Luật sư Ngô Ngọc Trai
Bài tham gia Diễn đàn BBC Tiếng Việt
Sáng
ngày 21/2/2014 Ủy ban thường vụ Quốc hội họp theo định kỳ, có thông tin
đưa ra là Quốc hội sẽ dừng việc lấy phiếu tín nhiệm trong kỳ họp sắp
tới.
Một số ý kiến thắc
mắc là việc lấy phiếu tín nhiệm thực hiện từ một nghị quyết của Quốc hội
thì dừng hay không phải do Quốc hội quyết định, chứ khi Quốc hội chưa
họp và chưa quyết thì làm sao đã nói là dừng?
Thắc
mắc đó là đúng và nó cho thấy rõ một điều: Quốc hội Việt Nam chỉ là cơ
quan thừa hành của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản.
Liên quan đến việc hình thành, triển khai
và giờ là hoãn dừng thực hiện Nghị quyết số 35/2012/QH13 của Quốc hội về
việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm, đây là một sự việc cụ
thể, nhưng nhìn rộng ra đó là ví dụ điển hình cho thấy tình trạng chính
sách kém chất lượng, gây tổn hại vô cùng cho đất nước.
'Tín nhiệm thấp'
Nghị
quyết 35 có điểm vô lý là ở hoạt động lấy phiếu tín nhiệm có tới 3 mức
đánh giá là tín nhiệm thấp, tín nhiệm và tín nhiệm cao.
Trong
khi đánh giá tín nhiệm là đánh giá về hoạt động, chủ thể bị lấy phiếu
tín nhiệm là những người thực thi công vụ, khi đó hoặc là anh có làm
việc và làm tốt, hoặc là anh không làm việc hay làm việc nhưng không đạt
kết quả tốt. Từ đó mà chỉ có hai mức đánh giá là tín nhiệm và không tín
nhiệm.
Đánh giá tín nhiệm là một loại hình phán
xét về hành vi, giống như phán quyết của tòa án về hành vi của bị cáo,
khi đó chỉ có thể quyết định là có tội hoặc không có tội, chỉ một trong
hai loại thôi chứ không được nửa vời.
Việc "lấy phiếu tín nhiệm" theo Nghị quyết 35 của Quốc hội được thực hiện trong năm 2013
Như thế rõ ràng là bất hợp lý khi để ba mức đánh giá như hiện tại.
Ngoài
ra Nghị quyết 35 còn có điểm bất hợp lý là có tới hai hoạt động đánh
giá tín nhiệm là “lấy phiếu tín nhiệm” và “bỏ phiếu tín nhiệm”.
Theo
đó, để loại bỏ được một cán bộ yếu kém năng lực thì phải qua hai bước
đánh giá với điều kiện, tiêu chuẩn và thủ tục khác nhau.
Sau
lấy phiếu tín nhiệm rồi lại phải bỏ phiếu tín nhiệm. Điều này gây mất
thời gian và làm lợi cho người được đánh giá bởi vì họ sẽ có thời gian
và cơ hội để “chạy chữa”. Điều đó sẽ không thể xảy ra khi việc đánh giá
được thực hiện bằng chỉ một thủ tục ngắn gọn rõ ràng và minh bạch.
Học hỏi không đến nơi đến chốn
Hoạt
động đánh giá tín nhiệm đối với thành viên Chính phủ bộc lộ mối tương
quan trách nhiệm giữa hai cơ quan Quốc hội và Chính phủ.
Đây
là việc làm đúng đắn để dân kiểm soát chính quyền mà các nước dân chủ
tiến bộ đã thực hiện từ lâu. Với bề dày kinh nghiệm các nước đã cho ra
đời cách thức đánh giá tín nhiệm mà chúng ta tuy chưa tận mắt chứng kiến
nhưng cũng có thể tin là khoa học và hiệu quả.
Vậy
tại sao Việt Nam đi sau học hỏi và áp dụng mà sao lại kém thế, để đến
nỗi chính sách ban hành sau duy nhất một lần thực hiện đã phải dừng lại
thay đổi? Tuổi thọ của chính sách kém thế sao? Chất lượng của chính sách
yếu kém thế sao?
Hay phải chăng có những lực
cản ngay từ trong khâu ban hành chính sách khiến cho chính sách có chất
lượng thấp và khi thực thi không đem lại hiệu quả?
Ở
nhiều nước, hoạt động đánh giá tín nhiệm chỉ áp dụng đối với thành viên
Chính phủ do Quốc hội bầu; cán bộ Chính phủ không được đồng thời là đại
biểu Quốc hội và khi đánh giá họ không được quyền biểu quyết.
Ở Việt Nam, cán bộ Chính phủ chiếm số lượng lớn ở cả Quốc hội, Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương.
Vì chiếm nhiều vị trí nên đương nhiên những người này có ảnh hưởng chi phối tới các quyết sách của cả bên Đảng lẫn Quốc hội.
Mặc
dù không rõ thực tế thế nào nhưng có thể hình dung là trong cuộc họp
bàn cho ra đời chính sách về lấy phiếu tín nhiệm, thành viên bên Chính
phủ đã không đồng ý, quan điểm của họ sẽ là cứ giữ nguyên như lâu nay
không đánh giá gì hết.
"Ở
nhiều nước, hoạt động đánh giá tín nhiệm chỉ áp dụng đối với thành viên
Chính phủ do Quốc hội bầu; cán bộ Chính phủ không được đồng thời là đại
biểu Quốc hội và khi đánh giá họ không được quyền biểu quyết."
Luật sư Ngô Ngọc Trai
Hoặc
nếu bị ép quá về việc phải có chính sách về đánh giá tín nhiệm thì họ
sẽ gây áp lực để việc đánh giá thì đánh giá “cả làng”, không chỉ thành
viên Chính phủ mà đánh giá cả cán bộ thuộc Quốc hội và cán bộ tư pháp,
tất cả đều đánh giá về chính mình và về người thuộc khối cơ quan mình.
Cũng
không loại trừ các thành viên Chính phủ đã tác động ảnh hưởng khiến cho
chính sách ra đời nhưng quy định chẳng đâu vào đâu, để tới ba mức đánh
giá và qua hai khâu đánh giá mới cho ra kết quả.
Đó
là tác hại của việc để cho những người của cơ quan hành pháp chịu sự
đánh giá được tham gia vào việc quyết định xem có đánh giá hay không và
đánh giá như thế nào?
Đó cũng chính là câu trả lời cho tình trạng chất lượng kém của các chính sách và là nguyên nhân khiến đất nước chậm phát triển.
Quyền chi tiêu ngân sách?
Một
điều thực tế ở Việt Nam xuất phát từ tình trạng kiêm nhiệm nên Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương và Quốc hội đều trao quyền quá lớn cho
Chính phủ.
Các cơ quan lãnh đạo chỉ giao những
mục tiêu nhiệm vụ chung chung trong những nghị quyết, Chính phủ được
trao quyền rộng rãi khi thực hiện.
Điều đó dẫn
đến kết quả là Chính phủ vừa ban hành chính sách vừa thực thi chính
sách, Chính phủ được quyết định phân bổ và sử dụng nguồn lực đất nước.
Tại
sao Chính phủ lại được quyền quyết định dành tiền chi tiêu cho việc này
mà không phải việc khác? Chính phủ lấy tư cách nào để đánh giá tính
chính đáng và cấp thiết trong việc giải quyết những vấn đề của các nhóm
cộng đồng dân cư?
Căn cứ vào đâu Chính phủ cho
rằng việc dành nguồn lực tài chính để cứu trợ thị trường bất động sản,
thu mua nợ xấu ngân hàng là cấp thiết hơn việc đầu tư cung cấp nước sạch
cho hàng chục triệu dân nông thôn hay cải thiện nơi ăn chỗ ở cho hàng
chục triệu công nhân công nghiệp?
Ở các nước khác họ làm thế nào?
Xuất
phát từ yêu cầu về sự công bằng, ở nhiều quốc gia họ quy định chỉ Quốc
hội là cơ quan đại diện cho mọi tầng lớp dân chúng mới có tính chính
đáng khi xác quyết thứ tự các vấn đề cần ưu tiên cần giải quyết và theo
đó là phân bổ nguồn lực đất nước.
Hiến pháp mọi
nước đều quy định tinh thần chung là Quốc hội mới là cơ quan quyết định
về ngân sách quốc gia chứ không phải Chính phủ.
Hiến
pháp Nhật Bản theo đó đã sử dụng câu chữ khiến cho việc hiểu không thể
nào lệch lạc đi được khi viết rằng: Không một khoản tiền nào được chi
cho dù Chính phủ có yêu cầu trừ khi được Quốc hội cho phép.
"Thực tế hiện tại cả Ngân hàng Nhà nước và Kho bạc Nhà nước đều nằm dưới sự quản lý điều hành của Chính phủ."
Nước
Mỹ năm vừa rồi có sự kiện là Chính phủ Mỹ đã đóng cửa dừng hoạt động mà
nguyên nhân chính là Quốc hội Mỹ đã không đồng ý cấp khoản chi ngân
sách cho một đề án theo yêu cầu của Chính phủ.
Chính
phủ Mỹ đã không được tự ý chi tiêu ngân sách. Để thuyết phục Quốc hội
đồng ý cho đề án của mình, Chính phủ Mỹ đã phải thuyết phục bằng hàng
loạt lý do chính đáng và trong nỗ lực cuối cùng đã phải làm một việc
kinh khủng là đóng cửa dừng hoạt động để gây áp lực đòi hỏi Quốc hội
phải thông qua.
Kỷ luật ngân sách là yếu tố then
chốt để có được những quyết định chi tiêu đúng đắn. Trong khi đó ở Việt
Nam không có gì ngăn trở Chính phủ chi tiêu ngân sách. Thực tế hiện tại
cả Ngân hàng Nhà nước và Kho bạc Nhà nước đều nằm dưới sự quản lý điều
hành của Chính phủ.
Kiểm soát Chính phủ
Nếu
như đề xuất chi tiêu của Chính phủ là chính đáng hợp lý thì tại sao lại
không thể đưa ra Quốc hội bàn luận để việc thực thi đạt hiệu quả cao
nhất? Ví dụ như gói cứu trợ bất động sản 30 nghìn tỷ mà có thông tin tới
đây có gói 100 nghìn tỷ?
Quốc hội bận gì mà không bàn luận những vấn đề đó? Chính phủ vội gì khi Quốc hội một năm hai lần họp vào giữa và cuối năm?
Tại
sao một chính sách lớn như thế mà Chính phủ thì vội vàng, Quốc hội thì
thờ ơ để đến nỗi gói cứu trợ bất động sản thực hiện èo uột mà như nhiều
người đánh giá là đã thất bại?
Trong khi đó Chính phủ vẫn chỉ đạo triển khai và mỗi lúc lại nới rộng thêm những tiêu chí mới để có thể giải ngân?
Nếu
hiệu quả của chính sách là mục tiêu tối cao thì tại sao lúc đầu không
đưa ra được các tiêu chí này, tầm nhìn hạn chế quá chăng?
Tại sao không đưa ra Quốc hội bàn luận để tổng hợp trí tuệ tập thể?
Cũng
phải hỏi lại là Quốc hội có đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân không? Nếu có thì Quốc hội chịu trách nhiệm thế nào về sự thành công
hay thất bại của gói cứu trợ bất động sản?
Biết
bao nhiêu vấn đề đời sống dân sinh cần được giải quyết, Quốc hội có
phản ánh ý chí nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động
khác không?
Nếu có thì ai đại diện cho những nữ
công nhân công nghiệp làm việc đầu tắt mặt tối mà cân nặng chưa tới
45kg? Ai đại diện cho những cặp vợ chồng công nhân có con nhỏ chỉ vài
tháng tuổi đã phải gửi đi nhà trẻ để bố mẹ đi làm? Tại sao họ vốn tính
chăm chỉ mà mãi sống cuộc đời nhọc nhằn trong những khu xóm trọ tồi tàn
như vậy?
Đại biểu nào đại diện cho các bậc phụ
huynh và các em học sinh vùng núi khi mỗi lần đến trường là sự đánh đổi
nguy hiểm đến tính mạng vì sông lũ?
"Các
cơ quan lãnh đạo như Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quốc hội cần xem
xét lại tính hợp lý trong tổ chức và hoạt động của mình."
Đại
biểu nào đại diện cho các công chức viên chức với mức lương không đủ
cho sinh hoạt để rồi phải đánh đổi nhân phẩm bằng những việc làm trái
lương tâm? Ai đẩy họ đến nông nỗi ấy? Tại sao họ lại không thể có được
một mức lương đủ sống để không phải mất đi nhân phẩm?
Tất
cả là do các chính sách phát triển kinh tế xã hội và vấn đề về chất
lượng của nó, đằng sau đó là vấn đề về sự bố trí hợp lý các thiết chế và
sự vận hành khoa học của hệ thống. Các đại biểu có nhận ra điều đó
không và làm gì để thúc đẩy điều đó?
Tinh hoa
nhân loại đã đúc kết ra hệ thống tam quyền phân lập, tách bạch nhân sự
giữa cơ quan làm chính sách và cơ quan thực thi chính sách, tách bạch
nhân sự giữa Quốc hội và Chính phủ.
Ở Việt Nam
lâu nay duy trì tình trạng kiêm nhiệm bất hợp lý, khi bộ máy vận hành
không khoa học thì sản phẩm ra đời của nó là các chính sách sẽ bị lỗi.
Các
cơ quan lãnh đạo như Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quốc hội cần xem
xét lại tính hợp lý trong tổ chức và hoạt động của mình.
Nếu
không thay đổi rập khuôn ngay mô hình nước ngoài thì cũng phải thay đổi
sao cho tiệm cận với các thiết chế dân chủ để tạo động lực cho đất nước
phát triển. Như thế mới là vì nước vì dân.
Trước
mắt có thể làm ngay là giảm mạnh tình trạng kiêm nhiệm do Luật tổ chức
Quốc hội đang được xem xét sửa đổi và kiểm soát việc chi tiêu ngân sách
của Chính phủ do Luật đầu tư công đang được trình Quốc hội thông qua
(tại sao một hoạt động như đầu tư công được thực hiện từ mấy chục năm
nay, bây giờ mới cho ra đời luật về nó?).
Tăng
cường đòi hỏi Chính phủ giải trình về các quyết sách, tăng cường hoạt
động đánh giá tín nhiệm tạo áp lực loại bỏ chính là cách đốc thúc Chính
phủ làm tốt công việc của mình. Khiến cho Chính phủ không dễ dàng trong
hoạt động chính là cách khiến cho Chính phủ hoạt động tốt hơn.
Có như thế mới có hy vọng đất nước phát triển lên được.
N. N. T.
Nguồn: bbc.co.uk
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét