Ngô Bắc dịch và phụ chú
Dana R. Dillion, The Heritage Foundation
Nguồn bất ổn nguy hiểm nhất tại Á Châu là một Trung Quốc đang vươn lên tìm cách tái khẳng định bản thân, và nơi mà Trung Quốc có nhiều xác suất nhất để gây ra một sự xung đột quân sự là Biển Nam Trung Hoa. Trong thập niên thứ nhì của thế kỷ thứ 21, vùng nước ít khi yên tĩnh của Biển Nam Trung Hoa đang sôi sục từ một sự kết hợp của các cuộc thao diễn hải quân cạnh tranh nhau với ngôn từ cực kỳ nóng bỏng. Nhiều học giả, chính trị gia, và các hải quân đô đốc nhìn Biển Nam Trung Hoa như một địa điểm của sự tranh giành tương lai giữa các nước.
Sự dự đoán về các cuộc đụng chạm sắp xảy ra đã khởi đầu tại Diễn Đàn Cấp Vùng của khối ASEAN (Asean Regional Rorum: ARF) khi Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Hillary Clinton đưa ra một bản tuyên bố chậm trễ về các quyền lợi của Mỹ tại Biển Nam Trung Hoa. Clinton xác quyết rằng Hoa Kỳ có một quyền lợi quốc gia trong sự tự do hải hành tại Biển Nam Trung Hoa; rằng Hoa Kỳ ủng hộ một tiến trình cộng tác trong việc giải quyết các sự tranh chấp lãnh thổ tại đó; và rằng Hoa Kỳ ủng hộ Bản Tuyên Bố Chung Giữa Khối ASEAN và Trung Quốc năm 2002 về sự ứng xử của các bên tại Biển Nam Trung Hoa.
Bất kể sự tuyên bố ủng hộ của Clinton dành cho các sự thỏa thuận của chính Trung Quốc với Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á, Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc đã trả lời một cách tiêu cực, tuyên bố rằng sự phát biểu của Ngoại Trưởng Clinton “thực sự là một cuộc tấn công vào Trung Quốc”. Quân đội Trung Quốc đã tuyên bố rằng nó chống lại “việc quốc tế hóa” sự tranh chấp giữa sáu nước và đã khởi sự một cuộc thao diễn hải quân mới và lớn lao khác thường tại Biển Nam Trung Hoa ngay trong tuần lễ kế tiếp.
Sự chạm trán trên biển dồn dập này bị xúi bẩy bởi các sự khẳng quyết chủ quyền của Trung Quốc trên toàn thể Biển Nam Trung Hoa và chủ định được tuyên bố của nó nhằm thi hành chủ quyền đó. Nhưng nguồn gội của sự ngạo mạn của Trung Quốc là quan điểm về sự ủy nhiệm lịch sử của nó để thống trị mọi thứ dưới gầm trời. Nới dài các biên giới của Trung Quốc một nghìn dặm ngang qua Biển Nam Trung Hoa chỉ là một sự thể hiện chính sách của thị kiến này về một trật tự thế giới mới của Trung Quốc. Phù hợp với ý thức hệ tập trung về Trung Quốc của nó, Bắc Kinh tin tưởng thẩm quyền của mình trên các lân bang nhỏ hơn phải được bao gồm trong việc xác định chính sách ngoại giao của họ. Sau khi Clinton thách đố sự tuyên nhận của Trung Quốc đối với toàn thể Biển Nam Trung Hoa, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc được tường thuật đà trừng mắt nhìn một nhà ngoại giao của Singapore và tuyên bố, “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là các nước nhỏ, và sự kiện đúng là như thế”. 1 Bộc lộ nhiều hơn ý kiến của Trung Quốc về vị thế của nó giữa các nước, vào hôm Thứ Hai kế đó Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã công bố một sự phát biểu rằng “quan điểm của Trung Quốc đã đại diện cho các quyền lợi của “các nước Á Châu đồng hành””.
Các sự tuyên nhận lãnh thổ tranh giành tại Biển Nam Trung Hoa đã có từ nhiều thập niên, nhưng giờ đây chính phủ Trung Quốc đang tràn ngập cảm giác về sự thành tựu và Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân [Trung Quốc] được tuôn trào với ngân sách quân sự tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Lời tuyên bố của [Ngoại Trưởng] Clinton có thể đã được gợi hứng bởi các lời tuyên bố trước đó bởi đối nhiệm Trung Quốc của Clinton, Dai Bingguo (Đới Bỉnh Quốc), cố vấn quốc gia phụ trách ngoại giao, trực tiếp nói với chính bà Clinton và được lập lại với vài viên chức phụ tá Hoa Kỳ rằng sự thi hành chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa đã là một “quyền lợi cốt lõi” ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng. Trong khi Đới Bỉnh Quốc được cho hay đã không còn sử dụng nhóm từ ngữ “quyền lợi cốt lõi” để mô tả chủ quyền trên biển của Trung Quốc, các nhân vật trong giới quân sự Trung Quốc vẫn còn dùng. Trong Tháng Một năm 2011, trang mạng của từ Nhân Dân Nhật Báo (People’s Daily), cơ quan chính thức của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đã thăm dò các độc giả rằng liệu Biển Nam Trung Hoa có phải là “quyền lợi cốt lõi” của Trung Quốc hay không; 97 phần trăm trong gần 4,300 người trả lời đã nói có. 2
Ngoài một cuộc chiến tranh nổ súng, việc bảo vệ sự tự do hải hành tại một trong những tuyến đường biển bận rộn nhất của hoàn cầu đòi hỏi một sự giải quyết thân thiện các sự tuyên nhận lãnh thổ tranh giành nhau. Khởi sự một tiến trình để giải quyết hay trung lập hóa vấn đề sẽ đòi hỏi sự lãnh đạo và quyết tâm của Mỹ. Nền ngoại giao vững chắc được hậu thuẫn bởi sức mạnh hải quân có tính thuyết phục và sự lãnh đạo kiên trì có thể tạo ra một sự cân bằng trong vùng để bảo vệ sự tự do hải hành, sự trung thực của luật quốc tế, và sự độc lập và chủ quyền của các nước thuộc Đông Nam Á.
Giải pháp tệ hại nhất cho cuộc tranh chấp Biển Nam Trung Hoa nhìn từ quan điểm của Hoa Kỳ sẽ là việc các lân bang khối ASEAN của Trung Quốc hoàn toàn ưng chịu lập trường của Bắc Kinh và biến toàn thể Biển Nam Trung Hoa thành lãnh thổ thuộc chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ). Lập trường của Bắc Kinh cũng là giải pháp tệ hại nhất cho khối ASEAN và cho mọi quốc gia mậu dịch khác trên hành tinh. Nhưng một giải pháp cũng không kém tệ hại là việc Hoa Kỳ trở nên dính líu vào một sự chạm trán song phương với Trung Quốc mà không có sự ủng hộ và cam kết vững chắc đối với các hành động của Mỹ bởi các quốc gia duyên hải tuyên nhận khác và bởi các đồng minh Á Châu-Thái Bình Dương của Mỹ. Không có sự ủng hộ của các liên minh trong vùng, Hoa Kỳ sẽ bị vướng mắc vào một chiến dịch ở đoạn cuối của tuyến tiếp vận của nó, nhưng lại lọt sâu vào tầm với của một quyền lực to lớn và đang lên.
Giải pháp lý tưởng sẽ là việc các nước khối ASEAN sẽ đứng lên chống lại Trung Quốc và khẳng định về một sự giải quyết đa phương cho các sự tranh chấp dựa trên các điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và bộ luật ứng xử được cụ thể hóa bởi Hiệp Định Thân Hữu và Thương Mại mà Trung Quốc đã ký kết trong năm 2002. Giải pháp này không khả hữu trừ khi khối ASEAN phát triển được các nguồn tài nguyên chính trị, kinh tế và quân sự để thách đố ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong ngắn hạn, sự hậu thuẫn từ Hoa Kỳ và các quyền lực trong vùng khác kể cả Nhật Bản, Ấn Độ và Úc Đại Lợi, có thể là một lồng kính nuôi dường trẻ sinh non trong khi khối ASEAN phát triển một năng lực răn đe bản địa. Trong trường kỳ, khối ASEAN sẽ phải tự đứng vững trên đôi chân của mình.
Khối ASEAN sẽ miễn cưỡng để chấp nhận sự trợ giúp của Mỹ nếu nó được đưa ra như một phần của một chính sách của đại cường, chống lại Trung Quốc về mặt địa chính trị. Trung Quốc không chỉ là một láng giềng của Đông Nam Á, mà còn là đối tác đầu tư và mậu dịch quan trọng nhất của nó, và đôi khi là đồng minh chính trị. Khẳng quyết một sự đe dọa của Trung Quốc và mời gọi các nước khối ASEAN tham gia vào một liên hiệp chống lại Trung Quốc là một phương thức thất bại về chính sách. Thay vào đó, Hoa Kỳ phải trình bày rành mạch một thị kiến giúp cho các nước Á Châu đối phản với sự tái áp đặt quyền bá chủ cổ đại của Trung Quốc. Tưởng kiến đó phải bao gồm các nguyên tắc truyền thống của Tây Phương về thương mại mở ngỏ, độc lập chính trị, và chủ quyền lãnh thổ.
Vấn Đề Biển Nam Trung Hoa
Sáu nước tuyên nhận các hòn đảo của Biển Nam Trung Hoa: Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Brunei. CHNDTQ và Đài Loan (như các chính phủ kình địch của “Trung Hoa”) tuyên nhận Biển Nam Trung Hoa nhờ bởi các chế tạo phẩm văn hóa, các sự ám chỉ văn chương mơ hồ, và sự chiếm đóng trắng trợn. Việt Nam cũng tuyên nhận tất cả các hòn đảo tại Biển Nam Trung Hoa dựa phần lớn trên các tài liệu lịch sử, sự từ bỏ bằng khoán của Nhật Bản thời hậu chiến trên các đảo nhỏ Biển Nam Hải (South Sea [?]), và di sản của các chứng từ thực dân Pháp đối với vài đảo nhỏ then chốt tại Biển Nam Trung Hoa (South China Sea). Phi Luật Tân, Mã Lai, và Brunei tuyên nhận toàn thể hay một phần giải biển phía nam của Biển thuộc Quần Đảo Spratly [Trường Sa trong tiếng Việt, chú của người dịch] dựa phần lớn trên Khu Kinh Tế Độc Quyền (KKTĐQ) và thềm lục địa liên hệ của chúng. Theo Công Ước UNCLOS, một KKTĐQ kéo dài 200 hải lý kể từ mực nước xuống thấp trên bờ biển của một nước. Bản đồ được ấn hành của Trung Quốc về Biển Nam Trung Hoa cho thấy một đường đứt khúc kéo đài mãi tới KKTĐQ của Đảo Natuna của Indonesia, có tiềm năng mở rộng số nước tuyên nhận đụng chạm nhau lên bảy nước.
Vấn đề này không phải là một vấn đề pháp lý bí hiểm, mà là một một đe dọa nguy hiểm và gần cận cho kinh tế hoàn cầu và cho sinh thái trong vùng. Các tuyến giao thông đường biển xuyên qua Biển Nam Trung Hoa nối liền Âu Châu và Á Châu, biến biển này trở thành một trong các hải đạo bận rộn nhất trên thế giới. Gần một nửa trọng tải bằng tàu của thế giới đi ngang qua nó, và từ Trung Đông một phần quan trọng của số dầu hỏa cho vùng đông bắc Á Châu. Biển Nam Trung Hoa cùng giàu chất hydrocarbon (nhiên liệu đốt cháy) dưới nhiều hình thái khác nhau, và sự khai thác trọn vẹn các nguồn tài nguyên này bị ngăn trở bởi các ranh giới không được giải quyết và sự dọa nạt quân sự trắng trợn. Sau cùng, bởi việc đánh cá thái quá, hiện có một sự sụt giảm rõ rệt trong tổng số cá đánh đựoc, dẫn dắt các ngư phủ đến việc sử dụng các kỹ thuật hung bạo hơn. Không có sự thỏa thuận đa phương để điều hòa việc đánh cá tại Biển Nam Trung Hoa, kỹ nghệ đánh cá và sinh thái biển đang mau chóng tiến tới thảm họa.
Sự tuyên nhận của Trung Quốc. Mọi nước yêu sách chứng minh các sự tuyên nhận lãnh thổ liên hệ của họ sử dụng các định nghĩa được giải thích cặn kẽ của các điều khoản thuộc Công Ước UNCLOS. Tuy nhiên, chỉ mình Trung Quốc trưng bày một sự kết hợp các sự tuyên nhận lãnh thổ bao quát; sức mạnh kinh tế, chính trị, và quân sự; một lập trường ngoại giao không thỏa hiệp; và một sự hung hăng lộ liễu trong việc theo đuổi các mục tiêu của nó. Sự kết hợp độc đáo các đường nét này biến Bắc Kinh tức thời trở thành một tác nhân quan trọng nhất trong việc giải quyết các sự tranh chấp lãnh thổ và là trở ngại lớn nhất để giải quyết như thế.
Khi sự thảo luận hướng đến ngoại giao và một giải pháp bằng thương thảo cho sự tranh chấp, Bắc Kinh khăng khăng nhắc nhở tất cả các nước tuyên nhận khác rằng Biển Nam Trung Hoa là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Trung Quốc và từ chối thương thảo trừ khi các bên chấp nhận chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc. Đến nay, chiến thuật của Trung Quốc là chỉ tham gia đàm phán song phương và né tránh sự phân xử khách quan xuyên qua các thủ tục trong Công Ước UNCLOS hay của bất kỳ bên ngoài nào khác. Ngoài ra, Trung Quốc đã đưa ra các lời tuyên bố và nêu lên các định nghĩa nặng tính chất giải thích làm phức tạp quá mức tiến trình giải quyết và đặt Trung Quốc vào một đường hướng đụng độ với phần còn lại của thế giới hải hành.
Các thềm lục địa và tính không thực tiễn của việc vẽ các ranh giới duyên hải cho các nước có bờ biển phức tạp và lõm sâu, như Na Uy, hay cho các quốc gia vòng cung đảo, chẳng hạn như Phi Luật Tân hay Nam Dương, được thừa nhận như trong các điều khoản của Công Ước UNCLOS nơi Điều 7 (“các đường cơ sở thẳng hàng”), Điều 47 (“các đường cơ sở vòng cung đảo”), và các Điều 76 và 77 (“thềm lục địa”). Các điều khoản này cho phép các nước vẽ các đường ranh giới thẳng hàng ngang qua các hòn đảo hay các địa hình duyên hải gần sát nhau hay phức tạp chừng nào chúng không can thiệp vào sự tự do hải hành thông thường. Tuy nhiên, Bắc Kinh mở rộng các định nghĩa của các điều khoản này bằng việc áp dụng chúng cho các hòn đảo và các địa hình duyên hải tuyên nhận của nó. 3
Ủy Ban Thường Vụ của Đại Hội Dân Tộc Toàn Quốc đã chấp nhận “Luật về Lãnh Hải và Các Khu Tiếp Giáp của Chúng” (Luật Lãnh Hải) hôm 25 Tháng Hai, 1992. Đạo luật này không xác định cụ thể sự tuyên nhận lãnh thổ chính xác của Trung Quốc, nhưng có khẳng định chủ quyền trên các Quần Đảo Paracel (Hoàng Sa) và Spratly. Hơn nữa, Trung Quốc đã ấn hành một bản đồ cho thấy toàn thể Biển Nam Trung Hoa từ Đảo Hải Nam cho đến Đảo Natuna của Indonesia trong một vòng bao quanh là lãnh hải. Trong năm 1993, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đoan quyết bằng miệng với đối nhiệm Indonesia rằng Đảo Natuna quan trọng về mặt kinh tế và đông dân cư không được tuyên nhận bởi Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh từ đó đà không xác nhận một cách chính thức sự phát biểu không chính thức đó.
Theo Công Ước UNCLOS và tập tục quốc tế, “lãnh hải” kéo dài mười hai hải lý từ mực nước thấp dọc theo bờ biển của một nước. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh ký kết Công Ước UNCLOS, nó đã bao gồm các sự tuyên bố nêu ra các định nghĩa về lãnh hải và các quyền hạn của các nước duyên hải khác biệt với những gì được viết ra trong Công Ước UNCLOS. Cùng với nhiều điều khác, Trung Quốc đã tuyên bố rằng:
Chiếu theo các điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, Công Hòa Nhân Dân Trung Quốc sẽ thụ hưởng các quyền chủ quyền và quyền tài phán trên một khu kinh tế độc quyền rộng 200 hải lý và thềm lục địa.
Công Hòa Nhân Dân Trung Quốc sẽ thi hành, xuyên qua các sự tham khảo, sự phân định ranh giới của quyền tài phán trên biển với các quốc gia có bờ biển đối diện hay kề cận với Trung Quốc, lần lượt, trên căn bản của luật quốc tế và phù hợp với nguyên tắc công bằng.
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc tái khẳng định chủ quyền trên tất cả các vòng cung đảo và các hòn đảo được liệt kê nơi Điều 2 Luật của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải và Khu Tiếp Giáp, được ban hành ngày 25 Tháng Hai, 1992.
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc tái khẳng định rằng các điều khoản của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển liên can đến sự thông hành vô tư xuyên qua lãnh hải sẽ không làm phương hại đến quyền của một quốc gia duyên hải để đòi hỏi, chiếu theo luật và các quy định của nó, một quốc gia ngoại quốc phải có sự chấp thuận trước từ hay đưa ra sự thông báo trước đến quốc gia duyên hải về sự thông hành của các tàu chiến của nó, ngang qua lãnh hải của quốc gia duyên hải.
Các sự tuyên bố này đã thay đổi đáng kể ý nghĩa của các điều khoản của Công Ước UNCLOS và trái ngược rõ rệt với các luật biển truyền thống. Trung Quốc tuyên nhận KKTĐQ của nó không chỉ là một ranh giới kinh tế mà còn là lãnh thổ chủ quyền, chính từ đó nới dài biên giới trên biển của nó 200 hải lý. Bắc Kinh cũng đang tuyên nhận rằng các hòn đảo và các rạn san hô không người cư trú của Biển Nam Trung Hoa là lãnh thổ của Trung Quốc và, chính vì thế, cũng có KKTĐQ nới dài thêm 200 hải lý từ mỗi hòn đảo hay rạn san hô trong số các đảo, và thềm lục địa nới dài đến mức Bắc Kinh lựa chọn để vạch ra. Sau cùng, các sự tuyên bố đã mở rộng lớn lao các đặc ưu quyền của Trung Quốc như một quốc gia duyên hải qua việc khẳng quyết rằng các tàu chiến đi qua lại vô tư phải trước tiên có sự cho phép của Trung Quốc, một lần nữa vi phạm cả Công Ước UNCLOS lẫn các luật truyền thống về biển.
Lập trường của chính phủ Trung Quốc có các hàm ý trực tiếp đối với các nền kinh tế trong vùng, sự tự do phi hành trên không gian toàn cầu và các hạm đội trên mặt biển, và các lực lượng hải và không quân Mỹ. Nếu Trung Quốc được hưởng quyền thi hành chủ quyền của nó trên Biển Nam Trung Hoa, khi đó các thương thuyền đi ngang qua Biển đó, bất kể mang cờ nước nào, sẽ phải tuân theo luật và các quy định của Trung Quốc và bất kỳ lệ phí, thuế quan hay các sự hạn chế nào khác mà Trung Quốc có thể lựa chọn để áp đặt. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ có các quyền khoáng sản và đánh cá độc quyền trên một Biển mà các nước duyên hải khác lệ thuộc để có một phần đáng kể trong lợi tức tài nguyên thiên nhiên của họ. Sau cùng, sự khẳng quyết của Trung Quốc rằng bất kỳ tàu chiến nào đi ngang qua Biển Nam Trung Hoa phải được cho phép trước sẽ vô hiệu hóa các quyền của các tàu chiến ngoại quốc thực hiện sự thông hành vô tư. Hơn nữa, các tàu chiến đi ngang qua lãnh hải có các hạn chế nghiêm ngặt áp dụng cho các hoạt động của chúng.
Các hạn chế này, nếu được áp dụng cho toàn thể Biển Nam Trung Hoa, sẽ giới hạn nghiêm trọng các hoạt động của Hải Quân Hoa Kỳ và cản trở khả năng của nó để bảo vệ hải vận bằng tàu của cả Hoa Kỳ lẫn quốc tế. Hơn nữa, theo lập trường của Trung Quốc, sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về các hoạt động của máy bay thám thính EP-3 gần đảo Hải Nam hồi Tháng Tư năm 2001; các hoạt động quấy rối nhiều lần chống các tàu hải quân Mỹ USNS Impeccable và Victorious trong mùa Xuân năm 2009; sự đụng chạm giữa một tàu ngầm của Trung Quốc với hệ thống đo lường tiếng động (sonar array) được kéo sau tàu USNS John McCain hồi Tháng Sáu năm 2009, và cuộc biểu dương lực lượng gần đây xuyên qua các cuộc thao diễn hải quân tại Hoàng Hải không phải là các biến cố biệt lập, mà đúng hơn các chương mới nhất trong chiến dịch của Trung Quốc để khẳng định chủ quyền của nó trên Biển Nam Trung Hoa và rất có thể là những hiệp đầu tiên trong một trận đấu xô đẩy leo thang giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Sự Tuyên Nhận Của Trung Quốc Mạnh Mẽ Ra Sao? Trong thế kỷ thứ 9, một thuyền buồm Ả Rập (dhow) bị đắm ngoài khơi Đảo Belitung, tại phần giờ đây thuộc hải phận Indonesia, phần vươn xuống phia nam của Biển Nam Trung Hoa. Chiếc thuyền chất đầy 60,000 sản phẩm bằng vàng, bạc, và đồ sứ tuyệt đẹp rõ ràng đi từ đô thị hải cảng miền nam Trung Hoa, Thành Phố Quảng Châu, và được chở đến các thị trường tại Đông Nam Á. Thuyền buồm Ả Râp (dhow) được khám phá trong năm 1998 bởi các ngư phủ Indonesia và giờ đây được xem là một trong các sự khám phá quan trọng nhất trong ngành khảo cổ tại biển.
Xác tàu chìm ở Belitung không phải là một thương thuyền của Trung Hoa (Triều Đại nhà Đường không có một văn hóa đi biển hoạt động), nhưng nó có tính cách biểu tượng cho sự vượt trội tại Đông Á trong ý thức hệ mới quy tập về Trung Hoa của Trung Quốc. Sự tuyên nhận của chính quyền Trung Quốc đối với Biển Nam Trung Hoa được dựa một phần trên các di tích cổ xưa, các đồng tiền, các mảnh gốm vỡ, v.v… rải rác tại các đảo nhỏ của Biển Nam Trung Hoa. Sự kiện rằng các chế tác phẩm này chắc hẳn không phải để lại bởi các thủy thủ Trung Hoa có vẻ không ảnh hưởng gì đến các tuyên nhận kỳ dị của Bắc Kinh.
Bắc Kinh cũng không thể chứng minh rằng đã từng có người dân Trung Quốc cư trú thường trực tại các Quần Đảo Paracel và Spratly, bởi chúng không thể cư trú được. Nhiều đảo nhỏ hoàn toàn hay từng chập chìm dưới mặt nước. Các đảo khô nhất thiếu các nguồn nước ngọt, và các địa hình thấp này thường chịu ảnh hưởng gió mùa theo thời tiết. Ngày nay, dân số duy nhất của các đảo và rạn san hô này là các đội quân đồn trú được duy trì với phí tổn bao la cho chính phủ liên hệ của chúng và với sự rủi ro cá nhân to lớn cho các thành viên của họ. Các đảo này không có cách gì có thể được nói là có “một đời sống kinh tế của riêng chúng” và hậu quả không có năng lực làm phát sinh KKTĐQ của chính chúng chiếu theo Điều 121 của Công Ước UNCLOS.
Trung Quốc cũng trưng dẫn nhiều văn liệu lịch sử lạc đề, đáng ngờ vực, mơ hồ khác nhau có niên đại trở lùi hơn 2,000 năm trong nỗ lực lập chứng cho chủ quyền tuyên nhận của nó tại Biển Nam Trung Hoa. 4 Không có gì để nghi ngờ, các nhà thám hiểm và các ngư phủ Trung Hoa đã lái thuyền tại Biển Nam Trung Hoa trong hai nghìn năm, và một số có ghi chép lại các sự thám hiểm của mình, nhưng điều rõ ràng không kém rằng người Trung Hoa trong truyền thống đã xem đảo Hải Nam là tiền đồn cực nam của nền văn minh của họ, chắc chắn mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 19. 5
Các tài liệu Trung Hoa cổ xưa đã không bác bỏ các sự tuyên nhận của Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Btunei, hay Indonesia. Khảo cổ học quan trọng cho thấy các giống dân Đông Nam Á ngày nay đã từng sinh sống trên các vòng cung đảo đó từ lâu, trước khi có lịch sử thành văn của Trung Quốc. Vài đợt người định cư đã đến các vòng cung đảo Indonesia và Phi Luật Tân lùi xa đến tận 250,000 năm trước. Các người dân này đã lái hay chèo thuyền trên Biển Nam Trung Hoa để đến nơi các hậu duệ của họ đang sinh sống ngày nay. Mặc dù các Quần Đảo Spratly và Paracel thì quá nhỏ cho sự cư trú thường trực, dân chúng của tất cả các nước duyên hải đã đánh cá và khai thác chúng về mặt kinh tế trước khi Trung Quốc được khai sinh.
Đối với các nước ven bờ Biển Nam Trung Hoa, các sự tuyên nhận của Trung Quốc tương tự như việc một trong các láng giềng của bạn tuyên nhận toàn thể con đường trước mặt nhà bạn là tài sản riêng tư của anh ta. Hơn nữa, anh ta còn tuyên nhận rằng vỉa hè, lối lái xe, và sân trước của bạn, cho tới thềm cửa cũng thuộc về anh ta. Các kẻ phòng vệ vũ trang của anh ta đậu xe trên lối ra vào của bạn, và anh ta hái hoa của vườn nhà bạn. Nếu bạn hay các làng giềng của bạn phản đối, anh ta phủ nhận hiệu lực bằng khoán của bạn và từ chối giải quyết tại tòa án. Nếu một người nào dó khẳng quyết các quyền tài sản của mình, khi đó quân phòng vệ của anh ta sẽ đánh đập người đó.
Các Thị Kiến Cạnh Tranh Nhau
Cộng Đồng Quốc Tế, cầm đầu bởi Hoa Kỳ, đang sẵn theo đuổi một dự kiến về tương lai của Đông Nam Á và sự giải quyết các sự tranh chấp tại Biển Nam Trung Hoa cạnh tranh với thế giới quan của Trung Quốc. Tưởng kiến của thế giới về các quốc gia – dân tộc (nation states) là thị kiến của mô hình Westphalia về các nước độc lập với các lãnh thổ chủ quyền. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển là các sự thể hiện của mô hình đó. Thị kiến của Trung Quốc, mặt khác, là một trật tự thế giới của Trung Quốc, một bộ mặt mới cho hệ thống triều cống cổ đại của Trung Hoa trong đó Trung Quốc là quyền lực trung tâm và Bắc Kinh là đầu cực chính trị toàn cầu.
Các nước Đông Nam Á đã sẵn chấp nhận mô hình Westphalia làm mô hình của chính họ và đã thành lập khối ASEAN như một sự phòng thủ công nhiên cho chủ quyền và nền độc lập của các nước thành viên. Tuy thế, hệ thống triều cống là một phần quen thuộc trong lịch sử Đông Nam Á và với giá độc lập mà nó chấp nhận được, đặc biệt, như một giải pháp thay thế cho sự chạm trán với quyền lực quân sự của Trung Quốc.
Trật Tự Thế Giới Của Trung Quốc. Cơ chế của hệ thống triều cống thường được mô tả là tương đối nhu hòa. Các nước dâng cống phẩm, các vị quốc vương hay các sứ giả của họ thi hành một nghi lễ khấu đầu (kowtow) trước hoàng đế Trung Hoa, thừa nhận quyền bá chủ của ông ta, và đổi lại họ được trao tặng các tặng phẩm đắt giá và cấp cho các đặc nhượng mậu dịch sinh lợi nhuận. Theo các sử gia tán dương quan điểm này về hệ thống triều cống, các hoàng đế Trung Hoa hiếm khi can thiệp vào công việc nội bộ của một nước và đã không thụ tạo về mặt lãnh thổ.
Thực tại rằng các hoàng đề Trung Hoa đã nhìn các vương quốc chư hầu của họ theo cùng cách mà các nhà vua Âu Châu nhìn dến các thuộc địa của mình: Hoàng đế không ngần ngại sử dụng vũ lực quân sự để bảo vệ tài sản của mình. Thí dụ, trong thế kỷ thứ 15, một vị vua triều cống tại đảo Java của Indonesia đã giết chết vài sứ giả của đế triều Trung Hoa được phái đi để thừa nhận sự tấn phong cho một “nhà vua” tự xưng tại một thuộc địa của Trung Hoa ở Palembang, một thuộc địa vốn đã lệ thuộc triều đình Java. Để đáp ứng, hoàng đế [Trung Hoa] đã phái một hạm đội hải quân to lớn đến trao một văn thư nói rằng, “Nhà ngươi phải tức thời gửi 60,000 lạng vàng để chuộc tội của mình, thời nhà nguơi có thể bảo tồn đất nước và dân chúng của nhà nguơi. Nếu không chúng ta không thể ngăn chận các đội quân của chúng ta khỏi việc trừng trị nhà ngươi”. 6
Khi đảng Cộng Sản Trung Quốc soán ngôi của hoàng đế vào năm 1947 [sic] nó tìm cách giành lại sự kiểm soát trên toàn thể lãnh địa cũ của đế quốc. Học giả về Trung Hoa khả kính John K. Fairbanks đã mô tả thế giới quan của Trung Quốc bằng những vòng tròn đồng tâm với một “Khu Vực Trung Hoa: Sinic Zone” bên trong gồm các nước lân cận có văn hóa tương tự, “Khu Vực Nội Á: Inner Asia Zone” gồm các nước triều cống ở ngoại vi của lãnh thổ Trung Quốc, và “Khu Vực Vòng Ngoài: Outer Zone” của các kẻ man rợ. Vương Quốc Kashgar từng có thời là một quốc gia triều cống nằm ở Khu Vực Vòng Ngoài, trái với Triều Tiên, thuộc vào Khu Vực Trung Hoa bên trong. Ngày nay Vương Quốc Kashgar là một phần của một tỉnh của Trung Quộc được cải danh là Tân Cương (Xinjiang). Mặc dù cũng chính thuộc địa này đã từng hai lần tuyên bố độc lập thành Cộng Hòa Đông Turkistan (East Turkistan Republic) (trong năm 1933 và 1944), Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân [Trung Quốc] “đã giải phóng một cách hòa bình” quốc gia độc lập ra khỏi bản thân nó trong năm 1949.
Công Hòa Nhân Dân Trung Quốc không có sức mạnh để mở rộng ảnh hưởng của nó đến tất cả các chư hầu cũ. Triều Tiên thoát khỏi số phận của Kashgar do sự trổi dậy của đế quốc Nhật Bản. Triều Tiên đã trở thành một chiến trường giữa Đế Quốc Trung Quốc và Đế Quốc Nhật Bản, và đã đựoc giành thắng bởi Hoàng Đế Nhật Bản trong năm 1895. Bất kể các hồi ức đau thương về sự chiếm đóng của Nhật Bản, tia sáng hy vọng cho người dân Hàn Quốc ngày nay rằng sự thuộc địa hóa của Nhật Bản và kết cuộc của Thế Chiến II đã ngăn cản Trung Quốc không sáp nhập Triều Tiên như nó đã làm đối với East Turkstan và Tây Tạng.
Luận đề rằng Triều Tiên có thể chia sẻ cùng số phận của các quốc gia chư hầu Trung Hoa trước đây không chỉ là sự ức đoán mà là ý kiến được cứu xét đến của Viện Hàn Lâm về Khoa Học Xã Hội Trung Quốc. Trong năm 2002, chính phủ Trung Quốc đã mở ra một nỗ lực nghiên cứu được gọi là Dự Án Đông Bắc. Trong năm 2004, các nhà nghiên cứu dự án từ Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc có tuyên bố rằng Vương Quốc cổ đại Triều Tiên có tên Koguryo đã không phải là một vương quốc độc lập, mà là một tỉnh của Trung Quốc. Cùng năm, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã gỡ bỏ mọi sự tham chiếu đến Koguryo như một thời kỳ trong lịch sử Triều Tiên ra khỏi trang mạng của nó. Chính phủ Trung Quốc cũng làm chủ các nỗ lực nghiên cứu tương tự được gọi là Dự Án Tây Bắc và Dự Án Tây Nam lần lượt cho Tân Cương và Tây Tạng. Có lẽ chỉ còn là một vấn đề thời gian trước khi Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc phóng ra các dự án nghiên cứu mới về các cựu chư hầu của Trung Hoa tại Đông Nam Á.
Đông Nam Á cũng nợ sự độc lập đương thời của nó nơi sự chiếm đóng của ngoại quốc. Giữa các thế kỷ thứ 17 và 19, các cường quốc Âu Châu đã mở rộng các đế quốc của họ đến nhiều quốc gia triều cống của Trung Hoa khắp miền Nam Á Châu và Đông Nam Á Châu, kể cả Việt Nam và vài vương quốc đã trị vì tại các vùng thuộc Phi Luật Tân và Indonesia ngày nay. Người Nhật và người Âu Châu đã giật các quốc gia này khỏi tay hoàng đế Trung Hoa yếu đuối bằng điều mà Trung Quốc ngày nay chế diễu là “các hiệp ước bất bình đẳng”, và họ đã biến các thuộc địa của Trung Hoa thành các thuộc địa của Âu Châu. Sau khi đế quốc Nhật Bản bị phá hủy trong Thế Chiến II và các đế quốc Âu Châu triệt thoái khỏi Á Châu, di sản quan trọng nhất của sự chiếm đóng của họ là khái niệm sót lại về các quốc gia độc lập và có chủ quyền. Trung Hoa thì quá yếu để tái khẳng định sự kiểm soát trên các quốc gia triều cống cũ chống lại sự phản đối của Âu Châu và Mỹ, và các nước mới xây dựng trên các khuôn mẫu ranh giới của các cựu thuộc địa được giải thoát, ít nhất trong tạm thời, ra khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.
Trong sự theo đuổi các tham vọng của Bắc Kinh, Trung Quốc bác bỏ “các hiệp ước bất bình đắng đã thương thảo với Nhật Bản và các cường quốc Âu Châu và đặt các sự tuyên nhận lãnh thổ hiện thời của nó trên các mối quan hệ triều cống thời tiền thuộc địa. Thí dụ, giữa các năm 1922 và 2000 Trung Quốc và Việt Nam đã thương thảo các ranh giới trên biển tại Vịnh Bắc Việt của họ. Căn bản cho sự tuyên nhận của Việt Nam tại Vịnh là một hiệp ước năm 1887 giữa Pháp và Trung Hoa đã ấn định các biên giới ngày nay của Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ không thừa nhận hiệu lực của bản hiệp ước hay các sự tuyên nhận lịch sử của Việt Nam. 7 Một hiệp định sau rốt đã được đồng ý, nhưng hiển nhiên là quá bất bình đẳng đối với Việt Nam, đến nỗi Hà Nội đã cố giữ kín các điều khoản trong nhiều năm. Sau hết, một số điều khoản đã bị phát lộ, nung đốt các nhiệt tình dân tộc chủ nghĩa và đe dọa sự ổn định của chính phủ Việt Nam.
Bởi mọi nước tại Đông Nam Á đều thu nhận các biên giới hiện nay của nó từ các hiệp định và các thỏa ước thời thực dân (kể cả Thái Lan, vốn chưa hề là một thuộc địa của Âu Châu, nhưng có ký kết các hiệp định biên giới với các đế quốc Âu Châu), kinh nghiệm của Việt Nam có thể được dùng như sự cảnh báo cho bất kỳ nước nào trong khối ASEAN toan tính thương thảo một cách song phương với Trung Quốc. Dù thế, không lâu sau khi Việt Nam ký kết các hiệp định biên giới với Trung Quốc, Tổng Thống Gloria Macapagal Arroyo của Phi Luật Tân đã có một sự thỏa thuận với Trung Quốc, trong năm 2004, về việc thăm dò dầu hỏa. Giống như Việt Nam, bà ta cũng cố giữ các điều khoản trong vòng bí mật, nhưng không thành công. Phụ Lục “A” bí mật trước đây cho thấy rằng các ranh giới được phân định bao gồm cả các khu vực rộng lớn thuộc KKTĐQ của Phi Luật Tân. Trong tổng số gần 150,000 cây số vuông được bao trùm trong thỏa ước, khoảng 24,000 cây số vuông gồm cả phần lãnh thổ trên biển trước đây chỉ được tuyên nhận bởi Phi Luật Tân. Khi các điều khoản của hiệp định bí mật bị phơi bày sau hết, các nhiệt tình dân tộc chủ nghĩa một lần nữa được bùng cháy. Amado Macasaet, nhà xuất bản tạp chí Phi Luật Tân được yêu chuộng và kính trọng, tờ Malaya, đã đi xa đến mức nói rằng Tổng Thống Arroyo phải bị buộc tội phản quốc về việc ký kết các sự thỏa thuận mà ông cho rằng đã được đưa ra để đổi lấy các khoản vay “được cai quản bởi sự hối lộ và tham nhũng”. Ngay cả sau khi bị lật đổ, cựu Tổng Thống Marcos còn được yêu chuộng hơn bà Arroyo.
Đối với các cựu thuộc địa của Trung Quốc, có ít lý do để tin tưởng rằng việc nhượng bộ Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa sẽ thỏa mãn lòng thèm khát lãnh thổ hay quyền bá chủ. Trong trật tự thế giới Trung Quốc, Trung Quốc không phải là một nước trong một cộng đồng mà là nước văn minh cổ xưa nhất giữa các nước đang lên. Chủ quyền của bất kỳ nước nào tối hậu có được là do Trung Quốc và mức độ độc lập tùy thuộc vào sự thẩm định của nó về “các quyền lợi lõi cốt’ của Bắc Kinh. Trong việc khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” của nó trên Biển Nam Trung Hoa, Bắc Kinh đang đặt các cột mốc của nó như thể để nói, “Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề này một cách dễ dàng, hay khó nhọc, nhưng nó sè là lối giải quyết của Trung Quốc”.
Các Nhận Thức Tại Đông Nam Á
Ngoại giao hung hăng của Mỹ tìm cách tập hợp một “liên minh đối cân” chống Trung Quốc chỉ có thể xác định các sự nghi ngờ của Trung Quốc về một chiến lược của Mỹ nhằm ngăn chặn Trung Quốc trong khi, cùng lúc, các hành động của Mỹ đang làm các chính phủ Đông Nam Á xa cách ra. Các thủ đô ASEAN thì lo ngại về Trung Quốc nhiều hơn Hoa Thịnh Đốn, nhưng họ cũng có thể bị xâm hại hơn nhiều trước các áp lực quân sự và kinh tế của Bắc Kinh và từ đó miễn cưỡng khiêu khích sự trả đũa của Trung Quốc. Một cách lý tưởng, khối ASEAN có được Hải Quân Hoa Kỳ chạy đến hoạt động tại Biển Nam Trung Hoa để duy trì hòa bình, trong khi ASEAN lúc đó ậm ừ phản đối từ bên lề và tái doan chắc với Trung Quốc rằng nó không dính dáng gì đến việc đó. Về mặt tinh thần, dĩ nhiên, ASEAN biết rằng nó phải làm tốt hơn điều đó. Hiểu biết về quan điểm của các nước khối ASEAN là bước đầu tiên để phát triển một chính sách quân bình và thích đáng.
Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân, Singapore, và Thái Lan đã thành lập khối ASEAN trong năm 1967 với mục tiêu được tuyên bố là nhằm tán trợ hòa bình và sự ổn định, nhưng mục đích quan trọng nhất là giành được sự chấp nhận của mọi hội viên nguyên tắc giống như Westphalia về “sự tôn trọng hỗ tương nền độc lập, chủ quyền, sự bình đẳng, sự vẹn toàn lãnh thổ, và căn cước dân tộc của mọi nước”. Trong thời Chiến Tranh Lạnh, khối ASEAN tiếp tục tiến hóa như một công cụ ngoại giao để ngăn chặn sự tranh giành của siêu cường trong vùng. Sau Chiến Tranh Lạnh, ASEASN đã tuyển mộ thêm Brunei, Miến Điện, Căm Bốt, Lào và Việt Nam, và đặt tiêu điểm vào sự phát triển kinh tế. Trong thế kỷ thứ 21, các vấn đề an ninh một lần nữa chiếm ưu tiên trong nghị trình của ASEAN. Trước tiên, chính nạn khủng bố quốc tế và nạn hải tặc trên biển đà gợi hứng cho sự hợp tác an ninh liên ASEAN, và giờ đây sự trổi dậy của Trung Quốc ngày càng đứng đầu nghị trình thảo luận về an ninh.
Trưng dẫn sự gia tăng mạnh mẽ gần đây trong số chi tiêu quân sự tại Đông Nam Á, một số nhà phân tích dự đoán rằng các nước này đang sẵn sàng chuẩn bị cho sự cạnh tranh quân sự với Trung Quốc. Thí dụ, Viện Nghiên Cứu Hòa Bình Quốc Tế tại Stockholm (Stockholm International Peace Research Institute) có tường thuật rằng các sự nhập cảng vũ khí vào Indonesia, Singapore,và Mã Lai đã gia tăng, một cách lần lượt, 84%, 146%, và 722% trong năm năm qua. Trong cùng thời khoảng, ngân sách quốc phòng của Thái Lan đã tăng gấp đôi. Một số các nhà phân tích lập luận rằng sự gia tăng khổng lồ trong chi tiêu quốc phòng này là một chỉ dấu cho sự quan ngại của Đông Nam Á về sự đe dọa của Trung Quốc. Không may, giống như nhiều hoạt động do chính phủ dẫn đầu tại Đông Nam Á, phần thực chất yếu kém hơn nhiều so với những gì mà các dữ liệu sống làm ta liên tưởng.
Thí dụ, tại Mã Lai, việc mua trị giá hàng tỷ mỹ kim hay được trưng dẫn, các tàu ngầm của Pháp và nhiều hệ thống vũ khí đắt tiền khác có lẽ dính dáng nhiều đến nạn tham nhũng quá mức hơn là với việc hoạch định quốc phòng chiến lược. 8 Trong thực tế, lịch sử của các vụ mua vũ khí tại Mã Lai rõ ràng gánh chịu sự tham nhũng — một cách trang điểm các lực lượng vũ trang của nó bằng các vũ khí đắt tiền, kém tập trung làm phức tạp cho sự tiếp vận mà không làm gia tăng giá trị chiến đấu.
Tại Thái Lan, sự tăng cường quân đội hiện thời chỉ bắt đầu sau khi cuộc đảo chính năm 2006 của Quân Đội Hoàng Gia Thái Lan lập ra một chính phủ lệ thuộc Quân Đội. Hơn nữa, mặc dù các tướng lĩnh tán thành một chính sách quốc phòng thân Mỹ với các viên chức Mỹ sang thăm viếng, các số trang cụ tạo mãi của họ là từ một hỗn hợp khác thường của các công ty không phải Hoa Kỳ. Từ một quan điểm tiếp vận, một sự triển lãm trang bị quân sự thì khó khăn và tốn kém để bảo dưỡng; mặt khác, sử dụng các nhà cung cấp vũ khí nhỏ hơn, không phải Hoa Kỳ, có thể mang lại cho các sĩ quan Thái Lan sự tiếp cận dễ dàng hơn với các khoản hối lộ.
Tại Phi Luật Tân, nước Đông Nam Á thứ nhì chỉ sau Việt Nam trong tình trạng dễ bị xâm kích trước sức mạnh khổng lồ của Trung Quốc, an ninh quốc gia đã phải nhường bước trước chính trị nội bộ. Kể từ biến cố 11 Tháng Chín, Hoa Kỳ đã tham gia vào một nỗ lực bền bỉ để cải thiện các năng lực của Quân Lực Phi Luật Tân. Tổng số viện trợ của Hoa Kỳ đà tăng gấp ba lần từ khoảng $38 triệu trong năm 2001 lên gần tới $120 triệu trong năm 2010. Ngoài ra, không kể đến các khoản tiền trợ giúp lên đến hàng triệu đồng được chi tiêu trong một loạt đang tiến hành các cuộc thao diễn quân sự hùng hậu giữa Hoa Kỳ và Phi Luật tân được thiết kế nhằm cải thiện các năng lực của Quân Lực Phi Luật Tân. Không may, bất kể các nỗ lực thành thật của Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, đã chỉ có các sự cải thiện biên tế trong Quân Lực Phi Luật Tân.
Sự thiêu vắng sự cải thiện này liên quan với ngân sách quốc phòng sụt giảm của Phi Luật Tân. Trong khi viện trợ Hoa Kỳ gia tăng, Quốc Hội Phi Luật Tân lại cắt giảm ngân sách quốc phòng. Ngoài mối đe dọa của Trung Quốc, Phi Luật Tân cũng bị vây hãm bởi nhiều cuộc nổi dậy nội bộ, song phần lớn trang bị của Quân Lực Phi Luật Tân thuộc thời Chiến Tranh Việt Nam và ngân sách quốc phòng hiện nay chỉ vào khoảng một phần trăm của GDP (Tổng Sản Lượng Nội Địa Gộp), hay vào khoảng 1.16 tỷ [mỹ kim] trong năm 2009. Bất kể, hay có lẽ bởi có sự viện trợ không bủn xỉn của Mỹ, nhiều chính trị gia Phi Luật Tân, kể cả vị Tổng Thống mới được bàu cử, Benigno Aquino III, cảm thấy rằng họ còn đáng hưởng nhiều hơn nữa. Phớt lờ sự thông đồng của chính họ trong việc xét cấp không đủ ngân khoản cho các lực lượng an ninh Phi Luật Tân, các chính trị gia này đang kêu gọi một sự tái duyệt Thỏa Ước Các Lực Lượng Thăm Viếng (Visiting Forces Agreement, thỏa ước cho phép sự hiện diện quân sự của Mỳ để giúp huấn luyện Quân Lực Phi Luật Tân). Sự phản đối của họ rằng Hoa Kỳ không làm đủ để hiện đại hóa Quân Lực Phi Luật Tân, và họ tưởng tượng Thỏa Ước Các Lực Lượng Thăm Viếng như một công cụ làm đòn bẩy cho các sự trợ cấp quân sự nhiều hơn bao giờ hết từ Hoa Kỳ.
May mắn, bức tranh an ninh tại Đông Nam Á không chỉ toàn việc mua chuộc và lười biếng. Cả Việt Nam lẫn Indonesia đang thực hiện các vụ tạo mãi vũ khí quan trọng nhằm tăng cường an ninh quốc gia của họ. Hơn nữa, sau các thập niên đầu tư khôn ngoan, quân lực của Singapore có đẳng cấp thế giới và đến nay hùng mạnh nhất trong khối ASEAN.
Trên giấy tờ, tổng số lực lượng không và hải quân của khối ASEAN thì đáng nể. ASEAN phô bày một phi đội gồm 680 máy bay chiến đấu có cánh cố định, 412 tàu chiến đấu trên mặt biển, và 8 tàu ngầm của các hải quân cộng chung lại. 9 Các số lượng này không đủ để đánh bại QĐGPNDTQ hùng mạnh, với 2,300 phi cơ chiến đấu, 65 tàu ngầm, và 256 tàu chiến đấu trên mặt biển, nhưng chúng đủ để tác động như một lực khống chỉ nếu có được bất kỳ ý nghĩa nào về sự phòng thủ chung. Không may, ASEAN không phải là NATO: Không nước nào tại Đông Nam Á lại bị ràng buộc bởi hiệp định để trợ giúp nước khác trong trường hợp có một sự tấn công, và chỉ có it nỗ lực bản địa để phối hợp các hoạt động quân sự.
Indonesia là nước lớn nhất tại Đông Nam Á, chiếm 40% dân số toàn vùng; nó có nền kinh tế lớn nhất và là một nền dân chủ đang phát triển. Các quan điểm của Indonesia về các hoạt động của Trung Quốc phản ảnh thị kiến của Jakarta về chính mình như một kẻ lãnh đạo không chính thức của khối ASEAN. Nói chuyện tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế Học (Center for Strategic and International Studies) tại Washington, D.C., Bộ Trưởng Ngoại Giao của Indonesia, Marty Natalegawa có nói, “Đối với các hội viên của khối ASEAN, điều đáng lo sợ hơn là khả tính rằng Biển Nam Trung Hoa có thể là một diễn trường trung tâm cho sự tranh giành khả dĩ”. Mục đích của Indonesia, và nói chung cũng như bởi khối ASEAN, là đối cân Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc hầu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của họ.
Chính quyền Việt Nam nhận thức Trung Quốc không gì khác hơn một mối đe dọa có thực; một sự lo âu được chứng nhận bởi kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử được ghi chép của Việt Nam có niên đại trở lùi 2,700 năm. Trung Quốc đã chiếm đóng xứ sở hơn một nghìn năm trong thời khoảng đó và Hà Nội phải gánh chịu vị thế triều cống nặng nề cho phần lớn phần còn lại trong lịch sử của nó. Bất kể nhiều cuộc chiến tranh khó khăn và lâu dài với Trung Quốc, Hà Nội chỉ được hươ/ng sự độc lập đích thực trong các giai đoạn ngắn ngủi.
Kinh nghiệm của Hà Nội về Trung Quốc thời hậu đế quốc là thái độ bất chấp bền bỉ của Trung Quốc đối với chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Trong năm 1979, để trừng phạt Hà Nội vì các chính sách mà Bắc Kinh không ưa thích, Trung Quốc đã tấn công Việt Nam và chiếm đóng ngắn ngủi một phần của xứ sở. Ngoài ra, Hải Quân QĐGPNDTQ trong nhiều dịp đã tấn công và đánh chìm các tàu hải quân Việt Nam hoạt động ngay ngoài khơi miền nam Việt Nam và cách xa bờ biển Trung Quốc hàng trăm hải lý; binh sĩ Trung Quốc đồn trú trên các hòn đảo tí hon và bãi san hô bên trong KKTĐQ của Việt Nam; Hải Quân QĐGPNDTQ thường xuyên quấy rối hay bắt giữ các ngư phủ Việt Nam; và Bắc Kinh can thiệp vào các nỗ lực của Hà Nội để khai thác các tài nguyên khí đốt thiên nhiên nằm sâu trong KKTĐQ của Việt Nam. Dù thế, Việt Nam đã thận trọng không khiêu khích Trung Quốc và tiếp tục tìm cách giao hảo với Bắc Kinh.
Mặc dù Singapore không phải là một bên trong cuộc tranh chấp lãnh thổ trên biển tại Biển Nam Trung Hoa, và 75% dân số của nó là dòng giống Trung Hoa, các quan điểm của Singapore về một Trung Quốc đang trổi dậy chứng minh cho quy luật rằng khối ASEAN ngờ vực về các chủ định của Trung Quốc. Singapore là một nước đa chủng tộc, nhưng số đông trong dân số của nó là hậu duệ của các di dân Trung Hoa, phần lớn là các công nhân được nhập nội dưới thời cai trị của Anh Quốc. Bởi dân số di dân và sự thành công kinh tế của nó, một số nước trong vùng bất mãn với Singapore và thường lên tiếng nghi ngờ về lòng trung thành của họ. Mặc dù Singapore trong nhiều thập niên đã xây dựng các mối liên kết kinh tế mạnh mẽ với Trung Quốc, nó đã chờ đợi cho tới 1990 mới mở các quan hệ chính thức với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc – nước cuối cùng trong khối ASEAN làm như thế. Singapore tiếp tục sự liên kết kinh tế mạnh mẽ đó, nhưng sự hiếu chiến gần đây của Trung Quốc đã buộc Singapore phải tuyên bố chọn phe của nó.
Để trấn an các láng giềng của nó (và thông báo cho Trung Quốc) rằng Singapore không phải là một tỉnh của Trung Quốc, Thủ Tướng Singapore, Lee Hsien Loong (Lý Hiển Long) trong dịp lề Quốc Khánh Tháng Tám 2010, đã nêu lên một luận điểm để mô tả căn cước văn hóa độc đáo của Singapore, kể cả sự chấp nhận Anh ngữ làm quốc ngữ và nghệ thuật nấu ăn riêng biệt của Singapore. Để nhấn mạnh thông điệp đó, trong mục quan điểm chủ biên ngày 6 Tháng Chín, 2010 của tờ Strait Times, nhật báo toàn quốc và phát ngôn viên của chính phủ Singapore, nhấn mạnh rằng người dân Singapore không phải là Hoa kiều hải ngoại, nói rằng “từ ngữ ‘Hoa Kiều hải ngoại’ làm nhức nhối người dân Singapore thuộc mọi chủng tộc bởi vì nó ám chỉ rằng người Trung Hoa tại Singapore cách nào đó “là các người ở “hải ngoại”, tách biết với “đại lục”. Nó cùng hàm ý một ước muốn có thể “quay trở về” một ngày nào đó. Trong thực tế, phần lớn những người Singapore ở đây không phải là “người hải ngoại”. Họ có gốc rễ tại đây. Trong một bài quan điểm chủ biên khác mùa hè qua, tờ Strait Times đã chấp thuận một cách thận trọng chiều hướng mới của Hoa Thịnh Đốn đối với Biển Nam Trung Hoa và đã cảnh cáo Bắc Kinh rằng “các hành động của nó sẽ được canh chừng chặt chẽ về điều nó nói đến “sự trổi dậy hòa bình” của một cường lực đang vươn lên
Quan tâm lớn nhất của Singapore về chính sách mới của Hoa Kỳ không phải sự nồi lo sợ của việc khiêu khích Trung Quốc mà là ở sự hay thay đổi trong chính sách ngoại giao của Mỹ, một quan điểm phản ảnh lập trường bao quát hơn của khối ASEAN. Từ quan điểm của ASEAN, bất kể các thập niên của các lời tuyên bố đinh tai và các hành động biểu dương quân sự của Trung Quốc, Hoa Kỳ đã “đứng ngoài” cuộc tranh chấp; dường như không hay biết hay không quan tâm đến sự thụ tạo của Bắc Kinh tại Biển Nam Trung Hoa và các hàm ý đối với vùng này và toàn cầu. Thí dụ, khi Phi Luật Tân, một đồng minh theo hiệp định của Mỳ, khám phá ra một cơ sở hải quân Trung Quốc trên Rạn San Hô Mischief Reef, Hoa Thịnh Đốn đã không chia sẻ sự tổn thương của Manila và đã không tỏ lập trường về sự tranh chấp, ngay cả khi Trung Quốc tiếp tục bành trướng và mở rộng sự hiện diện của họ.
Nhưng các nước khối ASEAN thì mâu thuẫn về cả Mỹ và Trung Quốc. Họ yêu cầu sự ủng hộ và hiện diện của Mỹ để đối cân với Trung Quốc. Cùng lúc, nhiều nước khối ASEAN miễn cưỡng chấp thuận cho Hoa Kỳ quá nhiều sự tiếp cận. vì nỗi lo sợ phải thỏa hiệp về chủ quyền. Các nước khối ASEAN lo sợ sức mạnh quân sự và các ý định chính trị của Trung Quốc, nhưng họ lại chào đón sự đầu tư của Trung Quốc và các cơ hội mậu dịch tại thị trường bao la của Trung Quốc.
Sau cùng, các nước khối ASEAN còn lâu mới thống nhất trong quan điểm của họ về Trung Quốc như một mối đe dọa. Bốn nước khối ASEAN, Miến Điện, Căm Bốt, Lào, và Thái Lan, không phải là một bên trong cuộc tranh chấp lành thổ Biển Nam Trung Hoa. Hội đồng quân nhân cầm quyền của Miến Điện, một chế độ cùng đinh quốc tế, xếp hạng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc vào một ít các chính phủ thân thiện với nó và sẽ miễn cưỡng phòng vệ các đối tác trong khối ASEAN của nó chống lại sự xâm lấn của nước bảo trợ cho nó [Từ đầu năm 2011, chế độ quân phiệt Miến Điện đã chuyển trục, không còn dựa độc nhất vào Trung Quốc, và đã hướng sang phía thế giới dân chủ, chú của người dịch]. Thái Lan ở giữa sự phân hóa chính trị sâu xa và nhiều phần không tham gia vào một sự phòng thủ chung. Hơn nữa, giới tinh hoa của Thái Lan lấy làm hãnh diện về chính sách ngoại giao “cây tre” linh động của Thái Lan và nhìn thấy không có lý do để uốn mình theo chiều gió tách ra khỏi Trung Quốc. Các hoàng gia ở cả Thái Lan lẫn Căm Bốt giao hữu tốt đẹp với chính phủ Trung Hoa. Sau cùng, thủ tục quyết định đồng thuận của khối ASEAN có nghĩa rằng Bắc Kinh chỉ cần một phiếu chống đối để né tránh sự chỉ trích của khối ASEAN.
Tiến Về Phía Trước
Các nước Đông Nam Á dùng khối ASEAN để tạo lập một hàng rào ngoại giao quanh vùng. Tuy nhiên, như các biến cố gần đây cho thấy, một Trung Quốc vươn lên đang xô đẩy chống lại ranh giới đó và khối ASEAN giờ đây mong muốn sự hiện diện gia tăng của Hoa Kỳ để đối cân lại sự xâm lấn của Trung Quốc. Thực tế khắc nghiệt là ngay cả các hiệp định an ninh cứng rắn và sự hiện diện của các tàu chiến Mỹ không đủ để bảo vệ các nước Đông Nam Á nếu họ không có ý chí để tự phòng vệ. Các nước khối ASEAN phải hành động, một cách riêng rẽ và tập thể, để tạo lập một sự răn đe có thực lực chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc. Hày trích dẫn nhà thơ Robert Frost, “Các hàng rào tốt tạo ra láng giềng tốt”, và khối ASEAN thiếu mất sức mạnh định chế, sự cấu kết, và sự thống nhất mục đích để xây dựng một hàng rào tốt.
Trung Quốc đặt ra một sự đe dọa quân sự có thực và hiển hiện, nhưng khởi sự sự trợ giúp của Hoa Kỳ với sự củng cố quân sự của khối ASEAN tương tự với việc xây dựng một một ngôi nhà bắt đầu với mái nhà. Ưu tiên hàng đầu phải là việc các nước cá biệt hãy xây dựng nền móng cho ngôi nhà đó bằng việc thu dọn các hệ thống pháp lý của họ và giảm thiểu nạn tham nhũng. Ngoại trừ Singapore, mọi nước trong khối ASEAN đều bị đau nhức bởi các hệ thống pháp lý tham nhũng sâu xa. Tham nhũng tư pháp cực kỳ thất nhân tâm, được biết tại Indonesia như là “băng đảng mafia tư pháp” và sự trợ giúp của Hoa Kỳ trong việc đấu tranh chống lại nạn này sẽ được đón chào. Hoa Kỳ có một số chương trình, đặc biệt tại Bộ Tư Pháp và Nội An, có thể trợ giúp các nỗ lực cải cách tư pháp bản xứ và phải là ưu tiên hàng đầu trong sự trợ giúp cho vùng này.
Ưu tiên thứ nhì cho việc xây dựng ngôi nhà của khối ASEAN là các bức tường và các cộ trụ kinh tế sẽ chống đỡ cho mái nhà. Khối ASEAN đã thực hiện sự tiến bộ trong việc nới lỏng các hạn chế mậu dịch liên-ASEAN, nhưng nó phải tiếp tục mở rộng các nỗ lực đó, và các nước phải cải cách nền kinh tế nội bộ của họ để cho phép sự tăng trưởng kinh tế. Một lần nữa, Hoa Kỳ có nhiều bộ và cơ quan có thể và nên viện trợ phát triển kinh tế tại Đông Nam Á. Đặc biệt, Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ có thể thương thảo một hiệp định mậu dịch nâng cấp giữa Hoa Kỳ và khối ASEAN, có lẽ rập khuôn theo hiệp định mậu dịch Hoa Kỳ – Việt Nam vốn đã đóng góp rất nhiều trong việc trợ giúp các sự cải cách kinh tế của Việt Nam.
Tại Đông Nam Á, Hoa Kỳ trong một giai đoạn có thể cung cấp một cái thuẫn an ninh cho các nước ASEAN, nhưng cam kết đó phải không được trở thành một nghìa vụ không đáy. Các sự trợ cấp an ninh, giống như các khoản trợ cấp an sinh, mậu dịch, hay công nghiệp, có thể trở thành các khoản thụ hưởng đắt giá và sau hết thúc đẩy động thái trái ngược với ý định nguyên thủy của sự trợ cấp.
Một khi có sự cải thiện thực chất trong các hệ thống pháp lý và sự tăng trưởng trong các nền kinh tế, khi đó sức mạnh quân sự gia tăng sẽ tiếp nối một cách tự nhiên. Thoát khỏi gánh nặng của việc mua các hệ thống vũ khí với sự hữu dụng thực tế duy nhất là để làm giàu cho các chính trị gia hay các tướng lĩnh, sẽ làm gia tăng một cách đáng kể năng lực quân sự mà không tốn phí thêm một đồng xu nào. Hơn nữa, với các nền kinh tế quốc gia to lớn hơn và mạnh khỏe hơn, giới quân sự trong vùng sẽ giành được nhiều nguồn tài nguyên hơn cho việc hiện đại hóa mà không làm gia tăng gánh nặng trên các người thọ thuế. Ngũ Giác Đại sẵn có các chương trình viện trợ lành mạnh trong vùng, và các quân đội quốc gia cải thiện sẽ có khả năng tận dụng sự trợ giúp của Mỹ nhiều hơn.
Về mặt ngoại giao, khối ASEAN phải khởi sự các cuộc thương thảo liên-ASEAN về các biên giới nội bộ. Khởi sự tiến trình này có thể buộc Trung Quốc phải xin tham gia vào tiến trình đa phương, cho phép khối ASEAN ấn định các điều kiện của các sự thương thảo. Ngay dù Bắc Kinh sẽ không tham dự, một hiệp dịnh biên giới của khối ASEAN sẽ gây khó khăn cho ngoại giao của Trung Quốc và phá hỏng sự đe dọa song phương của nó.
Về mặt quân sự, khối ASEAN phải khởi sự tiến trình để cải thiện khả năng thực hiện sự phòng thủ quân sự tập thể. Việc xây dựng trên các bước tiến nhỏ đã sẵn bắt đầu – chiến đấu chống nạn khủng bố xuyên quốc gia, trấn áp nạn hải tặc trên biển, và cung cấp sự cứu trợ tai họa – các quân đội thuộc khối ASEAN cần khởi sự tìm kiếm các cơ hội để cải thiện việc thi hành các hoạt động liên hiệp. Các mục đích chính trị và ngoại gia được tuyên bố của khối ASEAN là nhằm bảo vệ chủ quyền và sự vẹn toàn lãnh thổ của các nước hội viên. Xây dựng một khả năng khống chỉ (răn đe) quân sự tập thể để phòng vệ các mục đích đó chống lại mọi đối thủ khả hữu không phải là một hoạt động chống lại Trung Quốc.
Sau cùng, mực địch của bài viết này không phải là để lập luận rằng Bắc Kinh sẽ nhất thiết thi hành các đặc ưu quyền cổ đại của nó, mà đúng hơn rằng ý thức hệ quy tâm về Trung Quốc là căn bản lịch sử từ đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ nhìn vào thế giới. Bắc Kinh phải bị thuyết phục để trở thành một kẻ tuân thủ hết lòng mô thức Westphalia. Cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Robert Zoellick thường nêu ý kiến rằng Trung Quốc cần trở thành một “có đặt tiền cược stakeholder” hơn nừa trong hệ thống quốc tế và rằng mục đích đó cần được giữ như là một mục tiêu chính sách dài hạn của Hoa Kỳ. Trong nửa sau của thế kỷ thứ 20, Trung Quốc đã hưởng lợi lớn lao từ các sự bảo vệ cố hữu của mô hình Westphalia về một quốc gia – dân tộc và hệ thống quốc tế bao quát hơn. Giờ đây bởi Trung Quốc đủ lớn mạnh để ảnh hưởng đến trật tự thế giới, nó không thể được phép để thiết lập một cấu trúc phân chia tầng lớp với Trung Quốc đòi hỏi các quyền lớn hơn các nước khác.
Các nhà lập chính sách tại Washington phải ghi nhớ rằng Trung Quốc hiện thời không phải là một mối đe dọa đến bất kỳ nước nào [vào năm 2011, khi bài viết này được ấn hành. Từ đó đến nay, 2014, Trung Quốc ngày càng có thái độ hung hăng hơn trong việc giành chiếm Biển Nam Trung Hoa và xâm phạm chủ quyền của Việt Nam và Phi Luật Tân, chú của người dịch]. Mặc dù có một tiềm năng đáng kể cho một sự đụng độ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nền ngoại giao hữu hiệu và sự trưởng thành chính trị gia tăng tại Bắc Kinh có thể ngăn ngừa bắt kỳ sự chạm trán nào như thế. Cách hay nhất để đạt được mục đích này là gắn chặt Trung Quốc vào các tổ chức đặt căn bản trên quy tắc và sau đó cương quyết đòi Bắc Kinh phải tuân thủ theo các quy tắc đó. Hiệp định về biển toàn cầu quan trọng nhất là Công Ước UNCLOS, nhưng Hoa Kỳ vẫn chưa phê chuẩn bản hiệp ước và do đó có ít quyền lực để ảnh hưởng dến sự thi hành công ước cho bằng Trung Quốc. Cách thức duy nhất để Hoa Kỳ có được một ghế ngồi tại bàn họp UNCLOS là phê chuẩn Công Ước UNCLOS và tham dự vào các trong ủy hội khác nhau hướng dẫn sự thi hành Công Ước.
Các quyền lợi của Mỳ trong việc duy trì sự tự do hải hành tại Biển Nam Trung Hoa và các hải phận tranh chấp khác phải được phòng vệ bởi ngoại giao được hậu thuẫn bởi sức mạnh quân sự. Hoa Kỳ không được chùn bước hay thỏa hiệp, bởi bất kỳ sự nhượng bộ tạm thời nào trước các đòi hỏi được chứng tỏ là vô lý của Trung Quốc sẽ không mang lại sự biết ơn, mà thay vào đó sẽ trở thành một tiền lệ cho các đòi hỏi tương lai của Trung Quốc. Về mặt ngoại giao và quân sự, Hoa Thịnh Đốn buộc phải tiếp tục bố trí lực lượng đầy đủ để khống chỉ các tham vọng lành thổ không thể biện minh được của Trung Quốc./-
_______
Chú thích:
John Pomfret, “U.S. takes a tougher tone with China,” Washington Post (July 30, 2010).
Edward Wong, “China Hedges Over Whether South China Sea is a ‘Core Interest’ Worth War,” New York Times (March 30, 2011).
Max Herriman, “China’s Territorial Sea Law and International Law of the Sea,” Maritime Studies 15 (1997). Cũng xem sự thảo luận về sự tuyên nhận của Trung Quốc bởi tác giả Xavier Furtado trong bài “International Law and the Dispute over the Spratly Islands: Whither UNCLOS?” Contemporary Southeast Asia 21:3 (December 1, 1999).
Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China, “Jurisprudential Evidence to Support China’s Sovereignty over the Nansha Islands” (2000).
Xem phần giới thiệu sách của tác giả Edward H. Schäfer, Shore of Pearls (University of California Press, 1970).
Giovanni Andornino, “The Nature and Linkages of China’s Tributary System under the Ming and Qing Dynasties,” Global Economic History Network working paper 21 (2006).
Zou Keyuan, “The Sino-Vietnamese Agreement on Maritime Boundary Delimitation in rhe Gulf of Tonkin,” Ocean Development & International Law 36 (2005).Asian Sentinel có công bố một loạt bài tuyệt hảo về vụ tai tiếng tầu ngầm tại Mã Lai, nhưng một bài cá biệt của John Berrhelsen đã cung cấp một sự tóm lược hữu dụng: John Fierthelsen, “Malaysia’s Submarine Scandal Surfaces in France,” Asian Sentinel (April 16, 2010).
Các con số này dựa chính yếu trên tài liệu được ấn hành bởi Center for Strategic and International Studies trong tài liệu “The Military Balance in Asia: 1990-2010.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét