Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Quả báo nhãn tiền

Tô Văn Trường

Sau những vật nài xin ưu đãi nhiều thứ kể cả vốn đầu tư, thuế tài nguyên, môi trường… hai dự án bauxite Tây Nguyên (Tân Rai và Nhân Cơ) đã phải công khai thừa nhận từ nay đến năm 2020, Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) sẽ lỗ hàng nghìn tỉ đồng. Riêng Tân Rai năm 2013 lỗ hơn 258 tỉ đồng, Nhân Cơ còn nặng nề hơn, dự kiến 2015 sẽ lỗ hơn 671 tỷ đồng, v.v.

Thực tế bi đát của dự án này là điều có thể thấy trước và không làm ai ngạc nhiên. Nói theo nhà Phật thì “quả báo nhãn tiền” đã có ngay chứ không cần đợi đến kiếp sau.

clip_image001
Bể lắng quặng đuôi của Nhà máy Alumin Tân Rai – Lâm Đồng. Ảnh: QUANG TÚ (nld.com)

Nguy hiểm hơn, có vẻ như những người quyết định và đang theo đuổi dự án này đã lỡ ngồi trên lưng hổ rồi, nên cứ tiếp tục liều mạng bất chấp cái giá mà nhân dân và đất nước phải trả trong điều kiện nền kinh tế đang suy kiệt hiện nay. Việc cố tình che giấu tội lỗi thường mang lại hậu quả lớn hơn nhiều tội lỗi ban đầu.

TS Nguyễn Thành Sơn mới đi khảo sát ở Tây Nguyên cho biết thực tế đã chứng minh: Bộ Công Thương và TKV đã giải trình không đúng sự thật để cố đấm ăn "khoai"! Giá thành chưa hạch toán đúng và đủ vì quyết toán chưa xong (mức khấu hao chưa đúng). Khâu cung cấp đầu vào là quặng bauxite do TKV chỉ định (người khai thác, cũng như giá bán bauxite). Thực chất là thuê ngoài (thông qua "đầu nậu" là một đơn vị thành viên của TKV). Khâu vận chuyển tiêu thụ về Gò Dầu cũng do TKV chỉ định và ép giá. Hoàn thổ qua dự án thí điểm tại chỗ sau 3 năm cho thấy chỉ có thể trồng cây keo, những loại cây khác không thể sống được. Công nghệ khí hóa than để cung cấp nhiệt cho khâu luyện alumina thuộc loại cổ điển cách đây khoảng 50 năm, nên phải dùng than cục đắt tiền (chở từ Quảng Ninh vào) và giống hệt như của các lò khí hóa của các lò gốm thủ công ở Bát Tràng, bên kia bờ sông Hồng của Hà Nội. Đặc biệt, nguy cơ nổ là rất lớn, v.v.

Cách đây hai năm, người viết này đã từng cảnh báo kinh doanh theo lợi nhuận phải chấp nhận “lời ăn, lỗ chịu”! Về khía cạnh kinh tế, nguyên tắc phải tính đúng, tính đủ để tránh lời giả, lỗ thật. Hay nói cách khác, lời doanh nghiệp và nhóm lợi ích hưởng những lỗ thì nhà nước nghĩa là toàn dân phải chịu. Trong thực tế, TKV lẫn lộn, không phân biệt nổi hiệu quả kinh tế-tài chính (là của doanh nghiệp), hiệu quả kinh tế-xã hội (của xã hội). Các nước gần đây còn chú trọng đến hiệu quả kinh tế-môi trường là những khái niệm không thể lập lờ, nhất là cái khoản thu to nhất của ngân sách là thuế xuất khẩu!?

Cần sử dụng mô hình tổng thể cân bằng kinh tế để tính toán lời lỗ một cách bài bản, khoa học. Cách tính đơn giản hơn đem chi phí sản xuất 1 tấn sản phẩm tại chỗ, cộng chi phí vận chuyển ra cảng, trong chi phí sản xuất cần tính cả chi phí đầu tư. Nếu có giá trị tổng đầu tư thì đem chia cho đời sống của nhà máy để ra chi phí khấu hao phải tính vào giá thành. Sau đó, so sánh giá 1 tấn sản phẩm trên thị trường thế giới thì biết ngay khoản lời, lỗ của dự án. Ngay cả trong trường hợp tính có lãi cũng phải lấy lãi này so sánh với lãi, nếu đem làm chuyện khác như trồng cà phê để tính lãi theo nguyên tắc giá thành cơ hội (opportunity cost) phải lấy lãi từ làm bauxite trừ đi lãi trồng cà phê. Đó mới là lãi thực. Ngoài chi phí cơ hội kinh tế, còn chi phí xã hội thì khôn lường: hàng ngàn người mất nguồn thu nhập mà nếu tính đủ thì không chỉ là tiền công 'lấy công làm lời' mà còn cả các chi phí bảo trợ xã hội đang bị bỏ qua. Đất bazan là đặc sản của Tây Nguyên, một trong những loại đất địa thành tốt nhất cho nông nghiệp nhất là cây công nghiệp dài ngày nhờ có tỷ lệ sét cao, khả năng giữ nước, giữ phân rất tốt, khi bị bóc đi, bề mặt bị mưa rửa trôi, xói mòn là tổn thất không dễ bù đắp. Dù được bao cấp, ưu đãi rất nhiều nhưng tính bằng cách nào chúng tôi cũng chỉ thấy dự án bauxite lỗ to chưa kể rất nhiều rủi ro khó lường khác về chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, xã hội, và môi trường. Cảnh báo trên, đến nay nhìn lại càng được thực tế chứng minh là chính xác.

Khai thác bauxite không được sự đồng thuận của các nhà khoa học Việt Nam và cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã dẫn chứng kết quả điều tra về việc này của các chuyên gia Liên Xô cũ, là họ không tán thành việc khai thác này, rất không có lợi cho Việt Nam. Trước đây có lời giải thích là ta làm bauxite vì “chủ trương lớn”. Nếu cần hỏi tiếp thì phải là tại sao các vị có trách nhiệm lại quyết định có “chủ trương lớn”!? Dự án bauxite Tây Nguyên nếu nhìn lại quá trình đàm phán và cam kết, có thể nói đó là chuyện đã chót lỡ, rồi mới đưa ra Quốc hội cho đủ thủ tục và Chính phủ thực thi.

Theo quy trình cải thiện liên tục PDCA (Plan Do Check Act – Kế hoạch, Thực hiện, Kiểm tra và Hành động), thừa đủ dữ kiện để đánh giá ai quyết định về chủ trương đầu tư, phê duyệt dự án thì người ấy phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước (Quốc hội) và nhân dân. Còn những ai đã báo cáo không chính xác để dẫn đến quyết định sai thì những người đó phải chịu trách nhiệm trước người đã ra quyết định.

Vấn đề đã rõ như ban ngày, đâu cần thêm thông tin để làm quyết định. Vấn đề là ai quyết định? Không lẽ Quốc hội chỉ vì “Đảng cử dân bầu” nên vẫn né tránh không bàn đến các “chủ trương lớn” và quan tâm đến nguyện vọng của cử tri. Xem lại các trang báo mạng, báo giấy thời sôi động can ngăn dự án "Trời gầm" này thì sẽ thấy nhân dân ta thông minh và tâm huyết biết chừng nào. Gần đây, Chính phủ biết lắng nghe các ý kiến phản biện, đối chiếu với thực tế đã hủy bỏ dự án cảng Kê Gà. Bây giờ, dừng dự án Nhân Cơ tuy muộn, dù sao còn hơn không vì chỉ cần thí điểm dự án Tân Rai là quá đủ! Bài học đổ vỡ đắt giá về Vinashin, Vinalines, v.v. rất có thể dự án bauxite Tây Nguyên trở thành nấm mồ của một anh cả đỏ khác là Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam.

T. V. T.


Trách nhiệm của Bộ Công Thương trong các dự án bauxite (trả lời phỏng vấn của Bauxite Việt Nam)

TS. Nguyễn Thành Sơn
Giám đốc Ban Quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng - Vinacomin

(1) Về việc Bộ Công Thương đề xuất các “ưu đãi”

Các phương tiện thông tin đại chúng gần đây đưa tin nhiều về báo cáo giải trình với Ủy ban Thường vụ Quốc hội của Bộ Công Thương về các dự án bauxite Tây Nguyên, trong đó có nêu ra các “ưu đãi” để dự án có “lãi”.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ đều đã điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư lên 15.400 tỷ đồng và 16.800 tỷ đồng; lỗ lũy kế của Tân Rai đến năm 2015 là 460 tỷ đồng, Nhân Cơ lỗ dự kiến đến 2020 là 3.000 tỷ; một yếu tố dẫn đến lỗ tăng mạnh là do giá bán alumin thấp hơn dự kiến 70 USD/tấn. Do đó, Bộ Công Thương đã đề xuất và tham mưu với nhà nước tiếp tục “ưu đãi” một cách tương đối triệt để và đồng bộ cho cả hai dự án này.
Cách đây vài năm, cũng trên diễn đàn Quốc hội, Bộ Công Thương đã có báo cáo giải trình bằng giấy trắng, mực đen tương đối dài và toàn diện nhằm khẳng định tính khả thi, sự cần thiết, và hiệu quả của việc triển khai các dự án bauxite Tây Nguyên.
Nghiên cứu nội dung của hai báo cáo này, có thể nhận ra việc Bộ Công Thương đã và đang “cố đấm ăn xôi”, tìm mọi lý lẽ để bao biện cho những ý kiến tham mưu sai lầm, để đánh lạc hướng dư luận về những yếu kém, bất cập trong quản lý và để lẩn tránh trách nhiệm của Bộ Công Thương về hai dự án bauxite kém hiệu quả này.
Trước hết, mức lỗ thật của cả hai dự án còn cao hơn nhiều nếu tính đúng và tính đủ. Cái gọi là “hiệu quả” của Bộ Công Thương là “hiệu quả có điều kiện” (không bình thường, không tính thuế, coi tài nguyên khoáng sản thuộc sở hữu toàn dân là sở hữu của một nhóm người) và là “hiệu quả” theo các tiêu chí, tiêu chuẩn riêng của Bộ Công Thương (“sáng tác”), chứ không phải theo các chuẩn mực của kinh tế thị trường.
Cả hai dự án bauxite đều thuộc lĩnh vực khai thác khoáng sản (không có nguyên liệu chính trong cơ cấu giá thành) thuộc ngành có IRR bình quân lớn hơn 30%. Mặc dù vậy, Bộ Công Thương vẫn báo cáo lỗ đến 7 năm liên tục. Nếu dự án “buộc phải lỗ” 1-3 năm đầu còn có thể chấp nhận được (vì phải trả gốc và lãi vốn vay), nhưng sau vài năm lỗ mức lãi phải tăng lên rất nhanh tới 18-30% để đảm bảo tính tổng thể cả đời dự án có hiệu quả (IRR> lãi suất, và NPV>0).
Thứ hai, về dự báo giá nhôm kim loại, Bộ Công Thương đã chỉ dựa vào các số liệu dự báo có “lợi” cho các giải trình và ý kiến tham mưu của mình nên thiếu khách quan, không khoa học. Mức giá alumina hay giá nhôm kim loại như trên thị trường hiện nay đã được các nhà khoa học dự tính và cảnh báo cách đây vài năm. Nhìn chung, các đánh giá của Bộ Công Thương (từ trước đến nay) về các dự án bauxite rất chủ quan và không đúng bản chất. Các giải trình của Bộ Công Thương trước Quốc hội (hiện nay và cách đây vài năm), cũng như các ý kiến của Bộ Công Thương tại cuộc hội thảo của VUSTA cách đây vài tháng đều không đúng thực tế.
Thứ ba, về ưu đãi giảm thuế/phí, việc Bộ Công Thương phải xin các “ưu đãi” cho hai dự án này cho thấy: (i) thực chất (sự thật) là cả hai dự án không có hiệu quả; và, (ii) trong quản lý về tài nguyên khoáng sản của Bộ Công Thương có quá nhiều bất cập, không bình thường.
Việc xin “ưu đãi” cho cả hai dự án để “lỗ” thành “lãi” vào sau năm 2020 chỉ tạm thời làm “mát mặt” cơ quan tham mưu/quản lý nhà nước như Bộ Công Thương. Còn trên thực tế, cả hai dự án đang và sẽ “đau đầu” về dòng tiền (Cash Flow). Đối với doanh nghiệp, trong trường hợp cụ thể của hai dự án bauxite, khi mới đi vào hoạt động, dòng tiền là yếu tố không thể bỏ qua. Nếu không “bấu” vào các mỏ than ngoài Quảng Ninh (lãi/doanh thu/dòng tiền từ than) thì dự án Tân Rai sẽ tồn tại không quá 3 năm nữa.
Thứ tư, về “ưu đãi” giảm mức đầu tư hồ bùn đỏ, việc Bộ Công Thương xin ưu đãi giảm mức đầu tư của hồ bùn đỏ chẳng khác nào “vạch áo cho người xem lưng”. Thiết kế hồ bùn đỏ do chính Bộ Công Thương phê duyệt. Phải chăng đã có sự móc ngoặc giữa các bên (cơ quan quản lý, tư vấn thiết kế, chủ đầu tư, nhà thầu) để nâng khống vốn đầu tư của dự án (giống như đường cao tốc)? Phải chăng Bộ Công Thương và các bên đã lợi dụng “sức ép” của dư luận để kéo dài tiến độ triển khai dự án? Phải chăng nghi ngờ của Bộ Công Thương trước đây về các “thế lực phản động” lien quan đến hai dự án này đã trở thành hiện thực?.
Trước khi cho phép “giảm đầu tư cho hồ bùn đỏ”, Chính phủ nên xem lại trách nhiệm của người đã phê duyệt thiết kế, và nên có hình thức kỷ luật thỏa đáng vì đã gây ra thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng (do dự án chậm tiến độ và tăng vốn đầu tư).
Hồ bùn đỏ Tân Rai được thiết kế để đảm bảo mức an toàn cho hàng chục năm sau. Đến nay, hồ bùn đỏ đầu tiên này vận hành chưa được 50% công suất thải bùn đỏ, và thời gian tồn tại mới chỉ vài % (tính theo tuổi thọ) chưa thể đánh giá là quá “an toàn” được. Chưa có bất kỳ một báo cáo đánh giá nào về các giải pháp kỹ thuật, chưa có các số đo quan trắc liên quan đến hồ bùn đỏ. Trong khi trên thực tế công nghệ thải bùn đỏ của Tân Rai là hoàn toàn “ướt”. Bùn đỏ thải ra là “ướt”- độc hại, sau một thời gian mới “khô”. Nếu nhà máy vận hành liên tục đủ công suất thì hồ bùn sẽ “ướt” cho đến khi nhà máy chuyển sang thải vào hồ bùn khác. Cùng một diện tích chiếm đất, nếu thải “ướt” thì dung tích chứa của hồ chỉ bằng 1/3-1/5 so với hồ bùn đỏ được thải “khô”. Số lượng hồ bùn đỏ của Tân Rai sẽ gấp nhiều lần so với hiện có. Lý do xin giảm mức đầu tư (sửa đổi thiết kế) của Bộ Công Thương đưa ra là không logic.
Trên thế giới, các hồ bùn đỏ nằm sát biển (rất an toàn, không may khi vỡ, bùn đỏ chỉ tràn ra biển và thiệt hại chỉ như “muối bỏ biển”) nhưng vốn đầu tư còn cao gấp 5-10 lần so với của Tân Rai. Đầu tư cho khâu an toàn chẳng bao giờ là “cao” cả.
Thứ năm, về khả năng làm ra nhôm kim loại, cách đây không lâu (trong năm 2012/2013), Bộ Công Thương đã từng “ăn bánh vẽ” của một đối tác nước nước ngoài (Atlantic – Úc) khi đối tác đó đưa ra một “chương trình” phát triển từ mỏ bauxite, đường sắt trên Tây Nguyên đến cảng biển xuất khẩu với vốn đầu tư 3-5 tỷ U$. Trong đó, Atlantic cũng chỉ chủ yếu dựa vào xuất khẩu hàng năm vài chục triệu tấn quặng bauxite (mới có lãi). Cách đây khá lâu (trước 2000), dự án đồng Sinh Quyền do chính Bộ Công Thương phê duyệt thiết kế, khi đi vào hoạt động, do công nghệ quá lạc hậu, việc xuất khẩu đồng kim loại cho thấy không hiệu quả bằng xuất khẩu quặng tinh. Hiện nay, việc xuất khẩu quặng bauxite tinh (alumina) trên Tây Nguyên còn chưa có lãi (ưu đãi hết mức còn “tính” mãi không ra). Việc làm ra nhôm kim loại có mức tiêu hao điện rất cao. Các nguồn thủy điện lớn rẻ tiền (dưới 3 cents/kWh) ở Việt Nam không còn. Cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam là cơ cấu tiêu hao năng lượng ở mức quá cao. Trong bối cảnh đó, Bộ Công Thương không nên đưa ra cho Quốc hội bất kỳ cái “bánh vẽ” nào nữa về điện phân nhôm.
(2) Suy nghĩ về cách tiếp cận của Bộ Công Thương
Trước hết, việc tính toán lỗ, lãi kèm theo các điều kiện là cách tiếp cận không đúng. Việc xin những “ưu đãi” không bình thường (giảm thuế, giảm phí, giảm mức độ an toàn) sẽ làm cho kinh tế thị trường bị méo mó và chỉ khuyến khích doanh nghiệp ỷ lại.
Thứ hai, theo lập luận của Bộ Công Thương, mặc dù lỗ, nhưng hai dự án vẫn có hiệu quả kinh tế - xã hội “tổng hợp”. Đây là một lập luận hoàn toàn định tính, không có cơ sở kinh tế. Bất kỳ một dự án sản xuất kinh doanh nào, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác tài nguyên khoáng sản, cũng phải đảm bảo trước hết hiệu quả kinh tế - tài chính. Một dự án kinh doanh không có hiệu quả kinh tế - tài chính sẽ không thể mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
Thứ ba, Bộ Công Thương là cơ quan quản lý nhà nước, có chức năng và nhiệm vụ khác với một doanh nghiệp. Trong trường hợp của hai dự án bauxite, Bộ Công Thương là người đã đề xuất và tham mưu với Chính phủ để TKV được “cưỡi lên lưng hổ”. Những ưu đãi mà TKV đưa ra là dễ hiểu dưới góc độ của một doanh nghiệp đang “cưỡi trên lưng hổ”. Bộ Công Thương lẽ ra phải đưa ra các đề xuất căn cơ hơn, triệt để hơn. Thay vì “nhại” lại các đề xuất của TKV, Bộ Công Thương phải có trách nhiệm đề xuất để đưa TKV xuống khỏi lưng hổ một cách ít mạo hiểm nhất (giống như trường hợp Cảng bauxite Kê Gà). Với việc đề xuất miễn giảm thuế/phí, Bộ Công Thương chỉ tạm làm TKV yên tâm để tiếp tục “cưỡi hổ”, còn việc đề xuất giảm vốn đầu tư cho khâu an toàn (hồ bùn đỏ), Bộ Công Thương đã vô tình làm cho “con hổ” trở nên nguy hại hơn.
Thứ tư, điều dư luận quan ngại nhiều hơn về những nguyên nhân thực sự của việc cả hai dự án đều không có hiệu quả là do công nghệ lạc hậu. Là một cơ quan quản lý có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghiệp, Bộ Công Thương cần báo cáo rõ với Quốc hội về công nghệ khí hóa than của cả hai dự án rất lạc hậu (thuộc những năm 50 của thế kỷ trước). Là một cơ quan quản lý có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực khai khoáng, Bộ Công Thương cần báo cáo rõ với Quốc hội về những bất cập, khó khăn không thể khắc phục trong bảo vệ và phục hồi môi trường đã được thực tế ba năm qua chứng minh. Thay vì xin ưu đãi giảm phí môi trường, Bộ Công Thương nên báo cáo rõ với Quốc hội liệu có thể hoàn thổ để trồng chè, cà phê, cau su hay chỉ có thể “phủ xanh là được”. Là một cơ quan quản lý có bề dày kinh nghiệm về năng lượng, Bộ Công Thương cần báo cáo rõ với Quốc hội về giá thành 1kWh điện do nhà máy nhiệt điện chạy than của dự Tân Rai làm ra là bao nhiêu? v.v.
Thứ năm, cần có sự lựa chọn. Đối với nền kinh tế, TKV nằm trong ‘top ten’. Đối với TKV, than ở Quảng Ninh là không thể thiếu, chiếm 90-99% lợi nhuận. Bauxite/alumina Tây Nguyên nền kinh tế chưa có nhu cầu. Cả hai dự án alumina trên Tây Nguyên có thể đóng cửa bất cứ lúc nào cũng không ảnh hưởng đến nền kinh tế, còn các mỏ than ngoài Quảng Ninh, nếu phải đóng cửa, vấn đề an ninh năng lượng của Việt Nam sẽ rất rủi ro.
Cuối cùng, trong lĩnh vực công nghiệp khai khoáng nói chung đã đến lúc phải xem lại trách nhiệm của Bộ Công Thương về công tác quy hoạch phát triển và dự báo thị trường trong thời gian qua. Đây là hai khâu quan trọng nhất, nhưng cũng bất cập nhất, thuộc chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công Thương./.
N. T. S.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét