Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016
‘Cách chức’ Thủ tướng Dũng và Chủ tịch Sang: Làm thế nào để đúng luật?
Thủ tướng và Chủ tịch nước nếu không có “đơn xin từ chức” thì Quốc hội không thể miễn nhiệm, bãi nhiệm. Còn như nếu muốn cách chức Thủ tướng và Chủ tịch nước thì cần coi lại cả hai vị này có phải do Bộ Chính trị khóa trước đó giới thiệu hay không?
Nói một cách khác, nếu phiên họp cuối cùng của Quốc hội sẽ diễn ra hôm 21-3 tới đây, vẫn kiên quyết “thay thế”, thì chỉ đúng luật khi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có văn bản gửi Chủ tịch Quốc hội yêu cầu “cách chức” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Trương Tấn Sang.
“Lãnh đạo nghỉ giữa chừng không cần viết đơn xin từ nhiệm” – Tổng thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đã nói như vậy khi trả lời câu hỏi của phóng viên Tuổi Trẻ tại cuộc họp báo quốc tế (chiều 18-3) giới thiệu nội dung, chương trình kỳ họp thứ 11 của Quốc hội – kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XIII. Đây là một câu trả lời “không phù hợp với quy định của pháp luật”. Nôm na, đây là câu trả lời trật lất.
“Theo quy định tại điều 10 Luật tổ chức Quốc hội thì cá nhân những người giữ các chức danh đó có thể viết đơn xin từ chức, đồng thời điều 11 cũng có quy định với những người do cơ quan có thẩm quyền trình để thay thế thì không cần phải có đơn”. Ông Nguyễn Hạnh Phúc trả lời bằng viện dẫn luật như vậy.
Một lần nữa, ông Phúc đã cố tình làm sai luật. Tiếc là sau đó chưa thấy báo chí đi tìm xem vì lý do nào mà vị Tổng thư ký Quốc hội là buộc phải nói sai luật, nhằm để có thể “hợp thức hóa” chuyện chỉ định nhân sự trong bộ máy Chính phủ nhiệm kỳ mới, theo đúng chỉ đạo của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Theo Luật, bộ máy chính phủ chỉ “giải thể” vào tháng 7-2016
“Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ”. Điều 3, Luật tổ chức Chính phủ đã quy định rõ như vậy.
Yêu cầu từ Bộ Chính trị về “cơ cấu nhân sự”, chỉ có thể là tham khảo. Không có bất kỳ điều luật nào buộc Chính phủ và Quốc hội phải răm rắp thực hiện. Ông Tổng bí thư phải thừa nhận thực tế ấy, vì Hiến pháp, Điều 4.3 có nhấn mạnh là “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Chắc chắn ông Tổng bí thư luôn hiểu mình cần làm gương trong việc thượng tôn pháp luật, như Điều 2, Hiến pháp: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Quyền của Thủ tướng đến đâu?
Những yêu cầu của ông Tổng bí thư về “cơ cấu nhân sự” cho thấy những “mệnh lệnh” này là vi Hiến. Tiếc là Việt Nam chưa có Tòa Hiến pháp để xét xử những hành vi này. Ở đây, lỗi phần lớn đến từ người đứng đầu Chính phủ.
Quốc hội có chức năng làm luật, và Thủ tướng được trao quyền “chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội” (Điều 28.1.a, Luật Tổ chức Chính phủ). Đến nay, Thủ tướng đã không làm tròn trách nhiệm được giao là phải: “1. Xây dựng và trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước quyết định các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân. 2. Quyết định những biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân”. (Điều 21, Luật Tổ chức Chính phủ).
Các luật về quyền biểu tỉnh, quyền lập hội, quyền thành lập công đoàn độc lập… là những luật nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, là Thủ tướng đã không tuân thủ Hiến pháp khi không xúc tiến xây dựng luật về đảng cộng sản Việt Nam. Chính sự chậm trễ này đã đưa tới việc vô hiệu hóa Điều 16, Hiến pháp: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Đơn cử, Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị mà tướng Phan Anh Minh của Công an TP.HCM nói đến khi muốn xử lý các đảng viên tham nhũng.
Luật Tổ chức Quốc hội có như lời ông Tổng thư ký?
Điều 10 và Điều 11 có nội dung liên quan đến Điều 8 và Điều 9.
“Điều 8. Bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước
1. Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội trong số các đại biểu Quốc hội theo danh sách đề cử chức vụ từng người của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa trước.
2. Quốc hội bầu Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Quốc hội bầu Phó Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước.
3. Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
4. Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước.
5. Quốc hội bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo đề nghị của Chủ tịch nước.
6. Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, Tổng thư ký Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
7. Ngoài những người do cơ quan hoặc người có thẩm quyền quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều này đề nghị, Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội quyết định danh sách những người ứng cử để bầu vào chức danh quy định tại Điều này trong trường hợp đại biểu Quốc hội ứng cử hoặc giới thiệu thêm người ứng cử.
8. Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp”.
“Điều 9. Phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước
1. Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ theo danh sách đề cử chức vụ từng người.
2. Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3. Quốc hội phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh theo đề nghị của Chủ tịch nước.
4. Quốc hội phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia”.
“Điều 10. Việc từ chức của người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
1. Người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nếu vì lý do sức khoẻ hoặc vì lý do khác mà không thể thực hiện được nhiệm vụ thì có thể xin từ chức.
Đơn xin từ chức được gửi đến cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chức vụ đó quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 8 và Điều 9 của Luật này. Cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu để Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chức vụ đó trình Quốc hội miễn nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm tại kỳ họp Quốc hội gần nhất”.
