Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa những năm
trước chiến tranh. Một công nhân lành nghề và lương thiện với người vợ
tần tảo, một đàn con ngây thơ 9 đứa quây quần dưới mái ấm hạnh phúc.
Bỗng đâu một ngày, xe sít-đờ-ca của Sở Công an Hà Nội ập đến đọc lệnh
bắt giữ khẩn cấp người công nhân. Những gì xảy ra sau đó còn khủng khiếp
hơn địa ngục. Anh bị biệt giam, bị tra tấn, bị ép cung. Anh bị khép án
tử hình nhưng vẫn một mực không nhận tội. Sau mười năm biệt giam chờ thi
hành án tử hình, người ta thả anh ra vì thấy vô lý. Câu chuyện về một
người tử tù xã hội chủ nghĩa hiện vẫn sống tại Hà Nội.
… Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ
Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây
Hạ từ van lạy suốt ngày
Điếc tai lân tuất phũ tay tồi tàn…
(Kiều – Nguyễn Du)
Nếu đọc một số tác phẩm nói về tù Hỏa Lò thời miền Bắc XHCN, ta đều thấy nhắc đến một người tù.
Án oan giáng xuống
31 tuổi, Nguyễn Văn Căn bị kết án
tử hình, sau khi bị biệt giam 10 năm liền chờ thi hành án thì
Căn được Toà tuyên vô tội. Hơn 40 năm qua kể từ ngày ra tù, anh
thanh niên Căn ngày nào nay đã thành ông già 83 tuổi. Công việc
quan trọng nhất của ông là đội đơn đi khắp nơi xin được đền bù
những tháng ngày tù đày oan khuất, nhưng đều vô vọng. Ông vẫn
trắng tay như ngày mới ra tù…
Trong túp lều khoảng 12m2 dựng tạm
bợ trên vỉa hè đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội, ông Căn run run đưa
cho tôi xem tờ đơn khiếu nại, bản quyết định của Toà án nhân
dân tối cao tuyên ông vô tội ngày 13/6/1970 có chữ ký của ông Lê
Giản lúc bấy giờ là Chánh án Toà án nhân dân tối cao và là
Phó Chủ toạ phiên toà. Ông Căn còn lấy ra một trang báo mà ông
giữ lại có bài phỏng vấn ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp trả lời
về vấn đề bồi thường bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng gây ra. Rồi ông cất giọng khàn khàn kể câu
chuyện về cuộc đời mình.
“Tôi còn hát bài ca hi vọng!”
Nguyễn Văn Căn sinh năm 1929, sinh
sống bằng nghề thợ máy. Căn sống cùng vợ con ở 65 phố Quan
Thánh (Hà Nội), sau đó chuyển công tác tới Công ty Bông vải sợi
(Hoà Bình). Làm việc ở đây cho đến năm 1957 thì những thay đổi
cứ liên tiếp diễn ra ngoài dự tính của Căn. Đang công tác ở
Hoà Bình, Căn nhận được quyết định trở lại Hà Nội làm việc
tại Nhà máy Giấy Trúc Bạch. Sau này Căn mới biết, người ta
chuyển công tác để tiện theo dõi mình. Ngày 30/7/1960 Căn bị
bắt cùng 3 người nữa với tội danh gián điệp, tuyên truyền phản
cách mạng, giết người, bị tuyên án tử hình, tịch thu 2/3 tài
sản rồi bị đưa vào Hoả Lò giam giữ chờ ngày thi hành án.
Trong bản quyết định có nêu Căn bị
luận tội vì một vụ án giết người đã xảy ra năm 1957, nạn nhân
là em Nguyễn Huy Thịnh, 15 tuổi, nhà có hiệu vàng bạc ở phố
Tạ Hiền. Đêm 17/3/1957, em Thịnh được hai người lạ mặt đến xin
phép gia đình đưa đi dự liên hoan, rồi từ đó em Thịnh không trở
về nữa. Sáng 18/3, xác em Thịnh được phát hiện trên một thửa
ruộng của cánh đồng Hào Nam, Giảng Võ (khi ấy thuộc ngoại ô Hà
Nội). Tại hiện trường, Công an Hà Nội không thu được gì ngoài một chiếc
vòi bơm xe đạp, nghi là thủ phạm bỏ quên tại hiện trường.
… Công an Hà Nội đã điều tra từ năm
1957 đến 1960 mới kết thúc. Nguyễn Văn Căn, Lê Đoan, Nguyễn Hi
Sinh, Đoàn Hiểu đã bị bắt và bị truy tố về tội giết người
nhằm thực hiện âm mưu gây hoang mang trong quần chúng theo lệnh
của Nguyễn Quang Hải (người này đã bị Toà án nhân dân thành phố
Hà Nội xử tử hình tháng 3/1958 trong vụ án gián điệp Phòng Nhì
cài lại miền Bắc, tùy viên văn hóa De Bonfils bị trục xuất). Dựa theo
lời khai của Đặng Khôi (một can phạm trong tổ chức gián điệp
Nguyễn Quang Hải) thì 4 can phạm bị bắt đều nằm trong tổ chức
Mặt trận chống cộng miền Bắc do Hải cầm đầu và thủ phạm chính trong
vụ giết người là Nguyễn Văn Căn, theo lời khai của Khôi do bị tra
tấn, bức cung.
Bị quy giết người, lại hoạt động gián
điệp trong tổ chức phản động, cấu kết với nước ngoài chống phá cách mạng
miền Bắc XHCN, Căn bị Cục Chấp pháp (Bộ Công an) và Phòng Chấp pháp (Sở
CA Hà Nội) đối xử bằng những hình thức tra tấn khủng khiếp nhất và chỉ
còn một quyền duy nhất là cúi đầu nhận tội. Bị biệt giam trong xà lim tử
hình, Căn không có cơ hội để thanh minh cho sự vô tội của mình.
Với tính chất cực kỳ nghiêm trọng như vậy, Căn không có cơ hội tiếp
xúc với ai, không biết tin tức gì ở ngoài.
Vào tù, Căn bỏ lại ngoài đời vợ
và đàn con 9 đứa. Suốt thời gian nằm trong tù, điều ý nghĩa
nhất với Căn là nỗi nhớ vợ con da diết, nhớ những buổi chiều
tan giờ làm về, vợ con đã chờ cơm, cả gia đình quây quần ấm
cúng. Những hình thức tra tấn tại Hỏa Lò thì cực kỳ khủng khiếp nhưng
đều không bằng nỗi nhớ con. Nhớ không ngủ được. Nhớ phát điên lên. Cũng
nhờ nỗi nhớ này mà lúc nào Căn cũng hun đúc ý chí phải sống, sống để trở
về gặp lại đàn con của mình.
Nhưng sau đó 2 năm, phó giám thị
trại giam đã tới báo cho Căn một tin không ngờ: vợ Căn đã nộp
đơn xin li dị vắng mặt để lấy chồng khác. Lúc đó, Căn chỉ còn
biết nghĩ, mình như thế này rồi không biết sống chết thế nào
thì cứ để cho người ta yên tâm đi xây dựng cuộc sống mới, để
họ chờ đợi biết đến bao giờ… Cái cảm giác không thôi ám ảnh
Căn suốt những năm tháng nằm trong tù: ngày lê thê, đêm vô tận,
ngày thì ngủ mà đêm thì thức. Lo sợ nhất là thời gian gần về
sáng, miệng thầm mong đừng có tiếng mở cửa, qua thời điểm đó
mới yên tâm vì cuộc sống lại được kéo dài thêm.
Nhiều lần Căn hỏi người quản giáo
cách thanh minh, kháng cáo nhưng công việc của họ là coi tù nên
họ cũng chẳng thể cho Căn biết gì nhiều về các thủ tục. Căn
chẳng được gặp ai, chẳng biết làm đơn gửi cho ai nên chỉ mong
khi ra toà sẽ có cơ hội kêu oan. Ngay cả khi chính quyền đến
nhà Căn xác minh và gia đình làm đơn khiếu nại Căn cũng không
biết.
Đến tận ngày 25/5/1965, Toà Phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao đã quyết định chấp nhận đơn kháng
cáo của Nguyễn Văn Căn và chiểu điều 4, điều 6 sắc lệnh 133-SL
ngày 20/1/1953 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà xử
phạt: Nguyễn Văn Căn tử hình. Đơn kêu oan của Căn tiếp tục được
gửi lên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Các tử tù khác, trong thời gian
chờ thi hành án, nhiều người phát điên lên vì lo lắng, sợ hãi.
Nhưng Căn cố gắng không để cho mình bị rối loạn thần kinh, Căn
tin sự vô tội của mình sẽ có cơ hội được minh oan. Một động
lực thúc đẩy niềm tin đó là việc dù đã bị tuyên án tử hình
nhưng Căn vẫn trong thời gian chờ thi hành án vì chưa có đủ
chứng cớ luận tội. Chính vì vậy, một anh bạn tù đã tưởng là
Căn bị điên khi thấy Căn cứ ê a các câu hát trong “Bài ca hi
vọng”, cậu ta khóc và bảo “sắp chết rồi còn lắm chuyện”,
nhưng Căn nói với cậu ta Căn quyết không bi quan, bi quan là công
nhận mình có tội. Vậy nên nằm trong tù nhưng Căn luôn nhớ đến
những gì tươi vui ngoài xã hội để hát, để tìm đến sự lạc
quan! Và trên hết, Căn nhớ tới con. Hình ảnh của chúng hiện ra trong mơ
là thiên thần cứu rỗi Căn, giúp Căn sống sót được trong địa ngục trần
gian, qua những tháng ngày thê lương, vô tận.
Từ cõi chết trở về
Trong suốt thời gian Căn ở tù, có 3
lần các luật sư vào gặp Căn nói chuyện để tìm cách bào chữa
cho Căn. Căn cũng không hiểu hành động của mình đúng hay sai
nhưng Căn cứ nhất mực từ chối. “Tôi bảo với họ hãy đi bào
chữa cho người khác vì tôi không có tội”. Ban đầu, Căn bị coi
là có thái độ bất hợp tác, nhưng rồi các luật sư cũng phản
ánh tình hình đó với cấp trên.
Hồ sơ vụ án này được chuyển sang
Toà án nhân dân thành phố Hà Nội. Lúc bấy giờ, Luật sư Nguyễn
Xuân Dương đang ở cương vị Chánh án Toà án nhân dân thành phố
Hà Nội, ông đã nghiên cứu hồ sơ và phân tích các mâu thuẫn của
vụ án và nhận định rằng các bị cáo không phạm tội. Trong
báo cáo trình lên Thường vụ Thành uỷ Hà Nội, ông Dương viết:
“Theo quan điểm của tôi thì về mặt pháp luật, không có đủ căn
cứ để kết tội bị cáo. Trong gần 4 năm, từ khi cuộc điều tra
kết thúc đến khi đưa vụ án ra xét xử, trong cuộc tranh luận
kéo dài về việc các bị cáo có tội hay không có tội, tôi vẫn
giữ quan điểm là các bị cáo không có tội”. Luật sư Nguyễn Xuân
Dương đã từ chối xét xử vụ án này. Một thẩm phán khác đã
được giao xét xử vụ án nhưng vẫn tuyên án tử hình Căn, chung
thân Đoan, Sinh 5 năm tù, Hiểu 3 năm tù.
Sau vụ việc này, ông Dương không làm
Chánh án nhân dân thành phố Hà Nội nữa, nhưng vẫn đề nghị vụ
án Căn, Đoan, Sinh, Hiểu được mau chóng xem xét lại.
Năm 1970, vụ án được Uỷ ban Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao xét xử lại. Chủ toạ phiên toà đã
tuyên cả 4 người đều vô tội. Vậy mà cũng kéo dài 10 năm trời…
Ông Căn nhớ lại: “Đó là một ngày
mà tôi không bao giờ quên được. Anh Kim, cán bộ quản giáo đến
gặp tôi và bảo chuẩn bị sắp xếp đồ đạc. Tôi nghĩ chắc lại
chuyển buồng như mọi khi. Nhưng khi ngồi trước anh Kim, uống
nước, hút thuốc thì đột nhiên tôi không tin ở tai mình khi nghe
anh Kim nói rất trịnh trọng: “Hôm nay, tôi được lệnh của Toà án
nhân dân tối cao đến đọc lệnh trả tự do cho anh và chúc mừng
anh từ nay được trở về đoàn tụ với gia đình. Mong anh trở về
với xã hội trở thành người cán bộ tốt, những gì Đảng và
Nhà nước làm sai thì Đảng và Nhà nước sẽ sửa”. Với tôi, đó
là ngày khai sinh lần thứ hai trên đời?.
Căn được cho 100 đồng để đi tàu
điện về nhà. Nhưng Căn làm gì còn nhà nữa, vợ con cũng đã
rời xa rồi. Mái ấm mà Căn ngày đêm nơi địa ngục mong ngóng trở về nay
đã vỡ vụn. Những thiên thần của Căn cũng tan đàn, cầu bơ cầu bất, mỗi
đưa một nơi. Căn lếch thếch ôm đống chăn chiếu, áo quần về nhà
mẹ đẻ đang ở cùng cậu em trại tại 17C Kim Mã. Người hàng xóm
chạy về báo cho mẹ và em trai Căn nhưng họ không tin vì nghĩ Căn
đã chết rồi. Trông thấy con trai, người mẹ già chỉ kịp ngã vào Căn
rồi ngất lịm. Sau đó chỉ toàn nước mắt mừng vui vì đoàn tụ.
Lúc đó, Căn đã 40 tuổi.
Không muốn sống bám vào em trai, sau
khi mẹ chết Căn bỏ đi sống một mình, lang thang hết nơi này
đến nơi khác (làng Sài, đê Yên Phụ, dốc Bưởi và bây giờ là
vỉa hè đường Hoàng Hoa Thám). Người dân ở các khu vực này
chẳng lạ gì ông già gầy còm lủi thủi sống trong một túp lều
dựng sơ sài với đủ thứ nghề kiếm sống: sửa chữa máy móc,
làm thuê, mua bán xe đạp cũ… Cách đây hơn chục năm, một người
bạn công tác ở xưởng phim giới thiệu cho ông Căn gặp bà Liễu –
một người phụ nữ quê Nam Định lên Hà Nội bán rau – hai hoàn
cảnh khốn khó dựa vào nhau kiếm sống và bầu bạn lúc tuổi
già.
Mong có điều kiện sống yên thân tuổi già
Chỗ ở hiện nay trước cổng Viện Lao
trên đường Hoàng Hoa Thám là đất lấn chiếm, được ông bạn tốt
mua của người ta rồi cho lại để ông Căn có chỗ nương thân. Tuy
nhiên vì là đất lấn chiếm, chẳng ai có chủ quyền hợp pháp nên
nó là nơi lý tưởng cho các vụ tranh chấp có cơ hội xảy ra.
Những người sống bên cạnh (cũng thuộc diện lấn chiếm) muốn mua
lại miếng đất con con nơi ông Căn ở để mở rộng diện tích kinh
doanh nhưng ông không đồng ý. Hai ông bà đã mở hàng ăn và thu
nhập cũng đủ một cuộc sống đạm bạc nên không muốn thay đổi.
Người dân sống ở khu vực trước cổng Viện Lao chẳng ngạc nhiên
lắm mỗi khi dãy lều trên vỉa hè trước cổng Viện xảy ra những
vụ ồn ào, trong đó nhiều lần có vụ tranh chấp chỗ ở của ông
Căn. Trong một vụ ẩu đả, người ta còn thấy hai ông bà già bị
đánh què cả tay. Phải đến khi xung quanh túp lều ông Căn ở
thường xuyên bị vứt những thứ xú uế, thì dân xung quanh và cả
những người ở Viện chẳng dám đến ăn ở hàng của ông Căn nữa.
Việc bán hàng ăn đành phải bỏ, ông Căn chuyển qua nghề mua xe
đạp cũ về, hai ông bà già lọ mọ cạo sơn, đánh ráp, tân trang
lại rồi bán kiếm lời.
Về chỗ ở của ông Căn, đó là một
vòng luẩn quẩn, cán bộ chính quyền địa phương đã nhiều lần
trả lời nếu ông có hộ tịch thì có thể sẽ được đền bù khi
bị bắt buộc phải di dời khỏi chỗ ở hiện tại. Ông Căn cho biết
hộ khẩu của ông trước khi vào tù vẫn ở 65 Quan Thánh, từ khi
ra tù ông chưa được nhập hộ tịch ngay, sau đó lại lang thang hết
chỗ này đến chỗ khác – mà phải có nhà thì mới được cấp hộ
tịch! Bây giờ việc nhập hộ tịch phải lần lại thời gian hơn 50
năm về trước, phải có sự chứng nhận của cơ quan ông Căn công
tác, của chính quyền sở tại… “Việc này tôi đã làm rồi nhưng
mờ mịt lắm – ông Căn nói – nhất là việc nhờ Công ty Bông vải
sợi Hà Nội xác nhận giúp lai lịch của tôi, bây giờ tôi làm gì
cũng khó, nói gì đến việc bồi thường chỗ ở – ông Căn thở
dài - hàng chục năm sống tạm bợ trên vỉa hè này lúc nào tôi
cũng trong tình trạng thấp thỏm lo bị đuổi đi…”.
Đơn từ khiếu nại ông Căn gửi đi
chẳng thấy hồi âm. “Từ ngày ra tù đến giờ, cứ cơ quan nào của
Đảng và Nhà nước là tôi gửi đơn, nhưng chẳng thấy hồi âm. Duy
có một lần họ gửi đơn của tôi trở lại phường Bưởi nhưng tôi
chỉ nhận được câu trả lời của địa phương là họ không đủ thẩm
quyền giải quyết”.
Khi biết Quốc hội đã thông qua Nghị
định bồi thường án oan sai, ông Căn có thêm động lực để tiếp
tục gửi đơn khiếu nại. Ông nói: “Người ta thường nói một ngày
trong tù bằng thiên thu tại ngoại, huống chi tôi chịu 10 năm tù
oan thì bù sao hết những cái đã mất! Bây giờ, tôi cũng chẳng
ăn vạ gì đâu mà chỉ mong nhờ có quyết định của Quốc hội, tôi
sẽ được bù đắp phần nào, để có điều kiện sống yên ổn tuổi
già còn lại”.
Tử tù Nguyễn Văn Căn lắc đầu khi được
yêu cầu kể thêm về chế độ giam, phạt dưới mái tù XHCN lúc đó. Ông chỉ
vén ngực để lộ những vết sẹo đan nhằng nhịt do tra tấn mà không đưa ra
lời kết tội nào, nhưng thảm kịch mà chế độ gây ra đối với ông là lời kết
án mạnh mẽ nhất. Thảm kịch đó vẫn tiếp nối đến tận ngày nay khi mà các
cấp chính quyền Hà Nội luôn đùn đẩy không giải quyết bồi thường cho
người tử tù oan thế kỷ.
Kiều Minh
BẤT NHÂN ,thời cụ HỒ còn song đã vậy ,thời nay sự bất nhân còn tệ hại gấp nhiều.!
Trả lờiXóaĐược minh oan sau 10 năm tù có phải nhờ ơn Đảng và Nhà Nước hay do CÔNG LÝ không thể vùi dập ? ? ?
Trả lờiXóaTât nhiên là nhờ ơn Đảng và chính phủ rồi, nếu không thì đã bị "đòm". Công lý cũng phải được Đảng và chính phủ cho phép chứ.
Trả lờiXóa