Tiến sỹ Phạm Chí Dũng |
Thụy Mi
Cuộc họp kiểm điểm tôi xảy đến vào buổi sáng ngày 18/12/2013, hai tuần sau khi tôi viết Tâm thư từ bỏ đảng
và đơn xin ra đảng, được đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển - một cơ
quan trực thuộc Ủy ban Nhân dân TP. HCM nhưng chịu sự lãnh đạo của Đảng
ủy khối dân chính đảng - triệu tập như một hội nghị bất thường.
Vào
buổi sáng này, thời tiết Sài Gòn lại se lạnh bất thường không kém và là
một trong những ngày đẹp nhất trong năm để kỷ niệm Chúa Giêsu ra đời.
Không biết có phải vì cảm hứng đột ngột đó hay không mà ông Phan Xuân
Biên, nguyên trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, một
đảng viên cao cấp cùng sinh hoạt trong đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát
triển, đã mở đầu cuộc “đấu tố” tôi bằng đánh giá cho rằng bức tâm thư từ
bỏ đảng mà tôi đã “phát tán” lên mạng Internet và báo đài phương Tây là
“lăng nhăng lít nhít”. Tất nhiên, ngay sau đó tôi đã phải đề nghị vị
đảng viên có bình phẩm bất thường đó càng cần phát biểu có văn hóa hơn,
nhất là khi không còn giữ chức trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy, đúng với
mặt bằng văn hóa tối thiểu về góp ý và dân chủ cơ sở trong đảng.
Một
chi tiết đáng chú ý liên quan đến văn hóa phản biện trong đảng là chi
bộ nơi tôi sinh hoạt đã nêu ra một “gợi ý” để tôi làm bản kiểm điểm, là
hành động tán phát tâm thư từ bỏ đảng và đơn xin ra đảng của tôi đã vi
phạm điều lệ đảng và quyết định số 47 của trung ương về 19 điều đảng
viên không được làm. Trong đó có những nội dung “Nói, làm trái hoặc
không thực hiện cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị,
quy định, quyết định, kết luận của đảng”, và “…tuyên truyền, tán
phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan
điểm trái với đường lối của đảng, pháp luật của nhà nước”.
Sự
hiện diện không tránh khỏi của hai cơ quan Đảng ủy khối dân chính đảng
và Ủy ban Kiểm tra Thành ủy trong cuộc họp này cũng như cuộc họp trước
đó với tôi đã không thể tránh cho tôi cảm giác về một sự hiện diện khác,
tuy không lộ diện, của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đối với toàn bộ
chỉ đạo về quy trình tổ chức kiểm điểm và có thể khai trừ đảng với tôi.
Khuynh
hướng và kỹ thuật tổ chức kiểm điểm đối với tôi cũng khiến tôi nhớ lại
trường hợp của đại tá, nhà văn quân đội Phạm Đình Trọng. Vào năm 2009,
ông Phạm Đình Trọng làm đơn xin ra khỏi đảng. Tuy nhiên người ta đã tổ
chức “đấu tố” ông ở địa phương, để 5 tháng sau ông phải nhận quyết định
khai trừ đảng. Mục đích của giới cấp ủy là người bỏ đảng phải bị mất
danh dự và răn đe các đảng viên khác không được bỏ đảng theo.
Có
nghĩa là mặc dù theo điều lệ đảng thì việc xin vào đảng và xin ra đảng
là hoàn toàn bình thường, nhiều cấp ủy đảng vẫn sẵn sàng coi hành động
ra đảng là bất thường. Họ sẵn sàng quy chụp về thái độ chính trị, kể cả
thái độ và hành vi “chống đảng”, và thay vì cho người xin ra đảng “hạ
cánh mềm”, họ bắt buộc những người này phải “hạ cánh cứng”.
Tôi
tự hỏi với lối tư duy và hành xử vẫn quá nặng về độc đoán và áp đặt như
thế, liệu đảng có thể “hạ cánh mềm” trước sự phẫn nộ rất có thể xảy ra
của dân chúng trong 4 hay 5 năm tới?
Cũng như với ông Phạm Đình Trọng, tổ chức đảng Viện Nghiên cứu Phát triển tìm cách thuyết phục tôi “tiếp tục ở trong đảng để có đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực”,
hoặc nhắc lại “lời thề” của tôi khi xin vào đảng. Nhưng khi nhận ra
quyết định ra đảng của tôi là không thể thay đổi, một số ý kiến khác đã
cho rằng tôi phủ nhận tất cả thành tựu của Đảng Cộng sản Việt Nam và ít
nhất tôi đã vi phạm điều lệ đảng khi tán phát đơn xin ra đảng lên mạng
Internet.
Còn với tôi, đã đến lúc phải bày tỏ
quan điểm tách bạch và kiên quyết hơn đối với thái độ quy chụp chính trị
của các cơ quan đảng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đã thề trung thành
với Đảng khi xin vào, nhưng lời thề đó chỉ còn giá trị một khi Đảng vẫn
còn trung thành với những người đã sinh ra đảng và đóng thuế cho giới
quan chức đảng sinh nhai và ngự trị trên cái ghế dán nhãn “lãnh đạo toàn
diện”. Chứ không phải như hình ảnh hiện thân đầy rẫy và tàn bạo của các
nhóm lợi ích trong đảng như ngày nay, với một bản Hiến pháp 2013 phản
bác lại mọi phản biện của đại đa số nhân dân. Và vì thế, lời thề duy
nhất còn lại với một người từng là sĩ quan quân đội và bảo vệ an ninh
như tôi chỉ là “trung với nước, hiếu với dân”.
Cũng vì thế, trong bản giải trình tôi đã nêu rõ: “Trong
trường hợp Thành ủy, Đảng ủy khối Dân chính đảng, Ủy ban Kiểm tra Thành
ủy và Đảng ủy Viện Nghiên cứu Phát triển vẫn bảo lưu quan điểm cho rằng
tôi vi phạm điều lệ đảng, tôi buộc lòng phải bảo lưu quyền công dân
được khiếu nại tới các cấp thẩm quyền và quyền thông tin trên các phương
tiện thông tin đại chúng trong nước và quốc tế”.
Thâm
tâm tôi không hề ngạc nhiên về những động thái mà tổ chức đảng đã áp
đặt có chủ ý đối với tôi, bởi đơn giản là tôi không sai trong toàn bộ
các bài viết và phát ngôn về cái thực trạng khó có lối thoát của Đảng
Cộng sản hiện nay. Nếu Đảng không tự thay đổi bằng cách tự làm sạch mình
và ngó ngàng tới dân chúng, người nghèo nhiều hơn, không chấp nhận
những tiếng nói và chính kiến đa chiều, trái chiều, Đảng sẽ bị chính dân
chúng phủ nhận và thay đổi trong không bao lâu nữa.
Tâm
tư này không chỉ là của tôi, mà còn thuộc về tâm tưởng của rất nhiều
đảng viên khác - những người đương chức trong khu vực nhà nước, lực
lượng vũ trang và giới đảng viên hưu trí.
Có lẽ
vì tính phổ biến của tâm tư ấy mà đã phát sinh một chi tiết đáng lưu tâm
không kém trong cuộc họp kỷ luật tôi: chỉ có khoảng 40% đảng viên có
mặt bỏ phiếu khai trừ đảng (10/24 người), trong khi khoảng 60% còn lại
bỏ phiếu mức độ khiển trách, cảnh cáo đảng và không bỏ phiếu. Trong khi
trước cuộc họp xét kỷ luật này, một số người quen của tôi nhận định rằng
với bức tâm thư từ bỏ đảng được “tán phát” lên mạng của tôi, đó là một
“tội” rất nặng trong con mắt của Đảng và chắc chắn đảng ủy, chi bộ nơi
tôi sinh hoạt sẽ phải chịu sức ép rất lớn để có được 100% hoặc gần như
thế phiếu khai trừ đảng tôi.
60% không đồng ý
khai trừ đảng có lẽ cũng là một tỉ lệ xã hội học đảng viên đáng quan tâm
trong hiện tình tư tưởng ngổn ngang của đảng viên hiện thời. Tỉ lệ này
cho thấy những đánh giá gần đây về khả năng có đến 60-80% đảng viên ở
vào thế “trung lập” hoặc có nhận thức và hành động tiến bộ là có cơ sở.
Tỉ lệ này lại hoàn toàn trái ngược với một tỉ lệ khác - khoảng 20% số
đảng viên bị gắn bó quá hữu cơ bởi các quyền lợi và chức vụ, hoặc là
những người theo quan điểm “còn đảng còn mình” như một triết lý dân gian
đương đại.
Tôi cũng tự hỏi là với tỉ lệ mang
tính “cách mạng” đang trở thành một xu thế không thể đảo ngược ngay
trong nội bộ đảng như thế, một hệ quả mà hoàn toàn có thể dẫn đến một
làn sóng thoái đảng và bỏ đảng công khai trong những năm tới, Đảng sẽ
làm sao có thể “hạ cánh mềm” nếu họ không tự thay đổi, và hơn nữa phải
“thay máu” một cách ghê gớm. Mà thời gian để tự đổi thay lại không còn
nhiều, chỉ có thể được tính theo năm…
P.C.D.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét