NQL:Vì không dự được Hội thảo“Trách nhiệm của Việt Nam trong vai trò thành viên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc” ngày 4/2/2014 nên anh Phạm Chí Dũng gửi cho Quê Choa bản tham luận này. Hy vọng dù Phạm Chí Dũng vắng mặt nhưng tham luận này vẫn sẽ được vang lên tại Genève.
II. Xã hội dân sự ở Việt Nam: phương châm và độ chín muồi:
* Phương châm nào?
Khác hẳn với xã hội dân sự ở các nước phát triển, các nhóm dân sự ở Việt
Nam không có được không gian tự do biểu đạt, và không gian này càng bị
thu hẹp trong bối cảnh thể chế chính trị một đảng được coi là “duy nhất”
ở Việt Nam. Tình hình như thế dẫn đến hậu quả tất cả các nhóm dân sự
đều có thể bị chính quyền đàn áp nếu bị coi là quá thiên về hoạt động
chính trị nhằm thay đổi chế độ.
Thực ra về mục đích, xã hội dân sự với các phong trào dân sự không nhắm
đến một cuộc tranh đua, giành đoạt về quyền lực đối với chính thể đương
nhiệm.
Với sứ mệnh được mặc định của mình, xã hội dân sự chỉ nhằm làm cho chính
quyền nhận ra được những sai lầm trong chính sách và quá trình thực
hiện chính sách, từ đó tiến hành hủy bỏ hoặc điều chỉnh những chính
sách, nhân sự thực hiện.
Ôn hòa, bất bạo động, tránh đổ máu là những đặc trưng trong phương pháp
hoạt động của xã hội dân sự và các phong trào dân sự. Chính phương châm
này đã loại trừ tâm trạng lo lắng đầu tiên của những người muốn tham gia
phong trào dân sự là liệu họ có bị sách nhiễu hoặc thậm chí bị bắt bởi
những hoạt động thuần túy xã hội của mình.
* Đã chín muồi để xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam?
Việt Nam hiện thời đang phải đối mặt với tình trạng kinh tế lụn bại,
tham nhũng ghê rợn chưa từng thấy, xã hội nhiễu nhương đạo lý, chính trị
bất nhất đạo đức, tình cảm của người dân chuyển từ bức xúc đến phẫn nộ
rồi tràn sang phẫn uất. Trong bối cảnh đó u uất đó, những người muốn có
một sự thay đổi lớn lao về thể chế chính trị không phải là ít.
Xã hội dân sự là một trong những phương cách tốt nhất để tạo nên sự thay đổi cấp thiết ấy.
Hãy làm sao để người dân nhận ra rằng được sinh ra từ lòng xã hội dân
sự, các phong trào dân sự không phải là một khái niệm cao siêu mà giai
cấp nông dân và công nhân không thể với tới được.
Ngược lại, hoạt động dân sự trong xã hội dân sự là những gì thiết thân
và gần gũi nhất với đời sống dân sinh, nhằm hỗ trợ giải quyết một cách
thấu tình đạt lý những bức xúc của dân chúng liên quan đến nhiều chủ đề
thiết thực trong hiện tồn Việt Nam như Hiến pháp, tham nhũng, đất đai,
môi trường, biển đảo, quyền lợi người lao động, thị trường, các chính
sách công bất hợp lý…
Có quá nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong bối cảnh chính quyền không
có đủ năng lực và ngày càng mất đi sự công tâm cần có để bảo đảm việc
chấp nhiệm một cách công bằng. Đó cũng chính là nhu cầu xã hội đang nảy
sinh trong lòng xã hội Việt Nam đương đại, đòi hỏi phải có những tác
động phi chính phủ, tức hoạt động nằm ngoài khuôn khổ của đảng và chính
quyền, giúp cho người dân nhận thức được bản chất của những mâu thuẫn,
khó khăn, xung đột và tìm cách giải quyết phần nào những mối nguy đó.
* Những tiền đề của xã hội dân sự ở Việt Nam:
Có thể xem phong trào phản biện Bauxite từ năm 2007 là tiêu điểm đầu
tiên mang dấu ấn của nhóm trí thức xuất thân từ lòng đảng, nhưng đậm nét
cách tân và có quan điểm cách mạng hơn nhiều so với những lề thói cũ.
Công cuộc phản đối dự án khai thác bauxite của Trung Quốc cũng có thể có
ý nghĩa không kém thua so với 11 cuộc biểu tình chống sự can thiệp của
Bắc Kinh vào Biển Đông vào năm 2011.
Đến đầu năm 2013, nhóm “Kiến nghị 72” với những kiến nghị chưa có tiền
lệ về đổi mới Hiến pháp, là một hiện tượng có vẻ như đột biến, nhưng
thực chất là tuân theo đúng quy luật biện chứng “lượng đổi dẫn đến chất
đổi”. Sau nhiều năm không nhận ra một sự thay đổi và cải thiện đáng kể
nào từ phía đảng và chính quyền, giới trí thức bất đồng tiên phong đã
phải trực chỉ một điều cốt tử: một khi nền chính trị Việt Nam không có
đối trọng - được thể hiện bởi những lực lượng vật chất - những chính
sách bất hợp lý về tư tưởng và bất công về quyền lợi của nó chỉ có thể
dẫn dân tộc đến hố sâu phân hóa và tự triệt tiêu động lực tiến bộ.
Có thể coi sự hình thành của “Kiến nghị 72” nhằm thay đổi điều 4 Hiến
pháp về vai trò độc đảng là dấu mốc cực kỳ quan trọng cho việc khởi
xướng tiền đề của hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam trong tương lai.
Sau “Kiến nghị 72”, một số blogger trẻ cũng đã khởi phát phong trào 258 -
một hoạt động mà về hình thức chỉ là tiếp xúc và trao bản tuyên bố phản
đối điều 258 Bộ luật hình sự cho các cơ quan đại diện ngoại giao nước
ngoài và một số tổ chức nhân quyền quốc tế, nhưng thực chất là bày tỏ
thái độ phản đối công khai đối với chính quyền theo tinh thần minh bạch
hóa và tác động thay đổi chính sách của xã hội dân sự.
Năm 2013 là thời điểm của sự hình thành những tiền đề các nhóm dân sự.
Hàng loạt tổ chức dân sự mới ra đời như Diễn đàn Xã hội dân sự, nhóm Phụ
nữ nhân quyền Việt Nam, Hội Bầu bí tương thân, Hội Dân oan Việt Nam….
Đến nay, đã có ít nhất 15 tổ chức dân sự có khuynh hướng tác động nhằm
điều chỉnh hoạt động chính trị ở Việt Nam, chưa kể nhiều tổ chức dân sự
mang mục tiêu giáo dục, xã hội và văn hóa.
Cũng chủ yếu từ năm 2011 đến nay, hoạt động truyền thông xã hội tại Việt
Nam đã hình thành một cách dày dạn và tỏ ra can đảm hơn hẳn hoạt động
thông tin “lề trái” ở Trung Quốc. Số người viết ngày càng nhiều, nhưng
quan trọng hơn, số bài viết có chất lượng và có sức lan tỏa, tính kết
nối với hệ thống truyền thông quốc tế ngày càng tăng. Truyền thông quốc
tế lại tác động đến nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và chính phủ các
quốc gia hàng đầu về dân chủ và nhân quyền, tạo nên hiệu ứng tác động
ngược lại đối với nhà cầm quyền ở Việt Nam.
Chính hiệu ứng “trong ra ngoài vào” như vậy đã thực sự làm nên một đối
trọng về áp lực dư luận đối với hệ thống báo đảng, khiến cho các cơ quan
tuyên giáo từ trung ương đến địa phương không thể xem thường truyền
thông xã hội. Trong một số trường hợp liên quan đến “Kiến nghị 72”, vụ
tuyệt thực của hai tù nhân lương tâm Cù Huy Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn
Hải, vụ bắt rồi thả một nữ sinh là Phương Uyên, đề xuất thành lập đảng
mới của một luật gia là ông Lê Hiếu Đằng, hiện tượng thoái - bỏ đảng, lễ
tưởng niệm ngày mất đảo Hoàng Sa…, giới báo chí “lề đảng” đã phải chọn
cách đứng trước vành “đối chất” thay vì phẩy tay bỏ qua vào những năm
trước.
Truyền thông xã hội lại là một thành phần đương nhiên của xã hội dân sự.
Đó cũng là lý do để có thể tạm thời kết luận rằng một phần quan trọng
và có thể có tính quyết định của xã hội dân sự đã manh nha và đang dần
khởi sắc ở Việt Nam, cho dù chân đứng của nó có lẽ còn khá lâu nữa mới
vững chắc và đồng vị tại một điểm thống nhất nào đó.
