Nhà báo Đoan Trang
Lần đầu tiên, tôi được nghe một nhà ngoại giao, chính trị gia Việt Nam nói những điều này: “Ngày
ấy (năm 1975) chúng ta đã thực hiện những chính sách mà… đáng lẽ nếu
tỉnh táo hơn, được một phần của Đổi Mới sau này thôi, thì Việt Nam bây
giờ đã mạnh lắm, cường thịnh lắm... Nhưng thay vì khoan dung và khéo léo
trong đối nội, chúng ta lại có những chính sách như cải tạo công thương
nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp dụng ở miền Bắc đã thấy trục trặc
rồi, vậy mà ta lại tiếp tục áp dụng ở miền Nam. Hậu quả là làm nền sản
xuất không thể nào đứng vững được, người dân thì hoang mang”.
Người nói câu ấy là ông Nguyễn Dy Niên, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam.
+++++++
-
Phóng viên: Đã công tác suốt hơn 50 năm trong ngành ngoại giao (từ năm
1954 khi mới 19 tuổi), chứng kiến nhiều thăng trầm của đất nước và tham
gia nhiều cuộc đàm phán quốc tế, ông đánh giá sao về tình hình Việt Nam
và bối cảnh quốc tế sau ngày thống nhất đất nước, 30-4-1975?
-
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên: Sau khi giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, chúng ta bước vào một thời kỳ hòa bình và xây
dựng. Nhưng phải nói rằng khúc khải hoàn ngắn quá, bởi ngay sau đó,
chúng ta lại vướng vào chiến tranh ở biên giới Tây Nam, Pol Pot bắt đầu
quấy phá, rồi chiến tranh Campuchia. Đó là thời kỳ cực kỳ khó khăn, miền
Bắc kiệt quệ, xơ xác sau những năm tháng dốc toàn lực cho chiến trường,
miền Nam đổ vỡ vì chiến tranh, các vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra rất
lớn, công việc thì bề bộn. Đất nước hồi đó khó khăn lắm.
Tuy
nhiên, cũng phải nói rằng, thời gian sau ngày 30-4-1975 là một cơ hội
cực kỳ tốt mà chúng ta chậm khai thác. Hầu như tất cả các nước phương
Tây khi ấy đều muốn thiết lập quan hệ với Việt Nam. Mỹ cũng muốn bình
thường hóa quan hệ với ta. Bởi vì vị thế của Việt Nam lúc đó là vị thế
của người chiến thắng, ngời ngời vinh quang, các nước rất nể trọng, quý
mến. Nhưng rất tiếc là chúng ta còn dè dặt – cũng một phần do những ràng
buộc của lý luận - nên đã bỏ lỡ, không tận dụng được cơ hội ấy.
Đến
lúc ta vướng vào vấn đề Campuchia thì tất cả những thuận lợi đó đều mất
đi: Trước hết là những người ủng hộ ta bắt đầu hoang mang, không hiểu
tại sao một dân tộc đã tự giải phóng mình nay lại đưa quân sang nước
khác. Rồi tới những người trước đây đã lưỡng lự, chưa hoàn toàn ủng hộ
Việt Nam, thì đến lúc này họ quay hẳn sang chống lại chúng ta. Họ đâu
biết rằng Việt Nam đang làm một nghĩa vụ quốc tế cực kỳ quan trọng mà
không dân tộc nào lúc đó làm được, đâu biết rằng vào Campuchia là Việt
Nam phải hy sinh ghê gớm lắm, mất đi sự ủng hộ của thế giới, mất bao
xương máu, mất cả nguồn lực kinh tế dồn vào để bảo vệ, giúp đỡ
Campuchia. Đến bây giờ, khi đã hiểu ra tình hình rồi, người ta mới cảm
ơn Việt Nam. Chúng ta luôn mong muốn hòa bình, nhưng vào giai đoạn ấy,
chúng ta bắt buộc phải làm những việc khiến vị thế quốc tế của mình gặp
khó khăn.
- Như vậy, có phải những khó khăn mà Việt Nam gặp phải vào những năm sau chiến tranh là bất khả kháng?
-
Không hẳn như thế, còn do phần nguyên nhân chủ quan nữa. Lúc ấy, giá
chúng ta khôn khéo hơn trong chính sách đối nội, thì đã trấn an được
lòng người. Tôi muốn nói rằng, nếu ngày ấy chúng ta đẩy mạnh hòa hợp dân
tộc, chúng ta có cái khoan dung của người chiến thắng, thì sẽ làm yên
lòng người dân, nói chính xác là sẽ làm một bộ phận không nhỏ người dân
miền Nam yên lòng với chế độ mới. Nhưng thay vì khoan dung và khéo léo
trong đối nội, chúng ta lại có những chính sách như cải tạo công thương
nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp dụng ở miền Bắc đã thấy trục trặc
rồi, vậy mà ta lại tiếp tục áp dụng ở miền Nam. Hậu quả là làm nền sản
xuất không thể nào đứng vững được, người dân thì hoang mang.
Tôi
nhớ năm 2008, tôi sang Ý, gặp một bạn Việt Nam khoảng 40 tuổi, thuộc
diện di tản. Cậu ấy kể lại, hồi 1975, nhà cậu ấy chỉ sản xuất bút viết
thôi nhưng cũng bị cho là bóc lột (vì có thuê người làm công), thế là bị
“đánh”. Đánh lần thứ nhất thì gia đình còn cố gắng chịu được, nhưng đến
lần thứ hai, bị tịch thu hết cả phương tiện sản xuất, thì không sống
nổi nữa và buộc phải ra đi. Cậu ấy kể lại thảm cảnh của người vượt biên,
nghe xót xa lắm. Gia đình dồn hết cả tiền bạc, mang theo đứa em mới có
ba tuổi. Ra ngoài khơi thì thuyền thủng đáy, phải chuyển sang thuyền
khác, chẳng may trong lúc lúng túng, đứa bé rơi xuống biển. Bà mẹ đã
định nhảy theo xuống biển tự tử, may mà người ta giữ lại được. Cậu ấy
kể: “Bố mẹ cháu hận lắm, nhưng dần dần thì cũng nguôi đi”. Tôi hỏi: “Thế
bây giờ cháu có hận không?”. “Không, cháu không thù hận nữa. Cháu về
nước nhiều lần rồi, lấy vợ Việt Nam rồi” – cậu ấy nói thế.
Đó,
phải nói là ngày ấy mình đã thực hiện những chính sách mà đáng lẽ nếu
tỉnh táo hơn, được một phần của Đổi Mới sau này thôi, thì Việt Nam đã
mạnh lắm, cường thịnh lắm.
Dẫu sao, mọi chuyện đã thành lịch sử.
Một con người còn khó mà hoàn hảo, huống gì là cả một cuộc cách mạng.
Nhưng điều hay là sau này chúng ta biết sửa sai, đổi mới. Không thể
tránh khỏi những sơ sảy và có cái giá phải trả, do những sai lầm chủ
quan của mình và cả nguyên nhân khách quan thêm vào. Nhưng điều quan
trọng trong bất kỳ thời nào là phải rút ra bài học để không bao giờ lặp
lại những sai lầm ấy nữa, để mình đi lên.
- Từ năm 1975 đến nay, có những sự kiện nào là mốc nổi bật, có ý nghĩa nhất trong hoạt động ngoại giao của Việt Nam, thưa ông?
-
Sự kiện chính trị lớn nhất là Đại hội VI của Đảng đề ra Đổi Mới. Không
có Đổi Mới thì đúng là không biết Việt Nam sẽ đi về đâu, thậm chí có tồn
tại như ngày nay được không. Tôi nghĩ đó là cái mốc lớn nhất, căn bản
nhất. Về đối ngoại thì sự kiện quan trọng sau năm 1975 là tìm được giải
pháp cho vấn đề Campuchia, rút quân khỏi Campuchia. Tiếp theo là bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ.
Mấy mốc ấy rất quan
trọng. Bạn phải biết là con đường đi đến Đổi Mới cũng gặp nhiều cái
vướng lắm chứ không phải dễ dàng thênh thang đâu. Cố Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Cơ Thạch là người rất nhạy cảm với cái mới, ông muốn vươn
lên, muốn đi rất nhanh, và trong nội bộ ban lãnh đạo cũng có nhiều người
ủng hộ ông lắm, ấy vậy mà chưa được, cũng phải đến lúc có sự đồng thuận
trong toàn Đảng mà nhất là trong Bộ Chính trị thì mới đổi mới được. Đổi
Mới là cái mốc lớn nhất, căn bản nhất, đánh dấu việc chúng ta đã biết
rút ra bài học và tìm đường đi. Còn bình thường hóa cũng không hề dễ
dàng. Phải đi từng bước thật vững, thật cân bằng, cho phù hợp với tình
hình trong nước, tình hình khu vực và thế giới. Những bước đi đó đều là
các vấn đề phải tính toán rất kỹ.
- Nói riêng về quá trình đàm phán với Mỹ, chúng ta đã trải qua những khó khăn thế nào, thưa ông?
-
Từ năm 1976 ta bắt đầu đàm phán với Mỹ. Nhưng lúc ấy mình đưa ra, như
trong nghề ngoại giao chúng tôi hay nói, đưa ra cả một “cục xương” mà họ
không nuốt nổi (cười), đó là bồi thường chiến tranh. Chủ trương của
chúng ta ngày ấy là dứt khoát đòi bồi thường. Trưởng đoàn Phan Hiền lên
đường đàm phán, lãnh đạo căn dặn đại ý “hai triệu sinh mạng đã mất trong
chiến tranh, anh nhớ lấy điều đó”. Với chủ trương ấy, trong tình hình
ấy, người đàm phán không thể làm khác được, thế là chúng ta bỏ mất cơ
hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ, trong khi vào thời điểm đó, mình là
người ra điều kiện để bình thường hóa. Sau này, tới những năm 90 thì Mỹ
lại là bên ra điều kiện. Ta bỏ lỡ mất 20 năm. Nhưng nói vậy thôi, cũng
phải hiểu rằng lúc đó, chúng ta chưa chuẩn bị được đâu. Miền Nam vừa
giải phóng mà lại có một Đại sứ quán Mỹ mới ở TP.HCM… thì cũng khó chứ…
CÒN NỮA
Mấy chục năm làm công việc đối ngoai tôi có nhiều dịp tiếp xuc, làm việc cùng ông Nguyễn Dy Niên, nội dung bài trả lời của ông thực ra đẫ được đề cập tới nhiêu rồi, thú vị là ông Niên nói ra thẳng thắn thôi, trước ông làm trong ngành NG ông trần Quang Cơ đã có bài viết dài, đề cập những vấn đề còn gai góc hơn, bản thân tôi cũng có nhiều suy ngẫm về công việc ngoại giao chắc có lúc nào đó sẽ viết ra dù là những chuyện rất nhạy cảm liên quan tới quan hệ với TQ.
Trả lờiXóaCảm ơn thông tin của cụ Công lý. Bài này được lấy từ Blog Đoan Trang tháng 4/2010. Tôi đăng lại vì phát biểu của Nguyễn Duy Niên trước đây tôi chưa được biết.
Trả lờiXóa