“Điều 11. Miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này theo đề nghị của cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chức vụ đó”.
Như vậy, Thủ tướng và Chủ tịch nước nếu không có “đơn xin từ chức” thì Quốc hội không thể miễn nhiệm, bãi nhiệm. Còn như nếu muốn cách chức Thủ tướng và Chủ tịch nước thì cần coi lại cả hai vị này có phải do Bộ Chính trị khóa trước đó giới thiệu hay không? Nói một cách khác, nếu phiên họp cuối cùng của Quốc hội sẽ diễn ra hôm 21-3 tới đây, vẫn kiên quyết “thay thế”, thì chỉ đúng luật khi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có văn bản gửi Chủ tịch Quốc hội yêu cầu “cách chức” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Trương Tấn Sang.
Nhưng có cách chức thì cũng phải cho biết hai vị này phạm những lỗi gì chứ…
Trần Thành- Việt Nam Thời Báo.
Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016
Ba Sao chi mộ
Phạm Thanh Nghiên
28-3-2016
Tấm bia thờ tù nhân chính trị chết ở trại Ba Sao do người Giám thị lập, hiện đang được đặt tại một ngôi Chùa ở miền Bắc. Ảnh: blog Phạm Thanh Nghiên
Xin kính cẩn nghiêng mình thắp nén tâm hương trước tấm bia không mộ của626 người tù chính trị đã chết trong nhà tù Ba Sao, Nam Hà giai đoạn 1975-1988. Và rất nhiều những người tù chính trị khác đã chết oan khiên trong ngục tù cộng sản.
Lời đầu
Lẽ ra, câu chuyện này phải được chúng ta kể cho nhau nghe một cách trọn vẹn. Tiếc rằng, vì một số lý do ngoài ý muốn, “người trong cuộc” (1) đã ngừng sự giúp đỡ tôi nên việc thu thập, tìm hiểu thông tin đã bị gián đoạn.
Hơn nữa, xuất phát từ nhu cầu an toàn cá nhân của nhân chứng, nỗi lo về sự can thiệp hầu phá vỡ sự bình yên, tôn nghiêm của ngôi Chùa – nơi đặt tấm bia thờ 626 người tù chính trị, nên người viết đã phải rất cân nhắc khi chuyển tải thông tin đến bạn đọc. Nhưng tôi tin, câu chuyện dù không được kể trọn vẹn như mong muốn cũng sẽ khiến chúng ta thấy xót xa cho Thân phận quê hương. Một Thân phận quê hương được phản chiếu từ Thân phận của những người con Việt bị bức tử bằng cách này hay cách khác trong một giai đoạn khốc liệt, đau thương nhất của lịch sử.
Phần 1: Chuyến tàu vét
Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, một trong những hành động đầu tiên mà chế độ cộng sản thực hiện là trả thù những người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Hầu hết những cựu quân nhân cán chính, những viên chức từng làm việc trong chính quyền VNCH, hoặc bị nghi ngờ thuộc thành phần này đều bị đưa đi “cải tạo”, nhưng thực chất là chịu lưu đày tại các nhà tù trên khắp cả nước. Một trong những nơi khét tiếng tàn bạo ở miền Bắc, từng giam cầm hàng ngàn cựu quân nhân cán chính VNCH là nhà tù Ba Sao, Nam Hà.
Con tàu cuối cùng chở tù chính trị từ Nam ra Bắc có cái tên rất thơ mộng: Sông Hương. Rời Sài Gòn ngày 18/4/1977, sau 2 ngày 3 đêm (2), tàu cập bến Hải Phòng, tiếp tục hành trình lưu đày tù ngục của 1200 con người thuộc “bên thua cuộc”.
“Chúng tôi, cứ hai người bị chung một chiếc còng. Vừa lên đất liền, hai bên đường đã có người dân Miền Bắc đợi sẵn. Họ ném gạch đá vào chúng tôi. Vừa ném, vừa chửi rủa, mạ lỵ rất thậm tệ. Nhiều người trong số chúng tôi bị ném trúng, vỡ đầu, chảy máu và thương tích”.
Đấy là lời kể của ông Nam, một trong những người tù bị đẩy ra Bắc trong chuyến tàu Sông Hương. Khi cộng sản cưỡng chiếm Miền Nam, ông Nam đang là thiếu úy quân đội VNCH. Chi tiết này cũng được Linh mục Nguyễn Hữu Lễ thuật lại trong cuốn hồi ký “Tôi phải sống”.
Từ Hải Phòng, số tù nhân này bị tách ra để chia rải rác cho các trại giam khác. Bài viết này xin chỉ đề cập tới những người tù ở Ba Sao, Nam Hà.
Không riêng gì những người tù Ba Sao, hầu như tất cả những người từng phục vụ trong chính quyền VNCH đều bị bắt sau biến cố 30/4/1975. Một số bị đưa ra Bắc ngay thời kỳ đầu. Nhiều người khác bị giam cầm ở miền Nam sau vài năm mới bị chuyển ra Bắc, rồi lại trở ngược vào Nam để tiếp tục cuộc đời lao tù cho đến ngày chết, hoặc trở về khi sức cùng lực cạn.
Nhà tù Ba Sao lại “rộng cửa” đón thêm vài trăm người từ chuyến tàu vét Sông Hương, nơi đang đọa đày hơn 600 tù VNCH đã bị chuyển đến từ những chuyến tàu trước đó.
Tôi có dịp hỏi chuyện linh mục Nguyễn Hữu Lễ (ngài hiện đang sống tại New Zealand) và một nhân chứng khác (sống tại Sài Gòn), thì nhà tù Ba Sao thời bấy giờ chia làm 4 khu giam giữ.