* Ảnh hưởng đối ngoại đối với sự hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam:
Trong bối cảnh hình thành những tiền đề đầu tiên của xã hội dân sự,
hướng mở về đối ngoại kéo theo độ mở về chính trị đã cho thấy chưa bao
giờ từ năm 1975 đến nay, Nhà nước Việt Nam lại “cần” đến cộng đồng quốc
tế như bây giờ. Nhu cầu thiết thân về quyền lợi và quyền lực như thế
đang liên quan trực tiếp đến các chủ đề hấp dẫn như Hiệp định đối tác
kinh tế xuyên Thái Bình Dương - TPP, cũng như lời hứa hẹn về “đối tác
chiến lược toàn diện” từ phía người Mỹ, trong đó trước mắt là một vài
động thái liên minh quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ để giảm thiểu tác
động rất tiêu cực từ Trung Quốc.
Hiển nhiên là giai đoạn đầu của xã hội dân sự đang diễn ra ở Việt Nam,
trong bối cảnh nhà nước này đang dần phải chấp nhận những giá trị phổ
quát về nhân sinh, nhân quyền và dân chủ của cộng đồng quốc tế. Đó cũng
là lý do để có thể cho rằng đã có những tín hiệu cho thấy một số quan
chức cao cấp nào đó của đảng và chính quyền, tuy chưa công khai biểu
hiện quan điểm vì lý do chưa muốn hoặc vẫn bị áp lực bởi “chủ nghĩa kinh
viện tập thể”, vẫn đang có xu hướng âm thầm “xoay trục” sang phương Tây
và dần chấp nhận đường hướng một mô hình xã hội dân sự nào đó trong
tương lai cho Việt Nam. Vào cuối năm 2013 và đầu năm 2014, đã có những
dấu hiệu từ giới truyền thông của đảng cho thấy vấn đề xã hội dân sự
đang bắt đầu được giới đảng quan tâm theo chiều hướng buộc phải thích
nghi với đòi hỏi của cộng đồng quốc tế.
Đó cũng là lý do để có thể cho rằng tỉ lệ thuận với khuynh hướng “xoay
trục” sang phương Tây, một nhận thức mới mẻ đang dần hình thành trong
não trạng của một số lãnh đạo cao cấp: trong tương lai gần, một lực
lượng trí thức có tính độc lập tương đối với hệ tư tưởng của đảng, có
thể là cần thiết được duy trì mà không bị sách nhiễu hoặc bắt bớ, với
mục đích tạo nên một ráng hồng dân chủ nào đó cho khuôn mặt của chế độ,
cũng là nhân tố có thể mang lại thiện cảm với các tổ chức và quốc gia
trên thế giới quan tâm đến vấn đề dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở
Việt Nam. Trong trường hợp cần thiết, lực lượng trí thức độc lập này
còn có thể là cầu nối trong - ngoài để một số quan chức cao cấp Việt Nam
dễ tiếp cận hơn với các tổ chức quốc tế. Nhưng tất nhiên, đó chỉ là
nhận thức và suy diễn chủ quan của giới quan chức đảng, trong khi phần
lớn tương lai của xã hội dân sự lại do chính giới trí thức Việt Nam tự
quyết.
III. Dự báo những diễn biến chủ lưu ở Việt Nam năm 2014:
Dự báo tổng quan, năm 2014 sẽ chứng kiến 5 diễn biến chủ lưu ở Việt Nam:
(1) 2014 là năm đầu tiên của một chu kỳ khủng hoảng ngân hàng, bắt đầu
từ sự đổ vỡ của vài ngân hàng hạng trung và có thể dẫn đến sụp đổ dây
chuyền trong ít nhất 50% số ngân hàng hiện hữu trong vài năm sau đó, dẫn
đến khủng hoảng gần như toàn bộ nền kinh tế. Chu kỳ khủng hoảng kinh tế
có thể lên đến cao điểm vào năm 2016 - 2017 và trở thành sóng nhấn cuối
cùng đối với con thuyền chính trị bươm rách. Đây là diễn biến quan yếu
nhất.
(2) Bất ổn xã hội và phản kháng dân chúng sẽ tăng cao về số lượng, quy
mô, tạo nên áp lực lớn đối với chính thể và nằm trong giai đoạn đầu của
một cuộc khủng hoảng xã hội trong những năm sau. Xu hướng này sẽ mau
chóng biến thành xu thế ở rất nhiều địa phương, liên quan đến đất đai,
môi trường, quan hệ giữa người dân và nhân viên công lực, nạn tham
nhũng… Sẽ xuất hiện nhiều hội nhóm độc lập của người dân như những tiền
đề của xã hội dân sự.
(3) Bước khởi động cho cuộc tranh đua chính trị chuẩn bị cho đại hội
đảng thứ 12, đặc biệt là vị trí tổng bí thư đảng và vai trò thủ tướng,
kể cả vấn đề “hậu chuyển tiếp” cho một mô hình chính trị mới.
(4) Xu hướng và lực lượng gần gũi với phương Tây sẽ rõ nét và chiếm ưu
thế hơn trong nội bộ đảng. Nếu thành công trong hai năm 2014 - 2015, xu
hướng này sẽ chuyển thành xu thế vào các năm 2016 - 2017 và có thể tạo
nên một sự thay đổi lớn về bản chất chế độ chính trị.
(5) Hoạt động dân chủ gia tăng đáng kể về số lượng hội nhóm, nhưng bị
hạn chế về nguồn nhân lực và thiếu tính trực tiếp với nhu cầu dân sinh
nên không thu hút được số đông quần chúng. Chỉ một bộ phận nhỏ trong số
các nhóm dân chủ hoạt động có tính thực chất và đạt được thành công ở
mức độ khiêm tốn.
Dưới đây là phần dự báo một số vận động cụ thể:
* Tình hình nhân quyền và những đối sách về nhân quyền của đảng và chính quyền:
Trong năm 2014, có khả năng Quốc hội sẽ được tác động ở mức độ nhất định
để ban hành Luật tiếp cận thông tin, Luật lập hội và có thể cả Luật
biểu tình. Cả ba đạo luật này đều mặc nhiên xuất phát từ nhu cầu và cũng
là xu thế đương nhiên của xã hội công dân, đồng thời là một trong những
điều kiện của khối phương Tây trong mối quan hệ thương mại đa phương
với Việt Nam.
Cũng nhằm thỏa mãn nhiều hơn yêu cầu của người dân và đòi hỏi của cộng
đồng quốc tế, giới chính khách trong nước nhiều khả năng sẽ thành lập cơ
quan nhân quyền quốc gia trong năm 2014. Việc hình thành cơ quan này là
một đối sách cho 14 điều cam kết của Nhà nước Việt Nam khi ứng cử Hội
đồng Nhân Quyền Liên hiệp quốc, trong đó có nội dung “Tiếp tục hoàn
thiện hệ thống pháp luật và tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, củng
cố các tổ chức quốc gia bảo vệ nhân quyền, trong đó có thể thành lập một
cơ quan nhân quyền quốc gia”.
Cơ quan nhân quyền quốc gia có thể tồn tại dưới hình thức Hội đồng nhân
quyền quốc gia hoặc như một ủy ban nhân quyền quốc gia trực thuộc chính
phủ, thay thế cho ban chỉ đạo nhân quyền quốc gia trước đây. Tuy nhiên,
vẫn chưa có nhiều dấu hiệu hứa hẹn cho việc cơ quan nhân quyền quốc gia
này sẽ nhận thức và hành động cân bằng giữa nhiệm vụ “phòng, chống các
thế lực lợi dụng nhân quyền” với việc quan tâm thực chất đến quyền con
người của dân chúng.
Một thỏa hiệp khác của Nhà nước Việt Nam với phương Tây là sẽ dần thừa
nhận vai trò và dần chấp nhận sự tồn tại và vận động của xã hội dân sự ở
Việt Nam, và thái độ này sẽ thể hiện rõ nét hơn trong năm 2014. Thỏa
hiệp này liên quan đến một trong 14 điều cam kết của Nhà nước Việt Nam
khi ứng cử Hội đồng Nhân Quyền Liên hiệp quốc là “Tăng cường nền tảng
dân chủ và sự tham gia của nhân dân vào sự lập kế hoạch và thực hiện các
chính sách, cải thiện việc Việt Nam tham gia trong các tổ chức chính
trị, xã hội trong lĩnh vực nhân quyền”.
Tình hình trên sẽ dẫn đến việc năm 2014 sẽ xuất hiện nhiều tổ chức dân
sự hơn năm 2013. Nếu chỉ xét đến các tổ chức dân sự theo đường hướng xã
hội - chính trị, số tổ chức hình thành trong năm 2014 có thể gấp đôi năm
2013. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại là một số trong đó hoạt động thiếu
tính thực chất.
Trong bối cảnh xã hội dân sự bắt đầu được thừa nhận, hoạt động truyền
thông xã hội (còn gọi là “lề trái”) sẽ được “hợp thức hóa” và sẽ gia
tăng về số lượng, trong khi cơ chế cản trở bằng bức tường lửa trên mạng
Internet sẽ giảm bớt.
Năm 2014 cũng có thể chứng kiến một số biểu hiện giao lưu, kết nối kín
đáo giữa báo chí “lề phải” với truyền thông “lề trái” về quan điểm và
mối tương tác trong một số vụ việc nhạy cảm của xã hội, kinh tế. Theo
đó, hiện tượng nhà báo, phóng viên “lề phải” trực tiếp hoặc gián tiếp
gia nhập hoạt động truyền thông “lề trái” sẽ gia tăng về số lượng, cung
cấp thêm cho “lề trái” một lực lượng nhỏ cây viết chuyên nghiệp. Hiện
tượng này sẽ diễn ra bất chấp sự ngăn cản và cấm đoán của hệ thống tuyên
giáo đảng.
Tình hình trên cũng có thể dẫn đến chủ trương chính quyền tạm thời không
thi hành biện pháp bắt bớ giới bất đồng chính kiến, nhưng thay vào đó
sẽ tiếp tục tăng cường hành động gây khó khăn cản trở, sách nhiễu đối
với giới này. Đặc biệt tại một số địa phương, những nhóm dân chủ hoạt
động công khai ngoài đường phố sẽ có thể hứng chịu hình ảnh “đấm đá nhân
quyền” hoặc những hành vi dưới tầm mức văn hóa của nhân viên công lực.
Xu thế chính trị đối ngoại lẫn đối nội cũng tạo điều kiện cho sự xuất
hiện đảng chính trị độc lập và còn có thể xuất hiện đảng chính trị đối
lập trong dân chúng, tuy chỉ với quy mô nhỏ.
* Khuynh hướng và động thái ngả về phương Tây trong chính giới Việt Nam:
Với những dấu hiệu manh nha từ năm 2013, xu hướng nhóm chính khách mang
quan điểm gần gũi hơn với phương Tây sẽ nổi lên rõ hơn vào năm 2014, dần
trở nên cân bằng và có thể còn có phần lấn ảnh hưởng của nhóm chính
khách “thân Trung Quốc” ở Hà Nội và tại một số tỉnh thành. Biểu hiện sớm
nhất và rõ nhất của sự đối chọi giữa hai xu hướng này là mối giao kết
về hợp tác hải quân Việt - Mỹ sẽ gia tăng, trong khi Trung Quốc sẽ lại
xúc tiến gây hấn tại biển Đông vào một số thời điểm, trùng với thời gian
mà mối quan hệ Việt Nam - phương Tây trở nên “nồng ấm” hơn.
Xu hướng ly khai dần khỏi tâm điểm Bắc Kinh cũng liên quan mật thiết đến
chính sách nhập khẩu nguyên, phụ liệu của Việt Nam từ Trung Quốc. Để có
thể tham gia đầy đủ vào TPP và được miễn thuế xuất khẩu hàng hóa, Việt
Nam phải đáp ứng yêu cầu là hàng hóa đó phải có xuất xứ từ các nước nội
khối TPP, trong khi Trung Quốc vẫn chưa phải là thành viên TPP. Do đó,
Chính phủ Việt Nam có thể phải tìm nhiều cách để giảm bớt cơ cấu nhập
khẩu nguyên, phụ liệu từ Trung Quốc và chuyển đổi vùng nhập khẩu sang
các quốc gia khác. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ đầy thách thức vì
trước đó có đến 80-90% nguyên phụ liệu phụ thuộc vào Trung Quốc, và bởi
sức ép về chính trị và kinh tế của Trung Quốc đối với Việt Nam là liên
tục và sẵn sàng căng thẳng.
Tuy nhiên, với “quyết tâm” tìm phao cứu sinh từ ngoại viện phương Tây,
Việt Nam sẽ được chấp thuận tham gia vào TPP trong năm 2014, thậm chí
khả năng này có thể xảy ra ngay trong nửa đầu năm 2014. Tuy nhiên, tính
hiệu quả của TPP là không thể tức thời, khi thời hiệu áp dụng sớm nhất
của hiệp định này là giữa năm 2015 hoặc đầu năm 2016.
Để được chính thức chấp thuận tham gia vào TPP, Nhà nước Việt Nam sẽ
chấp nhận một số điều kiện của phương Tây về cho phép hình thành nghiệp
đoàn lao động, lập hội và cải cách doanh nghiệp nhà nước (liên quan đến
cơ chế giảm dần và tiến đến xóa độc quyền của một số doanh nghiệp như
điện lực, xăng dầu…).
* Cuối 2014: khởi đầu khủng hoảng kinh tế:
Một sự thật không thể chối bỏ là cho dù được chấp thuận bởi TPP, nền
kinh tế Việt Nam vẫn quá khó trong năm 2014. Rất nhiều khả năng nền kinh
tế này sẽ vận động ngang trong năm 2014 chứ không thể tăng tốc được, và
cũng chưa có dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy sẽ “thoát đáy”.
Với những dấu hiệu khá rõ ràng về tình trạng đóng băng bất động sản, nợ
xấu, thực trạng khan hiếm tiền mặt, tình trạng bi đát của hệ thống ngân
hàng thương mại vào cuối năm 2013, nhiều khả năng hệ thống ngân hàng bắt
đầu bước chân và giai đoạn đổ vỡ vào nửa cuối năm 2014. Khi đó nền kinh
tế cũng bắt đầu thời kỳ đầu tiên lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, khi
trước đó đã có 7 năm suy thoái.
* Bất ổn và phản kháng: giai đoạn đầu của khủng hoảng xã hội:
Kinh tế tiếp tục suy thoái và bắt đầu bước chân vào khủng hoảng là mảnh
đất phì nhiêu cho các mầm mống bất ổn xã hội. Nếu trong năm 2013, bất ổn
đã sinh ra từ nhiều phản ứng và phản kháng của dân chúng đối với chính
quyền, thì đến năm 2014, số lượng và quy mô phản kháng chắc chắn sẽ tăng
cao hơn.
Phản kháng dân chúng sẽ tập trung vào lĩnh vực đất đai, môi trường, điều
kiện lao động, giá cả. Số cuộc và số người dân tuần hành, biểu tình sẽ
gia tăng so với năm 2013.
Hiện tượng chống nhân viên công lực và hiện tượng “tự xử” của người dân
cũng sẽ gia tăng nhanh chóng tại nhiều địa phương và ngay tại Hà Nội.
Hầu hết hiện tượng như vậy đều diễn biến theo chiều hướng tự phát và
thiếu kiểm soát. Trong một số trường hợp gặp phải tác động tiêu cực từ
phía cơ quan công quyền, phản ứng tự phát của người dân có thể biến
thành bạo động cục bộ và quy mô nhỏ.
Vào cuối năm 2014, trong khung cảnh có thể khởi đầu khủng hoảng kinh tế,
quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ lương hưu cũng có thể bắt đầu lâm vào tình
trạng nguy hiểm. Cùng với làn sóng thoái - bỏ đảng phát sinh vào thời
điểm này, có thể phát sinh những phản ứng mạnh mẽ đầu tiên của tầng lớp
hưu trí, làm tiền đề cho xu thế bỏ đảng trong giới hưu trí và cả một bộ
phận thuộc giới đảng viên đương chức trong những năm sau.
IV. Hành động của xã hội dân sự:
* Làm thế nào để các phong trào dân sự có thể được xây dựng nhanh chóng và lan tỏa được ở Việt Nam?
Một số đánh giá mang tính ước đoán cho biết hiện thời có ba nhóm quan
điểm chính trị chủ yếu ở Việt Nam. Nhóm thứ nhất gồm khoảng 30% trí thức
trong đảng và nhà nước, bao gồm cả quan chức, được xem là nhóm “trung
thành” và có quyền lợi thiết thân với chức vụ và các đặc quyền trong hệ
thống. Ngược lại với nhóm thứ nhất, nhóm thứ hai có khoảng 20% trí thức
trong các cơ quan nhà nước, không phải đảng viên hoặc vẫn là đảng viên,
nhưng có tư tưởng cấp tiến, muốn thay đổi, song chưa có điều kiện để thể
hiện quan điểm và hành động của họ. Nằm giữa hai khuynh hướng vừa đề
cập là nhóm thứ ba với khoảng 50% trí thức trong đảng và nhà nước -
những người không gắn bó đặc biệt với quyền lợi và chức vụ, mang quan
điểm trung dung.
Cũng có những đánh giá cho rằng một xã hội dân sự được tổ chức tốt sẽ có
thể thu hút đến ít nhất phân nửa số trí thức đang làm việc cho hệ thống
của đảng và nhà nước.
Muốn xã hội dân sự được rút ngắn cung đường khởi động, yếu tố đoàn kết
phải là con ngươi của phong trào phản biện, phong trào dân sự và do đó
của xã hội dân sự trong tương lai ở Việt Nam. Tình trạng xa cách giữa
nhóm trí thức phản biện độc lập với các trí thức trong đảng và hệ thống
nhà nước như hiện thời là yếu huyệt nguy hiểm nhất trên con đường cải
hóa các mục tiêu xã hội và chính trị, gây loãng tác động điều chỉnh
chính sách và càng làm cho đời sống dân tình trở nên khốn khó, bức bách
hơn.
Bức bách thách đố đối với những người hoạt động dân chủ ở Việt Nam lại
là phải tạo ra được bầu không khí tranh luận thật sự dân chủ trong đa
nguyên tư tưởng, gạt sang một bên những đố kỵ, tị hiềm, ganh ghét hoặc
nói xấu lẫn nhau - những biểu hiện vẫn luôn bị coi là một thói xấu trong
lịch sử văn hóa của người Việt.
* Những mục tiêu cụ thể của các phong trào dân sự:
Trong giai đoạn đầu của xã hội dân sự, một số hành động cần được ưu tiên triển khai là:
Nhóm hành động chính trị - xã hội: lên tiếng bảo vệ chủ quyền biển đảo,
hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế và chính trị Việt Nam vào Trung
Quốc; phản biện chống tham nhũng và các nhóm lợi ích, nhóm thân hữu;
thúc đẩy Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng
cầu dân ý; thúc đẩy tiếng nói của trí thức độc lập tại Quốc hội; thúc
đẩy tính hợp hiến và hợp pháp hóa của quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí và tự do tôn giáo; phản biện đối với các điều luật chính trị hóa
hành vi phản phản biện như điều 79, 87, 88, 258 trong Bộ luật hình sự;
phản biện đối với điều kiện giam giữ phạm nhân trong các trại giam; hỗ
trợ tinh thần và vật chất cho các gia đình có người bị giam giữ, liên
quan đến yếu tố chính trị…
Nhóm hành động kinh tế - xã hội: bảo vệ quyền lợi của nông dân trước
hành vi trưng thu đất đai bất hợp pháp và vô lối; phản biện đối với chủ
đề sở hữu trong Luật đất đai và cơ chế thu hồi đất đối với các dự án
kinh tế - xã hội; bảo vệ quyền lợi của công nhân và thị dân về điều kiện
làm việc và an sinh xã hội; đấu tranh chống tác động tiêu cực của một
số doanh nghiệp đối với môi trường tự nhiên…
Thái độ lên tiếng của phong trào dân sự cũng không thể bỏ qua việc phản
biện đối với một số vấn đề kinh tế gay gắt như nợ công quốc gia; nợ và
nợ xấu; tính độc quyền của kinh tế quốc doanh và một số tập đoàn; ngân
hàng; các thị trường đầu cơ như vàng, bất động sản; những ngành có liên
quan mật thiết đến người tiêu dùng như điện, xăng dầu, nước…
Và để tự nâng mình lên, các phong trào dân sự cũng phải phản biện với
chính những tiếng nói phản biện thiếu tinh thần xây dựng và đoàn kết
trong giới hoạt động dân chủ ở Việt Nam và hải ngoại.
Trước mắt hoạt động của phong trào dân sự cần nhích thêm một bước: không
chỉ là diễn đàn trên mạng, mà phải hình thành các nhóm công khai trong
đời sống theo phương châm ôn hòa, bất bạo động.
Ngay từ bây giờ, đang rất cần đến một sự kết nối có tính thành tâm, hữu
dụng và bài bản giữa các nhóm trí thức phản biện độc lập, trí thức trong
đảng với các nhóm dân sự tiêu biểu của nông dân, công nhân, tiểu
thương, sinh viên, tín đồ tôn giáo trong nước, cùng khối trí thức và
kiều bào Việt Nam ở nước ngoài.
V. Những đề nghị với các NGO quốc tế:
Dân sinh và môi trường luôn là những tiêu chí đấu tranh rất quan trọng
của phong trào dân sự trên thế giới. Ở nhiều quốc gia, đặc biệt những
quốc gia phát triển, những tổ chức phi chính phủ như Hòa Bình Xanh, Chữ
Thập Đỏ, DANIDA… đã xây dựng được vai trò và sự ảnh hưởng lớn lao đối
với việc cải thiện các vấn đề môi trường và xã hội.
Bài học kinh nghiệm mà nhiều tổ chức phi chính phủ hàng đầu trên thế
giới đã tích lũy được và đưa vào chiến lược hành động của họ là không
thể thụ động trông chờ thái độ cải hóa và sự cải tiến tự thân của các
cấp chính quyền, mà phải tạo được hành động tác động đối với chính quyền
nhằm thay đổi về chính sách và những vấn đề liên quan. Đường lối hành
động này trong thực tế đã trở nên hiệu quả hơn hẳn ở nhiều quốc gia châu
Á như Bangladesh, Ấn Độ, Myanmar và Campuchia, hay gần đây là cáo buộc
của tổ chức phi chính phủ Global Witness đối với Tập đoàn Hoàng Anh Gia
Lai ở Việt Nam…
Sứ mệnh của các NGO tại các quốc gia phát triển (còn gọi là NGO phương
Bắc) không chỉ là cung cấp viện trợ và “cần câu” cho các NGO ở các quốc
gia đang và kém phát triển (còn gọi là NGO phương Nam), mà luôn cần được
ưu tiên về hoạt động truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm về công tác tổ
chức, đào tạo và thực hiện dự án, đặc biệt là kinh nghiệm làm thế nào
để tạo tác động có hiệu quả đối với các chính sách bất hợp lý, bất công
của chính quyền sở tại, nhằm cuối cùng điều chỉnh hoặc xóa bỏ những
chính sách đó để bảo vệ quyền lợi người dân và các đối tượng dân chúng
chịu rủi ro, mang lại công bằng hơn cho xã hội.
Con số 15-20 tổ chức dân sự độc lập ở Việt Nam là không thể so sánh với 2
triệu NGO đăng ký hoạt động tự do ở Hoa Kỳ. Những gì mà tiền đề xã hội
dân sự ở Việt Nam đang biểu hiện cũng trở nên quá ít ỏi so với các xã
hội dân sự trưởng thành ở Bắc Âu. Đó chính là lý do mà một xã hội dân sự
tương lai của Việt Nam cần dựa vào kinh nghiệm và đường lối của các
mạng lưới xã hội dân sự phát triển trên thế giới, nhằm mục tiêu tự xác
lập thái độ và cách thức hành xử hợp lý đối với các chế độ chính trị ở
Việt Nam - hiện hữu và trong nhiều năm tới.
Từ nhu cầu cấp thiết trên, tham luận này xin nêu ra một đề nghị ban đầu
với các NGO quốc tế - những người có mặt trong phòng họp ngày hôm nay và
những NGO đang muốn tìm kiếm một nối kết nhiệt thành và hiệu quả với xã
hội dân sự ở Việt Nam. Theo đó, cần thành lập mạng lưới NGO quốc tế và
NGO Việt Nam. Mạng lưới này nhằm tiến hành một số hoạt động như:
- Tổ chức nghiên cứu các dự án xã hội, thể chế. Trước mắt cần tổ chức
nghiên cứu đề tài về xã hội dân sự ở Việt Nam để chuẩn bị cho tương lai.
- Tổ chức truyền thông: đào tạo người viết và cách thức làm báo.
- Can thiệp, tác động các vấn đề về nhân quyền. Trước mắt, cần can
thiệp, tác động về chủ đề đất đai, môi trường, nghiệp đoàn lao động, cải
thiện chế độ lao tù. Cần thí điểm một số trường hợp cụ thể tại một số
địa phương.
- Tổ chức đào tạo diễn giả, thông tín viên để chuyển tải thông tin từ trong nước ra quốc tế.
Về lâu dài, xã hội dân sự và các mạng lưới các NGO ở Việt Nam cần xây
dựng một chiến lược mang tính thống nhất về phương châm, mục tiêu, tổ
chức, lĩnh vực hoạt động, khu vực hoạt động để hoàn thiện vai trò của
mình.
Kết
Hãy hành động, hành động và hành động! Vì dân sinh, dân quyền, dân chủ
và dân trí! Thay đổi của xã hội cũng là hệ quả cho phản biện và cơ hội
cho dân chủ cùng xã hội dân sự ở Việt Nam.
Phải thay đổi về não trạng của chính quyền và nhận thức của người dân để
có thể cống hiến cho xã hội nhiều hơn nữa. Phong trào dân sự và những
điều kiện cho một xã hội dân sự ở Việt Nam đang nằm trong xu thế và lộ
trình khởi động trong 3-4 năm tới. Và nếu được tổ chức tốt, xã hội dân
sự hoàn toàn có thể góp sức cho xã hội về những triển vọng lạc quan
trong tương lai dài hạn của dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét