pháp (rule of law) ở Việt Nam đã và đang bị thay bằng thượng tôn luật rừng như thế nào.

Những người có quyền sẽ làm tất cả mọi điều có thể để bảo vệ các đặc quyền của họ. Tôi thấy hoảng vì những câu chuyện như thế, nhưng nhiều người lại ngáp khi nghe tôi nói về tình trạng kiểm duyệt ở Việt Nam. “Thế ông mong đợi điều gì?” họ thường hỏi thế. “Chẳng có gì ngạc nhiên ở đây cả.” Thậm chí nhiều người bạn Việt Nam của tôi còn phó thác tất cả cho định mệnh, cho một niềm tin kỳ lạ rằng họ có thể đọc được cả những con chữ vừa khuất bóng. “Tôi có thể chỉ cho ông biết một cuốn sách đã bị đục bỏ ở chỗ nào.” Bảo Ninh, nhà văn, đã đảm bảo với tôi như thế. “Chúng tôi biết những gì đã bị cắt. Chúng tôi chỉ không thể nói về những chuyện đó thôi.”

Thật khó có lý lẽ để chống kiểm duyệt khi trước mặt sự vô sỉ đã chan hòa. Nhưng gần đây đã có một nỗ lực quí giá chống kiểm duyệt do Amartya Sen, người từng đoạt Giải Nobel về kinh tế, khởi xướng. Trong một bài viết cho tờ Index on Censorship (Chỉ mục về Kiểm duyệt) năm 2013, Sen đã truy vấn đất nước Ấn Độ quê hương ông về ý tưởng học theo mô hình Trung Quốc – một chính quyền độc tài có thể làm kinh tế tăng trưởng bằng việc phá bỏ tự do cá nhân. Nền tảng trong quan điểm đối lập của Sen là: “tự do báo chí là yếu tố cốt yếu cho phát triển”. Tự do ngôn luận có “giá trị tự thân”, Sen nói. Đó là “yêu cầu tất yếu để có một nền chính trị sáng suốt.” Điều đó sẽ “giúp những người thiếu may mắn hay bị bỏ rơi được lắng nghe”, đó là yếu tố cốt tử để xã hội có “những ý tưởng mới”. Trung Quốc có vẻ vẫn đang vận hành khá ổn, nhưng Sen – nhà kinh tế học đã đoạt Giải Nobel cho công trình nghiên cứu về nạn đói – nhắc cho chúng ta nhớ lại điều gì có thể xảy ra khi tuyên truyền chiếm chỗ của thông tin.

“Trong bất kỳ hệ thống độc tài nào cũng có một sự mong manh không tránh khỏi”, Sen viết như thế. Lần cuối cùng hiện tượng này tự bộc lộ là ở Trung Quốc, trong cuộc cải cách ruộng đất tồi tệ của thời kỳ Đại Nhảy vọt, đất nước này đã phải chịu một trong những nạn đói khủng khiếp nhất thế giới. “Từ năm 1959-1962… có ít nhất 30 triệu người Trung Quốc chết đói do chính quyền không nắm được sự thật và vì công luận không có bất kỳ tiếng nói phản kháng có sức mạnh nào để cảnh báo sai lầm trong các chính sách giống như trong các nền dân chủ.”

“Và các sai lầm về chính sách cứ tiếp tục lặp lại suốt trong những năm đói kém kinh hoàng đó,” Sen viết tiếp. “Tình trạng trắng thông tin tuyệt đối, vì kiểm duyệt và kiểm soát, tới mức chính quyền bị chính hệ thống tuyên truyền của nó làm cho tin xằng rằng vẫn còn hơn 100 triệu tấn gạo. Cuối cùng, năm 1962 Mao Chủ tịch phải đích thân lên tiếng và thừa nhận là “thiếu dân chủ”, nhưng cái thiếu trong trường hợp này là cái thiếu giết người. Ấn Độ và nhiều nơi khác trên thế giới có thể đã bị quyến rũ bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt tới 2 con số của Trung Quốc, nhưng sẽ thật dại dột, Sen nói, nếu học theo các biện pháp phi dân chủ – những thứ đã làm suy sụp các chế độ toàn trị và làm cho những kẻ lãnh đạo của các chế độ đó tin chính những lời dối trá của họ.

TÁC PHONG THỜI CHIẾN

Ông Nguyễn Thế Vinh, biên tập viên của nhà xuất bản Hồng Đức, là người kiểm duyệt cuối cùng tôi gặp trong chuyến đi tìm hiểu ngành xuất bản ở Việt Nam. Tôi phải xuất hiện trong một hội chợ sách tại Hà Nội để ký tặng sách và sau đó ngồi bàn chủ tọa thảo luận về cuốn sách của tôi. Ngồi cạnh tôi, một bên là ông Vinh điều độ, giống như nhiều biên tập viên khác, có vẻ mến sách hơn tác giả, và bên kia là ông Dương Trung Quốc lịch lãm, người cũng có công làm cho cuốn sách của tôi được ấn hành. Ông Quốc là một nhà sử học và chính trị gia. Tôi không rõ ông viết về loại sử nào, nhưng là một đại biểu được bầu của Quốc hội Việt Nam, ông Quốc – một người nồng nhiệt có phong độ giống như một Bill Clinton của Việt Nam – thể hiện rõ là một chính trị gia thành đạt.

Tôi phải cố nén sự khó chịu vì gần hết buổi tối đã được dành để nói về Phạm Xuân Ẩn như một “điệp viên hoàn hảo”. Xin hãy nhớ, ông Vinh đã biên tập và kiểm duyệt cả tiểu sử “chính thức” và cuốn sách của tôi. Người ta đã khuyên tôi phải giữ miệng và chớ làm hại cho việc bán cuốn sách của tôi. Khổ sở này vẫn tiếp tục lan sang cả bữa tối khi tôi vẫn phải giữ mồm giữ miệng còn ông Vinh và ông Quốc cứ thoải mái thưởng thức bữa tiệc thịnh soạn nhiều món. Chính hai ông ấy là những người cuối cùng quyết định cắt gọt sách của tôi nhưng dầu sao họ cũng là những người có thế lực làm cho nó được xuất bản. Tôi đang nợ họ một ít tiền nhuận bút mà tôi định sẽ tặng cho một số người trong hàng triệu linh hồn thiệt thòi của cộng đồng người Việt xa quê hương sau cuộc chiến. Nhưng khi món ăn được chuyển từ rau xào sang cá hấp thì lưỡi của tôi đột nhiên mất đi sự e dè đủ để trườn ngay vào chủ đề kiểm duyệt.

“Theo luật thì Việt Nam không có hệ thống kiểm duyệt,” ông Vinh nói. “Chủ yếu là chúng tôi tự kiểm duyệt.”

Ông Quốc, nhà chính trị, đồng ý với ông bạn văn chương. “Ở Việt Nam kiểm duyệt nằm ngay trong đầu của mọi người. Người cắt xén sách của ông là chính các biên tập viên, chứ không phải chính quyền”, ông Quốc nói.

Tôi đề nghị họ làm rõ thêm về việc vì sao một đất nước không có hệ thống kiểm duyệt lại có thể kiểm duyệt được nhiều người viết đến thế. “Tất cả các nhà xuất bản đều thuộc nhà nước”, ông Vinh nói. “Tất cả mọi người làm trong hệ thống đều phải hiểu điều này: vì mục tiêu cao cả hơn của quốc gia họ phải hy sinh một số thứ. Chúng tôi ở đây có một câu thành ngữ: Giết nhầm còn hơn bỏ sót.”

Ông Quốc để một nụ cười từ từ nở rộng khắp mặt rồi mới nhẹ nhàng trách ông bạn: “Anh nói cứ như chính ủy ấy.”

Lúc sau cũng trong buổi tối hôm đó ông Quốc gợi ý cho tôi biết tại sao cuốn sách của tôi cuối cùng cũng được xuất bản sau năm năm bị chặn. “Tất cả các cuốn tiểu sử đã được cho phép in về Phạm Xuân Ẩn trước đây đều là kết quả từ các bản tốc ký. Người ta in những gì mà ông ấy nói cho họ in. Nhưng cuốn của ông thì khác. Cuốn của ông là tư liệu và là bản nghiên cứu, nhưng quan trọng hơn, nó đã bắt được cái hồn người của Phạm Xuân Ẩn. Vì thế mà tôi nghĩ nó nên được xuất bản.”

Tôi nhận lời khen tặng nhưng ghi nhớ rằng cuốn sách của tôi chưa thực sự được xuất bản ở Việt Nam. Cuốn đang bán ở Việt Nam chỉ là loại quảng cáo lấp lửng, còn bản Việt ngữ đầy đủ chỉ có thể có ở hải ngoại. Đó là bản sẽ được dịch lại và công bố ở Berlin từ các file điện tử lưu trong những chiếc máy tính đã được gia cố chống lại các cuộc tấn công của các nhà kiểm duyệt từ Việt Nam. Hiện nay tại Việt Nam vẫn đang có những nhà kiểm duyệt đang cố vươn tay ra khắp thế giới và làm tê liệt máy tính ở ngayBerlin. Điều đó làm cho những kẻ kiểm duyệt đó ít hiền lành hơn rất nhiều so với những gì mà ông Vinh muốn tôi tin. Trong trường hợp này những nhà kiểm duyệt đó không chỉ hành động như những người làm vườn tự do, thích cắt tỉa theo ý muốn của họ, mà là những đặc vụ của chính quyền thực hiện mệnh lệnh tấn công người khác ở nước ngoài.

Khi chúng tôi chuyển từ món cá sang thịt nướng, ông Quốc ra dấu sắp cho tôi biết một điều đặc biệt. Phạm Xuân Ẩn không chỉ tiếp tục làm điệp viên sau 1975 mà còn làm công việc đó ở cấp cao nhất. “Ông ấy đã làm hiệu trưởng trường đào tạo tình báo của quân đội ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Tám tháng ông Ẩn phải nằm ở Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội, năm 1978, là để chuẩn bị cho vị trí quan trọng đó.

Nhưng tôi chưa thấy chứng cứ nào cho thông tin này. Thực ra tôi ngờ rằng đó chỉ là một phần của chiến dịch tuyên truyền nhằm làm cho Phạm Xuân Ẩn trở thành một cán bộ cộng sản hoàn hảo. Điều khẳng định trên còn khó đứng vững hơn vì ngay lúc trước trong cùng buổi tối đó, chính ông Quốc đã thừa nhận là ông Ẩn, một người miền Nam đã từng làm việc cho Mỹ, luôn bị các đồng nghiệp miền Bắc nghi kỵ. “Những người ở vị trí như của Phạm Xuân Ẩn không được chính quyền tin tưởng. Có rất nhiều câu hỏi về ông ấy”, ông Quốc nói. Chắc những câu hỏi như thế còn lâu mới được trả lời. “Ít nhất phải sau 70 năm tài liệu ở Việt Nam mới được giải mật”, ông Quốc cho biết.

Sau này, để kiểm chứng sự khẳng định của ông Quốc rằng, Phạm Xuân Ẩn đã làm hiệu trưởng học viện tình báo, tôi đã tới thăm ông Bùi Tín ở căn hộ một buồng áp mái của ông tại Paris. Ông Tín cũng là một nhà báo tình báo có tiếng. Ông là Phó Tổng biên tập của tờ Nhân dân, tờ báo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi viết một bài xã luận vào mùa Xuân năm 1990 ca ngợi sự sụp đổ của Bức tường Berlin và việc áp dụng các cải cách chính trị dân chủ trong phe cộng sản. Ông Tín lúc đó sắp bị Bộ Chính trị loại bỏ nhưng Bộ Chính trị cũng đang phải chuẩn bị ký một thỏa thuận hợp tác bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc. (Ông Tín nói, “Thỏa thuận Thành Đô tháng Chín năm 1990 là sự mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc Việt Nam.”). Để tránh bị bắt, ông Tín đã để vợ cùng hai con ở lại Hà Nội rồi bay sang Paris dự cuộc gặp với các biên tập viên của các báo cộng sản. Sau đó ông Tín không bay về nước, ông nghĩ tình hình sẽ tự lật ngược trong khoảng một đến hai năm, các lực lượng tiến bộ của Việt Nam cũng sẽ giành được thế thượng phong và áp dụng trở lại các cải cách dân chủ cho đất nước. Hai mươi lăm năm sau, ông Tín vẫn ở Paris và vợ ông, người ông chưa gặp mặt suốt từ năm 1990 đến nay, vẫn sống trong vòng “kiểm soát chặt chẽ” ở Hà Nội.

Là đại tá quân đội và là người thân tín của Tướng Giáp, và là đồng nghiệp báo chí đã kết bạn với Phạm Xuân Ẩn sau khi hai người gặp nhau năm 1975, ông Tín là một nguồn tin cậy để kiểm tra kỹ thông tin của ông Quốc. “Đúng, Phạm Xuân Ẩn đã viết báo cáo về những người khách tới thăm,” ông Tín xác nhận, “và đôi khi ông ấy cũng được mời đến Bộ Nội vụ giảng bài cho các điệp viên đang học ở Sài Gòn. Nhưng ông ấy hoàn toàn không ở cấp lớn như hiệu trưởng học viện tình báo. Chính quyền đã đối xử với ông ấy như một công cụ hấp dẫn thôi. Ông ấy là một vật trang kim để họ chơi đùa và chiêm ngưỡng. Ông ấy tốt cho việc tuyên truyền nhưng họ không bao giờ tin.”

Dù có những phát biểu còn đầy bí hiểm, tôi bắt đầu thấy khoái ông Quốc khi chúng tôi cùng nhiệt thành cạn sạch một chầu bia khá thoải mái và kết thúc buổi tối với những chiếc tăm vểnh trên miệng – tín hiệu vừa chén xong một bữa tuyệt vời. Ông Quốc còn làm tôi ngạc nhiên thêm bằng một tiết lộ khác. Không giống như ngày xưa, ông Quốc nói, chính quyền Việt Nam hôm nay không còn được điều khiển bởi những bộ óc lớn và những thiên tài quân sự nữa. “Chính quyền Việt Nam ngày nay không đủ thông minh để cho phép một người như Phạm Xuân Ẩn làm những điều như trước đây. Phải vừa táo bạo vừa sáng suốt mới có thể điều khiển được một điệp viên cỡ đó. Cái đó trong tiếng Anh của ông nói thế nào? À, ‘Nạn nhân đầu tiên của chiến tranh là sự thật’. Ở đây, chúng tôi vẫn còn nhiều tác phong thời chiến lắm.”

Đến đây, trong buổi tối đó, những người bạn thích giao lưu vào lúc bữa tiệc ngon sắp tàn đều nhất trí với nhau gần như về tất cả mọi chuyện, và những nhà kiểm duyệt của tôi cùng tôi lại bắt đầu nâng ly chúc tụng. Trăm phần trăm.

Nguồn: Dịch từ bản gốc tiếng Anh “Swamp of the Assassins: On Being Censored in Vietnam”, phần I, do tác giả gửi đến pro&contra.

Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hồng Sơn & Thomas A. Bass & pro&contra SHARE

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét