Nguyễn Trung Chính
Hội đồng Lý luận Trung
ương là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư về các vấn đề lý luận chính trị. Hội đồng này có 7 chủ tịch, phó
chủ tịch và 32 thành viên, tất cả có bằng Tiến sĩ. Phần lớn các bằng
tiến sĩ này có lẽ do Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh (trước kia gọi là trường đảng Nguyễn Ái Quốc) cấp, bằng tiến sĩ của
TBT Nguyễn Phú Trọng là một thí dụ. Ngoài ra Hội đồng này còn có 16
viện, tiêu tốn một tài sản lớn của nhân dân hàng năm.
Điều mà tôi không biết là trường này có
thuộc hệ thống Bộ Giáo dục và Đào tạo, là nơi có thẩm quyền cấp phát văn
bằng hay không. Hay vì Đảng lãnh đạo nên Đảng có quyền phân phát cái gì
tùy ý, chẳng hạn như chức Giáo sư, Phó Giáo sư….
Vừa qua GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Phó Chủ
tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, có hai bài viết được một số người
phản biện do vị trí hàng đầu của ông trong Hội đồng này. Bài “Phân biệt quan điểm sai trái và ý kiến khác với quan điểm của Đảng” (*) được Thông tấn xã VN và Tạp chí Cộng sản điện tử phổ biến ngày 12.12.2013, DĐXHDS đăng lại và bài tham luận “Tám đặc trưng Chủ nghĩa Xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng” tại phiên họp sáng 14/1/2011 Đại hội XI của Đảng, mà Thông tấn xã VN/Vietnam+ đăng lại ngày 16/12/2013.
Do thuộc về quan điểm lý luận nên tôi
không đề cập đến cá nhân tác giả mà chỉ dựa trên hai bài viết nói trên
để nhận định tình hình của đảng tiến hay lùi và những gì gọi là “Tám đặc
trưng…” có phải là đặc trưng, đặc sản thật hay là cóc ngồi đáy giếng.
Từ cán bộ, đảng viên tâm huyết đến… các thế lực thù địch, cơ hội chính trị
Bài “Phân biệt quan điểm sai trái và ý kiến khác với quan điểm của Đảng” phân biệt hai loại người: (những dòng in nghiêng dưới đây là bút tích của GS.TS. Lê Hữu Nghĩa).
1- Loại người có “trình độ nhận thức hạn chế…“.
Họ là ”những cán bộ, đảng
viên có ý kiến khác với đường lối của Đảng có thể do trình độ nhận thức
hạn chế, do phương pháp tư duy giản đơn, không biện chứng, do ngộ nhận
hoặc chịu ảnh hưởng nhất định của những quan điểm sai trái chứ không
phải là thế lực thù địch.
Do địa vị xã hội, lợi ích cụ thể khác nhau, trình độ học vấn, trình độ
lý luận chính trị khác nhau, kinh nghiệm thực tiễn khác nhau hoặc do
thiếu thông tin, phương pháp tư duy giản đơn, siêu hình, nên không tránh
khỏi có những ý kiến, cách tiếp cận khác với đường lối, quan điểm của
Đảng”.
- Họ phải “Là cán bộ, đảng viên, nếu
có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm của Đảng có thể phản
ánh lên cấp trên, cấp có thẩm quyền, có quyền bảo lưu ý kiến, hoặc trình
bày, thảo luận trong các hội thảo khoa học, hội nghị nội bộ chứ không
được tùy tiện phát tán trên các phương tiện thông tin đại chúng; đảng
viên phải chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Chấp hành Trung
ương về những điều đảng viên không được làm.”
2- Loại người thứ hai là những người thuộc thế lực thù địch, cơ hội chính trị vì “đả kích vào Đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đả kích vào chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, lái đất nước đi vào con đường tư bản chủ nghĩa”
Trong loại này có mặt những người “trước kia là cán bộ, đảng viên song bây giờ họ đã chuyển sang “trận tuyến bên kia,” họ đã sám hối, trở cờ, trở thành thế lực thù địch.”
Dựa trên những định nghĩa của GS.TS. Lê
Hữu Nghĩa, chúng ta thử điểm lại một số nhân vật có tiếng xem họ thuộc
vào thành phần nào.
1- Nguyễn Văn An, nguyên ủy viên Bộ chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội.
Tháng 05/2011 và tháng 02/2013 Ông Nguyễn Văn An đã “tùy tiện phát tán trên các phương tiện thông tin đại chúng”
(Báo Tuần Việt Nam) những bài “Nguyên Chủ tịch Quốc hội bàn về phương
thức cầm quyền của Đảng”, “Ba vấn đề cốt lõi khi sửa Hiến pháp“, “Bàn chuyện sửa Hiến pháp” trong đó ông phản bác:
”Nếu Đảng làm thay, quyết thay thì Nhà nước và dân sẽ trở thành hình thức, hữu danh vô thực, người ta sẽ có cảm giác Đảng là vua. Không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là vua tập thể thời CH XHCN”. “Dân làm chủ thì dân phải quyết, quyết trực tiếp và quyết gián tiếp thông qua cơ quan đại diện. Song về bản chất là dân quyết chứ không phải vua quyết, cũng không phải đảng quyết.”. “Quốc hội vừa lập hiến, vừa lập pháp, người ta gọi như thế là vừa đá bóng, vừa thổi còi.“
Ông Nguyễn Văn An đã “đả kích vào Đảng, đả kích vào chế độ xã hội chủ nghĩa” và đăng trên “phương tiện thông tin đại chúng;” không “chấp hành Điều lệ Đảng và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương về những điều đảng viên không được làm.”.
Nếu vậy theo Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương thì ông Nguyễn
Văn An thuộc loại “thế lực thù địch”, “cơ hội chính trị”. Có gia giảm
lắm thì ông An cũng thuộc vào loại có “trình độ nhận thức hạn chế…“.
2 – Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh với
hơn 30 bài viết trong đó phần lớn phản bác đường lối Đảng trong việc giữ
gìn biển đảo, về vấn đề ruộng đất…
Những phản bác của Thiếu tướng không
được báo “lề đảng” nào đăng, Thiếu tướng phải gửi cho trang mạng Bauxite
VN, nhờ đó mà mọi người đều biết và hâm mộ Thiếu tướng. Phó Chủ tịch
Hội đồng Lý luận Trung ương liệt Thiếu tướng vào loại nào? “lực lượng thù địch“, “Cơ hội chính trị” hay “trình độ nhận thức hạn chế…“?
Còn nhiều người nữa nhưng tôi muốn tạm
ngừng ở đây để chỉ muốn nói rằng: ở vị trí là Phó Chủ tịch Hội đồng Lý
luận Trung ương, người ta chờ đợi ông Tiến sĩ lý luận về đường lối, về
triết lý trên chủ nghĩa mà ông theo đuổi, khác với việc lập đi lập lại
những tín điều mà ông tin, nhưng người khác đã hết tin.
Thay vì viết một bài có trình độ lý luận
thì ông lại đi viết một “cẩm nang” để dạy cho ngành công an, và các dư
luận viên được trả tiền để thực hiện lý tưởng cộng sản.
Từ đặc trưng, đặc sản đến Cóc ngồi đáy giếng
Tại phiên họp sáng 14/1/2011 Đại hội XI
của Đảng, TS Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện
Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trình bày tham luận “Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng”.
Sau đây là 8 đặc trưng đã được xem là lý luận có tính đột phá mà Thông tấn xã VN /Vietnam+ đã đăng lại ngày 16/12/2013.
- Đặc trưng 1: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
– Đặc trưng 2: do nhân dân làm chủ
– Đặc trưng 3: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
– Đặc trưng 4: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
– Đặc trưng 5: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
– Đặc trưng 6: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
– Đặc trưng 7: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
– Đặc trưng 8: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản khoa
học xã hội định nghĩa từ “đặc trưng” là “dấu hiệu đặc biệt (thí dụ Đặc
trưng của văn học vô sản)”, đã gọi là đặc biệt có nghĩa là chỉ nơi này
mới có.
Thế nhưng, ở các nước tiền tiến trong đó
con người sống tự do hạnh phúc đều có các “đặc trưng” 1/2/3/4/5/6/8. Mà
họ có thật, không cần dao to búa lớn, khẩu hiệu ồn ào. Chỉ cần nhìn vào
việc xuất khẩu lao động của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đến
Nhật, Hàn Quốc… cũng đủ chứng minh là các nước này có thật những điều
1/2/3/4/5/6/8 nên lao động Việt Nam mới chen chúc để được đi làm osin
nước ngoài.
Riêng Đặc trưng 3: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.” thì có một số nước, tùy tình hình và thời điểm, cũng có chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Thí
dụ như nước Pháp, ngành đường sắt là ngành công ích xã hội nên hiện vẫn
do nhà nước sở hữu. Trước kia ở Pháp cũng có một số ngành khác trong
diện quốc hữu hóa nhưng bây giờ đã giải tư (chứ không phải “xã hội hóa”
là một từ loạn ngôn của nhà nước Việt Nam để bắt dân chi trả).
Còn Đặc trưng 7: “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” cũng chẳng đặc trưng một chút nào cả vì Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba đều có như thế.
Tại sao các nước khác, từ chối Đặc trưng 7, đã đạt được “nước giàu dân mạnh xã hội công bằng và văn minh”
trong khi Việt Nam thì ở thành phố HCM (Thành phố mang tên Bác) mỗi khi
mưa to, hoặc có triều cường thì người dân phải lội nước? Ở các nước
khác họa hoằn mới có một vụ án tham nhũng còn ở Việt Nam hơn 10 vụ đại
án tham nhũng sao mà khó xử đến thế? Khiếu kiện đất đai, dân oan ở các
nước khác rất ít trong khi ở Việt Nam đầy rẫy? Ở các nước khác không có “lực lượng thù địch“, không có “chống tự diễn biến“, “tự chuyển hóa” còn ở Việt Nam từ hơn 30 năm nay bao giờ các đại hội đảng CS cũng đề cập trong văn kiện?
Người bình thường cũng có thể diễn suy ra rằng trăm sự chậm tiến ở đất nước ta là do cái Đặc trưng 7: “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. “
Hai năm rõ mười như thế mà Hội đồng lý
luận Trung ương vẫn u mê bảo vệ cái đặc trưng số 7 này để thất bại tiếp
nối thất bại, đất nước ngày càng tụt hậu, dân tình nghèo đói hỗn loạn.
Trong khi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã nói sự thật như đùa rằng phải 100 năm nữa mới đạt được Xã hội chủ
nghĩa, thế mà Hội đồng lý luận Trung ương vẫn dùng ngôn ngữ con vẹt: “Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự.“.!
Không ai cho phép Đảng cứ đem nhân dân làm vật thí nghiệm mãi được.
Kết luận
Dù nói ngoa đến mức thành tinh, nhưng
khi Đảng mất hết chính nghĩa thì Đảng chỉ có lùi, và khi lùi thì phải cố
thủ (cố thủ bằng việc cưỡng bức Hiến pháp vừa qua) để duy trì cái ghế
làm vua của mình. Đó là tình trạng của Đảng hiện nay.
Nói Đảng lùi, chúng tôi có chứng cớ:
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) của đảng đã xác định “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong bốn nguy cơ.
Đại hội VIII của đảng vẫn xác định chống “diễn biến hòa bình”.
Đại hội IX của đảng vẫn xác định chống “diễn biến hòa bình”.
Đại hội X của đảng đã yêu cầu làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình,” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.”
Đại hội XI của đảng tiếp tục khẳng định
“kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu
tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa trong nội
bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”
Như thế là từ đại hội VII đến đại hội XI từ chống “diễn biến hòa bình” đảng lại phải đối phó với “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa trong nội bộ ta;”.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) đã
ghi: “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc
phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả
trong những lực lượng nòng cốt, gắn bó với Đảng, với chế độ, đã phát
sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc, đáng lo ngại, ảnh hưởng
tới tính đồng thuận xã hội”.
Trước kia chỉ có “các thế lực thù địch” ngoài nước, bây giờ thì ”các thế lực thù địch trong và ngoài nước cấu kết với nhau”.
Như thế rõ ràng Đảng đang lùi !
Tôi có cảm tưởng ông Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương trả bài thuộc lòng mà không hiểu gì khi nói rằng: “Những
ý tưởng mới, sáng kiến mới thường vượt khỏi giới hạn của nhận thức cũ,
vượt khỏi những chủ trương, quan điểm hiện hành khi đó, có khi về sau
này mới được thực tiễn chấp nhận. Sự hình thành đường lối đổi mới đã cho
chúng ta thấy như vậy. Nếu không có “khoán chui” thì không có “khoán
100,” “khoán 10” và rộng ra là đường lối đổi mới sản xuất nông nghiệp,
đổi mới đất nước.”
Đã đã nhắc tới công lao của bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc (tên thật là Kim Văn Nguộc) thì
cũng nên nói rõ hơn. Ông Kim Ngọc, không chịu được sự nghèo đói cơ cực
của dân, nên khởi xướng việc “khoán hộ” trong nông nghiệp vào những năm
60. Thời kỳ đó được xem là bác bỏ Chủ nghĩa xã hội, các nhân vật cấp
cao giáo điều trong đảng Cộng Sản ra sức kìm hãm và hạn chế. Kim Ngọc
phải làm kiểm điểm và tự nhận “có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ”
sau khi có chỉ đạo trực tiếp của Trường Chinh, lúc bấy giờ là Chủ Tịch
Hội Đồng Nhà nước. Từ đó tuy không bị mất chức nhưng ông thất sủng, phải
đến 30 năm sau ngày mất ông mới được truy điệu.
“Đường lối đổi mới sản xuất nông nghiệp, đổi mới đất nước“ của Đảng chỉ là sự theo đuôi cái gọi là “sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ” trước kia của ông Kim Ngọc.
Nhắc lại như thế để nói với ông Phó Chủ
tịch Hội đồng Lý luận Trung ương rằng con đường mà các ông gọi là của
“các lực lượng thù địch” thực tế là con đường dẫn đến một đất nước giàu
mạnh, trong đó con người được tôn trọng đến tột cùng mà thế giới đã
chứng minh là hiệu quả. Con đường này không có gì mới đối với thế giới
văn minh, nhưng lại rất mới đối với những người cứ khăng khăng “Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự“. Ông Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương đã biết nói “sáng kiến mới thường vượt khỏi giới hạn của nhận thức cũ, vượt khỏi những chủ trương, quan điểm hiện hành”
thì tại sao không đối thoại tìm hiểu mà lúc nào các ông cũng kêu chống,
chống, chống…? . Tại sao nói và làm của các ông cứ ngược nhau mãi thế?
Chúng tôi không chống đảng nào, chỉ
chống những tập đoàn làm mục nát đất nước, chúng tôi phân biệt rất rõ:
đất nước và nhân dân còn đảng chỉ là một công cụ điều hành không hơn
không kém. Công cụ không còn phù hợp thì phải biết vứt bỏ. Đùng xem công
cụ như một tôn giáo.
Để kết luận chúng tôi xin phép trích một đoạn trong bài Phép thử giữa nhiệm kỳ của tác giả Đinh Duy Hòa đăng trên VietNamNet 16/12/2013
để chứng tỏ sự cố thủ của đảng sộng sản hiện nay. Tôi tin rằng tác giả
này sẽ bị ông Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương liệt vào loại “trình độ nhận thức hạn chế…“?
“Biết là 80% các vụ khiếu kiện liên
quan đến đất đai, nhưng thể chế đất đai về cơ bản không thay đổi, kể từ
Hiến pháp. Biết là doanh nghiệp nhà nước quá nhiều, là làm ăn thua lỗ,
nhưng thể chế về doanh nghiệp nhà nước không có thay đổi lớn.
Biết là tham nhũng trong bộ
máy là lớn, tác hại khôn lường, đe dọa sự tồn vong của chế độ, nhưng
công tác phòng, chống tham nhũng mang lại kết quả rất hạn chế. Thế thì
lãnh đạo xã hội ra sao. Nói ngắn gọn, để lãnh đạo phải có năng lực, uy
tín và tạo dựng được niềm tin trong xã hội. Hơn lúc nào hết, Đảng đang
rất cần và phải bằng mọi cách có được những cái đó. Đảng phải nhìn thẳng
vào sự thật. Đây là thời kỳ giống như trước Đại hội VI. Cuộc sống không
phải tươi sáng, thanh bình như trong các báo cáo, tường trình chính
thức.”
Nguyễn Trung Chính
19/12/2013
Cám ơn ĐS !
Trả lờiXóaHồi đi học chúng ta đều được học môn Chinh trị Kinh tê học trong đó nêu lên "Những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản". Còn về chủ nghĩa xã hội thì chỉ thấy nói đến những tính ưu việt của CNXH thôi. Bây giơ xin nói cụ thể về " Những mâu thuẫn cơ bản của Chủ nghĩa xã hôi: " Trong chủ nghĩa xã hội người ta có việc nhưng không chịu làm, không chịu làm nhưng vẫn hoàn thành kế hoạch, kế hoạch hoàn thành nhưng không có sản phẩm, không có sản phẩm nhưng vẫn có lương, có lương nhưng lương không đủ sống, lương không đủ sống nhưng không ai chết.
Xóa