Khu A: Giam cầm các thành phần thuộc viên chức chính phủ, dân biểu, nghị sĩ, sĩ quan cao cấp như thượng nghị sĩ Huỳnh Văn Cao, bộ trưởng Đàm Sỹ Hiến, Bộ trưởng Trần Ngọc Oành, tướng Lê Minh Đảo, ông Văn Thành Cao, tướng Nhu, tướng Trần Văn Chơn, ông Nguyễn Văn Lộc…, hay lãnh tụ Quốc dân đảng là ông Vũ Hồng Khanh.
Khu B: Giam những quân nhân cán chính, những người bị buộc tội “phản động” như linh mục Nguyễn Hữu Lễ, linh mục Nguyễn Bình Tỉnh…
Khu C: Giam tù hình sự miền Bắc.
Khu Mễ: Giam cầm những người bệnh tật, đau yếu. Trong khu Mễ lại có một khu “Kiên giam”. Khu “Kiên giam” dành cho các tù nhân bị kỷ luật với điều kiện giam giữ vô cùng khắc nghiệt. Đã có rất nhiều tù nhân chết trong khi bị “kiên giam”.
Chúng tôi bị chuyển từ nhà tù miền Nam tới nhà tù Ba Sao miền Bắc trong chuyến tàu Sông Hương vào tháng 4/1977. Lúc ấy nhóm của tôi có 350 người ra đi từ trại Giaray tỉnh Xuân Lộc. Ở Ba Sao được 9 tháng, tôi bị chuyển lên trại Quyết Tiến còn gọi là “Cổng Trời”thuộc tỉnh Hà Giang, nằm sát ranh giới Trung Quốc. Một năm sau đó tôi về trại Thanh Cẩm , tỉnh Thanh Hoá . Mười năm sau, tức tháng 1/1987, tất cả tù chính trị miền Nam còn sót lại rải rác trong các trại miền Bắc được dồn hết về trại Ba Sao, Nam Hà, trong đó có tôi. Nhưng đội của tôi trước khi tôi rời Ba Sao ra đi nay đã chết quá phân nửa.
Tết năm đó có một đợt tha tù, được tổ chức rất ồn ào. Đến tháng 5/1987, tất cả số tù nhân từ miền Nam còn sót lại, được chuyển hết về Nam để ở tù tiếp. Chỉ còn “sót lại” 3 người ở miền Bắc, đó là linh mục Nguyễn Bình Tỉnh, anh Nguyễn Đức Khuân và tôi. Hầu hết họ đã chết . Chết vì tuyệt vọng, đói rét, suy kiệt, tiêu chảy, kiết lỵ và nhiều bệnh khác”.
Tác giả Bút ký “Tôi Phải Sống” bùi ngùi kể lại.
Tôi rùng mình tự hỏi, có bao nhiêu tù nhân chính trị đã chết trong suốt thời kỳ từ 1975 trở về sau?
Bao nhiêu ở nhà tù Ba Sao? Bao nhiêu ở Cổng Trời, Thanh Hóa, Phú Yên, Xuân Lộc, Xuyên Mộc, Hàm Tân, Bố Lá…?
Bao nhiêu người đã bị bách hại bởi chính người đồng bào ruột thịt mang tên “cộng sản”, và chết lặng câm ở khắp các nhà tù từ Bắc-Trung-Nam trên dải đất đau thương này?
Không ai biết chính xác, nhưng số người phải bỏ xác ở khắp các nhà tù hẳn không phải là con số ít.
Một ngày nào đó, chế độ cộng sản sẽ phải trả lời những câu hỏi này trước quốc dân đồng bào. Cũng như trả lại sự thật lịch sử cho Dân tộc này.
Phần 2: Tấm bia thờ 626 người tù chính trị
“Có một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà. Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở Miền Bắc. Ngoài tấm bia ra còn có mộtngôi Am thờ (3) những người tù này được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu Giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé!”.
Một người anh, cũng là cựu tù chính trị hiện sinh sống tại Pháp đã nhắn tôi như thế. Tôi chưa bao giờ trải qua cảm xúc đặc biệt và đầy ám ảnh như lần này. Chuyện thật khó tin: Một trùm cai tù dựng một tấm bia và Am thờ những người tù thuộc bên kia chiến tuyến.
Câu dặn dò “em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé” làm tôi xót xa. Hình như tôi sắp làm một công việc rất khó khăn và cũng rất thiêng liêng. Hai chữ “các anh” không còn là cách xưng hô nữa mà là tiếng gọi gần gũi, thân thương của những người chung khát vọng. Chứ theo tuổi tác, họ là bậc cha chú của tôi- đứa nhóc Bắc kỳ sinh sau biến cố 1975.
Mãn án tù nhà (4), tôi lên đường.
Địa chỉ ngôi Chùa không chính xác nên tôi phải đi tìm hơn hai ngày mới đến nơi. Đó là một ngôi Chùa nhỏ, nằm khiêm tốn bên một con phố khá đông đúc. Sư trụ trì đi vắng, tôi lang thang cho hết thời gian rồi trở lại vào buổi chiều.
– Thưa thầy, con được người quen giới thiệu đến đây. Nghe nói nhà Chùa có đặt một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà?
Nghe tôi nhắc đến tấm bia, nét mặt thầy tái đi, không giấu được vẻ bối rối.
– Bác Thanh giới thiệu con đến đây.
Nhận ra người quen, sư thầy trở nên cởi mở hẳn.
Sư thầy kể rằng vài năm trước, cô Thu Hương (một Phật tử) đưa viên cựu Giám thị đến gặp sư thầy. Viên Giám thị trao cho sư thầy một danh sách gồm 626 người tù đã chết trong trại Ba Sao từ năm 1975 đến 1988. Vị này ngỏ ý muốn làm một tấm bia đặt trong nhà Chùa để thờ cúng các hương linh. Đây không phải ngôi Chùa đầu tiên họ gõ cửa. Những ngôi Chùa trước đều từ chối vì sợ. Các vị sư trụ trì không muốn giữ một danh sách toàn “sĩ quan ngụy” và công khai đặt tấm bia thờ người tù ngay trong Chùa.
– Có cách nào liên lạc với hai người ấy không thưa thầy?
– Khó lắm. Người Giám thị sau khi làm xong tấm bia thì không trở lại đây nữa. Chỉ có cô Thu Hương thời gian đầu vẫn hay tới Chùa tụng kinh và thắp hương cho 626 vị ấy. Nhưng kể từ khi đứa con trai 15 tuổi của Thu Hương bị tai nạn giao thông chết hai năm trước, cô ấy không tiếp xúc với ai nữa.
– Thầy có nghe nói đến ngôi Am thờ 626 vị này không?
Tôi hỏi, không giấu nổi vẻ hồi hộp khi chờ câu trả lời.
– Đúng là có cái Am thờ. Nhưng tôi chưa tới thăm bao giờ. Nghe nói nằm trong vùng đất của trại giam thì phải.
– Vậy ai có thể đưa con tới đó?
– Chỉ có người Giám thị và cô Thu Hương thôi. Nhưng Thu Hương thì như tôi vừa nói đấy, cô ấy buồn chán, tuyệt vọng từ ngày mất con nên không còn thiết chuyện gì. Còn người Giám thị thì từ đó không thấy trở lại nữa. Số điện thoại cũng đổi rồi.
Tôi bắt đầu nhìn thấy sự mịt mù phía trước.
Người giữ sổ sách đi vắng. Sư thầy hẹn tôi dịp khác trở lại, sẽ cho tôi xem danh sách 626 người tù. Thầy dẫn tôi xuống nhà linh, nơi đặt tấm bia.
Tôi cảm thấy rợn rợn khi bước chân vào Nhà linh, nơi đặt di ảnh của những người quá cố. Có mấy người đội khăn tang đang ngồi tụng kinh cho người thân mới qua đời.
Tìm mãi không thấy tấm bia đâu. Tôi bắt đầu lo. Sư thầy quả quyết rằng tấm bia đặt ở phòng này nhưng lâu ngày không nhìn lại nên ngài không nhớ chính xác vị trí nào.
– Ôi đây rồi! Sư thầy reo lên.
Tôi sững người lại. Vừa nhìn thấy tấm bia, nước mắt tôi ứa ra.
Tôi không xác định được cảm xúc của mình lúc đó. Vui vì đã “tìm thấy các anh”, như lời người anh đồng tù nhắn nhủ, hay buồn vì tôi lại chứng kiến thêm một nỗi đau đớn của quê hương?
Tôi lập cập lục tìm trong túi xách chiếc máy ảnh. Tôi hay bị lúng túng mỗi khi cảm xúc bị “quá độ”. Sư thầy dặn chỉ chụp tấm bia thôi, đừng để những di ảnh xung quanh lọt vào ống kính. Cảm giác tủi thân và xót xa khiến tôi không nói nổi tiếng “vâng” một cách rõ ràng.
Trước khi về, tôi gửi một ít tiền để sư thầy giúp việc nhang khói cho “các anh”. Tôi cầm theo nải chuối, mấy quả cam thầy vừa cho, chậm rãi cuốc bộ trên con phố. Tôi không khóc, nhưng cổ họng nghèn nghẹn và bước chân nặng nề.
Một tuần sau tôi trở lại Chùa. Sư thầy đi vắng. Vừa nghe tiếng tôi trong điện thoại, sư thầy nhận ra ngay:
– Chị Nghiên hả? Tiếc quá! Thầy đã hỏi người trông coi sổ sách của nhà Chùa rồi. Nhưng chị ấy nói là danh sách đã được hóa (4) đi từ hôm Rằm tháng bảy.
Tôi chết đứng người. Cố gắng lắm tôi mới thốt lên được một câu nghe như không phải giọng của mình.
– Sao lại đốt hả thầy, sao thế được?
– Thì nhà Chùa nghĩ là không cần dùng đến danh sách ấy nữa nên tiện dịp lễ Vu Lan thì hóa luôn cùng với áo mũ, vàng mã chị ạ.
– Thầy ơi! Thầy làm ơn kiểm tra lại giúp con với. Cái danh sách ấy… 626 người tù… thầy ơi, thầy làm ơn!
Tôi cố gắng trấn tĩnh để van lơn.
– Thầy không thể làm gì hơn chị Nghiên ạ. Chúng tôi sẽ hương khói đầy đủ cho các vị ấy.
Nói xong, sư thầy cúp máy.
Một cảm giác còn tệ hơn sự tuyệt vọng. Tôi ôm mặt ngồi thụp xuống giữa đường. Một đứa bé từ đâu chạy lại, trân trân nhìn tôi. Hình như bộ dạng tôi làm đứa bé sợ. Nó co chân chạy, không ngoái lại nhìn.
Bấy giờ tôi nhận thấy, có một thứ cảm xúc rất giống với nỗi buồn, rất giống với niềm tuyệt vọng. Nhưng không hoàn toàn như thế. Thứ cảm xúc thật khó gọi tên.
Tôi về nhà, lầm lỳ đến vài hôm.
Không thể dễ dàng bỏ cuộc được, tôi quyết định đi Nam Hà để tìm đến ngôi Am thờ. Người anh đồng tù buồn rầu bảo:
– Không có cô Thu Hương hay vị Giám thị dẫn đường, em không tìm được đâu.
Lần này thì tôi thật sự tuyệt vọng. Tấm bia, danh sách và Am thờ, tôi chỉ hoàn thành một phần ba công việc.
Tôi nghĩ đến người Giám thị.
Không biết vì lý do gì viên Giám thị lại làm một việc cấm kỵ và mạo hiểm như thế. Hơn ai hết, người này phải ý thức được mức độ nguy hiểm của việc mình làm, nhất là nếu thông tin bị lộ ra ngoài. Chắc chắn phải có một lý do sâu xa và rất đặc biệt để người này làm thế. Vì lợi nhuận ư? Không ai dại dột vì chút giá trị vật chất mà đánh đổi cuộc sống bình yên của mình. Vả lại, bản thân nghề cai tù đã là một cơ hội để làm giàu một cách rất an toàn.
Người anh đồng tù và bác Thanh lý giải rằng, niềm tin tâm linh đã thúc đẩy người Giám thị và cô Thu Hương làm như thế. Có thể người Giám thị sợ bị vong hồn của những người tù tìm đến hỏi tội chăng? Lý giải này không hẳn là vô lý. Tôi đã từng nghe và được biết những chuyện tương tự như thế khi còn trong nhà tù Thanh Hóa. Đã là cai tù, không ít thì nhiều, không chủ ý thì cũng bắt buộc phải dính vào tội ác. Song dù với lý do gì, thì hy vọng cũng có phần trăm nào đó của sự ăn năn, của chút lương tâm bị hối thúc.
Tôi vốn không mê tín, không tin chuyện dị đoan nhưng tin rằng luôn có một thế giới tâm linh đang nhìn ngó thế giới con người. Ước gì một ngày nào đó, duyên cớ run rủi để chúng ta được biết trọn vẹn câu chuyện về 626 người tù chính trị Ba Sao, Nam Hà. Chúng ta cần được biết về số phận của những người từng bị cộng sản bách hại để hiểu về một giai đoạn lịch sử đã tạo nên thân phận đau thương của dân tộc này.
Chú thích:
(3): Am: Trong tín ngưỡng tôn giáo là nơi thờ Phật, thờ cúng thần linh hoặc vong linh. Am có phạm vi, diện tích nhỏ hơn Miếu.
(4): Mãn hạn tù nhà: Với tôi, án quản chế là một hình thức tù tại nhà. Tôi hết án quản chế vào tháng 9/2015.
Thứ Ba, 29 tháng 3, 2016
Nước Mỹ ở Châu Á – Thái Bình Dương
Lịch sử quan hệ Mỹ – Đông Á
Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người tiên đoán rằng khu vực Thái Bình Dương sẽ chuẩn bị thế chỗ Châu Âu để trở thành trọng tâm và ưu tiên hàng đầu của chính sách đối ngoại Mỹ. Tuy nhiên, các chuyên gia chỉ mới nói đến một phần của câu chuyện. Mỹ từ lâu đã là một cường quốc Thái Bình Dương trước khi trở thành một cường quốc Đại Tây Dương. Hoạt động thương mại đầu tiên của Mỹ là vào năm 1784, khi mà con tàu Empress of China thả neo tại cảng Quảng Châu. Empress là thương thuyền Mỹ đầu tiên băng qua Thái Bình Dương. Đầu những năm 1840, Mỹ tăng cường cam kết thương mại tại Đông Á. Theo điều khoản trong hiệp ước Wanghia (1844), Mỹ đã giành quyền giao thương tại các cảng Trung Quốc. Quan trọng hơn, năm 1853 thuyền trưởng Matthew Perry chấm dứt tình trạng tự cô lập của Nhật và ép Nhật thông thương với Mỹ. Hai sự kiện đã mở đường cho can thiệp mang tính thực dân của Mỹ trong khu vực sau này, cụ thể là việc Mỹ tiếp quản các vùng thuộc địa cũ của Tây Ban Nha ở Philippines và đảo Guam năm 1898. Chỉ trong vòng vài thập kỉ, Mỹ đã trải nghiệm việc hóa thân từ một thuộc địa thành một cường quốc thực dân. Từ cuối thế kỉ 19, Mỹ đã luôn duy trì một vị trí ưu việt tại Châu Á – Thái Bình Dương, chỉ có một thời gian ngắn bị gián đoạn bởi những nỗ lực đế quốc chủ nghĩa của Nhật nhằm thiết lập Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á trong thời kỳ Chiến tranh Thái Bình Dương.
Trong chương này, chúng ta sẽ phác thảo những sự kiện chính trong quan hệ Mỹ – Đông Á và những chính sách hàng đầu của Washington đối với khu vực từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai cho đến những buổi đầu của thế kỉ 21. Sau đó, chúng ta sẽ nêu bật ba biến số chính đã hình thành cấu trúc cho sự can dự của Mỹ vào Châu Á – Thái Bình Dương (CA-TBD). Sau đó, chúng ta sẽ giải thích tại sao nước Mỹ có thể giữ một vị thế sức mạnh nổi trội ở CA-TBD trong hơn một thế kỉ qua.
Chiến tranh Lạnh ở CA-TBD
Sự thất bại của Nhật vào tháng 8 năm 1945 kéo theo sự nổi lên của một nền Hòa bình kiểu Mỹ ở CA-TBD trong thời kì hậu Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Mặc dù Chiến tranh Lạnh ở CA-TBD được đặc trưng bởi cấu trúc tam cực, với Mỹ, Trung Quốc và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, cũng như sự dịch chuyển tương quan lực lượng trong trật tự hình tam giác này, nhưng yếu tố trung tâm lại chính là địa vị ưu việt, hay như quan điểm của một số người, là vị thế bá quyền của Mỹ. Không giống như Tây Âu, nơi vai trò lãnh đạo an ninh của Mỹ được đặt trong cấu trúc đa phương xoay quanh NATO, một hệ thống các liên minh song phương được coi như là xương sống của quan hệ an ninh trong khu vực CA-TBD. Cố gắng duy nhất trong việc xây dựng liên minh đa phương thời kì Chiến tranh Lạnh đã thất bại: Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) được thành lập năm 1954 và bao gồm Australia, Anh, Pháp, New Zealand, Pakistan (cho tới năm 1973), Philippines, Thái Lan và Mỹ. Sự hợp tác không bao giờ thực sự đạt được vì mức độ da dạng cao giữa các thành viên. SEATO cuối cùng tan rã vào năm 1977. Một hệ thống các hiệp ước an ninh song phương mà Mỹ khởi xướng với các đồng minh chủ chốt của nó tại CA-TBD là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã tỏ ra là một sự thay thế triển vọng hơn cho chủ nghĩa đa phương.
Trong các đồng minh, trục đồng minh Mỹ – Nhật nổi lên như là mối quan hệ quan trọng nhất. Năm 1951, Mỹ và Nhật kí Hòa ước San Francisco và các Hiệp ước An ninh Tương hỗ hết sức bất bình đẳng. Trong khi Hòa ước San Francisco chính thức chấm dứt tình trạng chiếm đóng của Mỹ ở Nhật, Hiệp ước An ninh Tương hỗ đưa Nhật lên vị thế vệ tinh quân sự của Mỹ. Năm 1960, một hiệp ước quốc phòng song phương giữa hai nước nâng cao vị thế của Nhật vì nó loại bỏ các quy định trước đây cho phép Mỹ can thiệp vào chính trị Nhật, cung cấp một chiếc “ô hạt nhân” và buộc Mỹ phải có nghĩa vụ bảo vệ Nhật nếu Nhật bị tấn công. Hiệp ước đó cũng đòi hỏi Washington phải thảo luận với Tokyo về việc sử dụng các căn cứ quân sự đặt tại Nhật. Đồng thời, hiệp ước quân sự càng gắn kết Nhật hơn nữa vào bàn cờ chiến lược an ninh và quốc phòng Chiến tranh Lạnh toàn cầu của Mỹ với tư cách là một con cờ quan trọng (xem phân tích sâu hơn tại Umbach 2000).
Kiến trúc an ninh Chiến tranh Lạnh của CA-TBD đặc biệt khác với Châu Âu, không chỉ về cấu trúc mà còn về cả tác động. Trong khi cân bằng quyền lực Mỹ – Xô giữ cho Châu Âu được ổn định và an toàn thì sự đối lập về chính trị và ý thức hệ giữa hai cường quốc đã dẫn tới những xung đột an ninh trong khu vực CA-TBD. Trên thực tế, hai “cuộc chiến tranh nóng” thời Chiến tranh Lạnh lại xảy ra ở Đông Á, đó là ở Triều Tiên (1950-53) và Việt Nam (1965-73).
Khoảng từ năm 1949 đến 1975, sự hiện diện của Mỹ ở khu vực CA-TBD chủ yếu nhằm phục vụ chiến lược chống cộng toàn cầu của nó. Duy trì ưu thế quân sự so với Liên Xô và Trung Quốc là ưu tiên cao nhất. Nỗ lực đầu tiên trong việc này là ủng hộ Quốc Dân Đảng trong cuộc nội chiến Trung Quốc, cuộc chiến vốn đã kết thúc trong thất bại cay đắng với những lời cáo buộc lẫn nhau. Mỹ còn nhúng tay vào các hành động quân sự tại Triều Tiên vốn đi vào thế bế tắc năm 1953. Những thất bại này đã thuyết phục Đảng Dân chủ lẫn Đảng Cộng hòa ở Mỹ về việc cần có một sức mạnh quân sự áp đảo, và các chính quyền tiếp đó đã cho phép đầu tư lớn vào việc trang bị tàu ngầm, tàu sân bay, các vũ khí nguyên tử và thông thường, song song với việc duy trì đội quân hơn 100.000 người tại Châu Á, chủ yếu đóng ở Nhật Bản và Hàn Quốc.
Một khía cạnh khác trong chiến lược ngăn chặn là việc ủng hộ hầu hết bất cứ chế độ nào có dấu hiệu chống cộng sản. Chiến lược này được phát triển vào đầu những năm 1950 bởi Ngoại trưởng John Foster Dulles cùng với những người khác. Đầu tiên, các chính phủ chống cộng được đề nghị ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách đàn áp các phong trào chính trị cộng sản trên lãnh thổ của mình. Thứ hai, viện trợ của Mỹ sẽ biến họ trở thành những nước giàu mạnh, dân chủ và có những “ảnh hưởng mang tính làm gương” lên các nước láng giềng cũng như dân chúng của những nước cộng sản. Những quốc gia chủ chốt được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của Mỹ trong chiến lược này là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, và một vài nước Đông Nam Á. Kết quả khá đa dạng. Chính quyền Philippines thoái hóa thành một chính quyền suy đồi chính trị và tham nhũng cực độ dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ferdinand Marcos, người bất chấp tất cả vẫn nhận được sự ủng hộ kiên định của Mỹ. Các nhà nước khác lạm dụng nhân quyền và hạn chế tự do dân chủ cũng là những nước hưởng lợi từ viện trợ Mỹ. Mỹ lộ rõ là đã ủng hộ những chế độ chuyên chế miễn là những chế độ này đồng ý chống Liên Xô. Mặt khác, có thể nói Nhật và một vài nước khác đã chuyển hóa thành những nước thành công, giàu có và dân chủ dưới sự giám hộ của Mỹ.
Thảm họa lớn nhất trong chính sách của Mỹ là cuộc chiến tranh Việt Nam. Đến đầu những năm 1960, chính sách Châu Á của Mỹ hết sức cứng nhắc, giáo điều và thiếu thông tin. Lờ đi sự đa dạng cao độ tại khu vực CA-TBD, quân đội Mỹ dường như tin vào “học thuyết domino”, cho rằng hoạt động cộng sản thành công (ví dụ như ở Bắc Việt Nam) chắc chắn sẽ lan rộng và lật đổ các chính phủ thân Mỹ trên khắp khu vực. Đó là cái cớ cho việc ném bom ồ ạt xuống Hà Nội năm 1965, dẫn tới cuộc chiến 10 năm vốn tàn phá phần lớn bán đảo Đông Dương, và cuối cùng kết thúc với một thất bại nhục nhã.
Tuy nhiên, xuất hiện một nhân tố thứ ba trong câu chuyện này: nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quan hệ tay ba có xu hướng đi theo kiểu “hai chống một” và cả ba cường quốc đều lợi dụng cấu trúc này cho những lợi ích riêng. Mỹ vận động qua lại giữa Trung Quốc và Liên Xô bằng việc tăng cường hay bỏ qua những liên minh song phương để ứng phó với những thay đổi trong tương quan quyền lực. Tương tự, Trung Quốc lợi dụng xung đột giữa hai siêu cường một cách khá khéo léo.
Nói ngắn gọn, Trung Quốc liên minh với Liên Xô suốt những năm 1950 nhằm tranh thủ sự hỗ trợ kinh tế và quân sự. Tuy nhiên, mối quan hệ lung lay nghiêm trọng khi hai bên đều muốn làm lãnh đạo chính thức của phong trào Cộng sản Quốc tế, và có thời gian chiến tranh dọc biên giới phía Bắc Trung Quốc dường như là chắc chắn. Năm 1960, chia rẽ mở rộng và gay gắt hơn, Liên Xô rút tất cả mọi việc trợ cho Trung Quốc. Mối bất hòa Trung – Xô dẫn tới một thập niên Trung Quốc theo đuổi chính sách vừa chống Liên Xô vừa chống Mỹ. Năm 1972, cả Bắc Kinh và Washington đều thay đổi quan điểm chiến lược và cùng nhau thương lượng về một liên minh song phương nhằm chống lại bá quyền của Liên Xô.
Theo sau sự kiện “ngoại giao bóng bàn” giữa hai kiến trúc sư của chính sách xích lại gần nhau, Henry Kissinger và Chu Ân Lai, Mỹ và Trung Quốc đã tái lập quan hệ ngoại giao năm 1978. Sau sự kiện này, Trung Quốc kiếm lợi từ sự bế tắc trong quan hệ giữa hai cường quốc còn lại, cho phép nước này giảm bớt các mối đe dọa quân sự nhằm theo đuổi những mục tiêu hiện đại hóa. Từ quan điểm của Mỹ, Liên Xô được xem như là mối đe dọa lớn nhất cho tới năm 1990, thời điểm mà Trung Quốc đã giành được một vị thế rất an toàn tại Châu Á nhờ vào những thành công từ phát triển kinh tế. Đầu những năm 1990, những phản ứng của Mỹ trước sức mạnh mới nổi của Trung Quốc khá pha trộn, phản ánh sự chuyển giao từ Chiến tranh Lạnh sang một thế trận toàn cầu mới.
Thời kì hậu Chiến tranh Lạnh
Khi thời kỳ lưỡng cực kết thúc, theo quan điểm của Mỹ thì một trật tự thế giới mới sẽ được xây dựng dựa trên ưu thế nổi trội của nước này và khuếch tán các giá trị và niềm tin của nó ra ngoài. Tuy nhiên, Mỹ bước vào thời kì hậu Chiến tranh Lạnh trong tình trạng yếu hơn trước kia về quyền lực, đặc biệt là về kinh tế. Sự suy giảm sức mạnh kinh tế tương đối của Mỹ có hai nguyên nhân: thâm hụt thương mại và thâm hụt ngân sách. Thâm hụt thương mại với Nhật của Mỹ vào khoảng 50 tỉ đô-la, và với các nước Châu Á khác là khoảng 25 tỉ đô-la vào đầu những năm 1990. Cùng lúc đó, chính phủ Mỹ cũng phải chịu tình trạng thâm hụt ngân sách khổng lồ, buộc phải cắt giảm thêm chi tiêu cho phúc lợi xã hội và quân sự. Mặc dù trong vòng vài năm, nước Mỹ đã có thể cân bằng lại ngân sách và có được mức tăng trưởng mạnh mẽ trong khi Nhật ngày càng lún sâu hơn vào tình trạng khủng hoảng và sau đó là sự sụp đổ kinh tế của các nước Đông Á khác trong thời kỳ 1997-98, thì đối với nhiều người bối cảnh đầu những năm 1990 cho thấy sự tiếp tục suy giảm của ảnh hưởng Mỹ ở khu vực (Okimoto et al. 1996).
Cần lưu ý là không phải tất cả các nhà phân tích đều tán thành quan điểm “suy yếu”, như ý kiến nổi bật nhất của Paul Kennedy (1988). Nye (1990) và Rapkin (1994) phát triển giả thiết đối lập dựa trên giả định cho rằng vị thế ưu việt trên toàn cầu của Mỹ không hề bị thách thức. Tuy nhiên, sự nổi lên của chủ nghĩa tân biệt lập trong một vài tầng lớp chính trị tinh hoa Mỹ (Schlesinger 1995) đã đóng góp thêm vào nhận thức về những thay đổi quan trọng trong vai trò toàn cầu của Mỹ. Trong các đồng minh Đông Á của Mỹ, như Nhật Bản, Hàn Quốc và các chính phủ khác trong khu vực, tồn tại mối quan ngại rằng “với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và phản ứng trong nước của Mỹ trước các khoản thâm hụt thương mại, Mỹ có thể “rút lui” khỏi Châu Á” (Krauss 2000:482). Theo quan điểm đang lan rộng ở Mỹ, các nền kinh tế hết sức thành công tại Châu Á giờ đây có thể tự bảo vệ mình mà không cần sự trợ giúp từ Mỹ (Johnson và Keehn 1995:104).
Các chiến lược mới trong bối cảnh cấu trúc thay đổi: Sự nổi dậy của chủ nghĩa đa phương
Với sự nổi dậy của những cơ hội đồng thời là sự không chắc chắn về mặt cấu trúc, nhiều chủ thể hoạch định chính sách đối ngoại của Washington nhận thấy sự cần thiết phải có các cơ chế mới để đương đầu với các thách thức đang nổi lên. Trong những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ nhất của Clinton, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Winston Lord, đã viết một giác thư sắc bén gửi Ngoại trưởng Warren Christopher để cảnh báo rằng nước Mỹ đang vướng vào rắc rối nghiêm trọng tại Châu Á. Một vài nước Châu Á đã bắt đầu chống đối những can thiệp của Mỹ trong khu vực và nhận thấy Washington là một “vú em nếu không phải là một tên côn đồ quốc tế”, như cách nói một quan chức cấp cao trong chính quyền (trích trong Manning và Stern 1994:86). Sự phát triển của chủ nghĩa đa phương được xem như là một chiến lược thích hợp để giữ chân Mỹ trong khu vực và tăng cường cả về mặt tín nhiệm lẫn pháp lý cho vị thế của Washington so với các chủ thể lớn khác trong khu vực. Không như Chính quyền của Tổng thống George Bush, phần lớn các chủ thể hoạch định chính sách liên quan trong chính quyền Clinton đều hoan nghênh chủ nghĩa đa phương như một phần bổ sung (chứ không phải là một phần thay thế) cho sự tồn tại của các dàn xếp song phương hiện hữu. Vì vậy, Mỹ ủng hộ các cách tiếp cận nhằm tăng cường các diễn đàn đa phương hiện hữu (như APEC) và tạo ra những cơ chế đa phương mới như là Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) (Baker 1998; McGrew 1998; Dosch 2000).
Trái ngược với những kinh nghiệm trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương và có thể là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, ở CA-TBD, sự xuất hiện một hệ thống đa phương của các mối quan hệ quốc tế lại được khởi đầu và bị chi phối bởi các nước yếu chứ không phải các cường quốc thống trị trong khu vực. Cùng lúc, cũng nên lưu ý rằng vai trò của Mỹ là cốt yếu cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa phương trong khu vực, mặc dù Washington không bắt đầu tiến trình này. Thay vào đó, các nước ASEAN được tiếng là người kiến tạo đối thoại an ninh khu vực. ASEAN xem ý tưởng ARF như một cách thức để giữ Mỹ can dự vào khu vực và kiềm chế các thế lực đang lên như Trung Quốc và Nhật. Nửa đầu năm 1993, Mỹ và Nhật ra tín hiệu ủng hộ các diễn đàn an ninh đa phương. Washington tỏ ra quan tâm đến việc tạo nên một công cụ nhằm khuyến khích đối thoại giữa Hàn Quốc và Nhật Bản khi thiếu vắng các diễn đàn song phương thích hợp. Nhật bị thúc đẩy bởi các ý chí chính trị nhằm tìm kiếm một phương cách bổ sung để bảo đảm an ninh cho mình mà không trở nên quá năng động, tránh gợi lại các kinh nghiệm không tốt đẹp từ thời bá quyền Nhật Bản. Do đó, cả Nhật và Mỹ đều hưởng ứng sáng kiến của ASEAN trong việc đóng vai trò lãnh đạo ngoại giao nhằm thiết lập một dàn xếp đa phương. Khi tờ Washington Post (26/7/1994) đưa phóng sự sau cuộc họp ARF đầu tiên năm 1994 rằng một thể chế mới đã được thành lập “theo các quan điểm được Tổng thống Clinton ủng hộ”, nó đã lờ đi một sự thật rằng diễn đàn mới này rõ ràng là theo định hướng của các nước Châu Á nhiều hơn. Tuy nhiên, trong một bài phát biểu trước Quốc hội Hàn Quốc vào tháng 7 năm 1993, Clinton ủng hộ đối thoại an ninh giữa các nước Thái Bình Dương. Tổng thống đề xuất nhiều hoạt động an ninh chồng chéo nhau, từ các thảo luận đa phương về các vấn đề cụ thể như tranh chấp Trường Sa cho đến các giải pháp xây dựng lòng tin như thảo luận các học thuyết quốc phòng, sự minh bạch trong mua sắm vũ khí và quản lý xung đột. Đề xuất này, vốn là một phần của “chiến lược can dự và mở rộng” kiểu chủ nghĩa tân-Wilson của Tổng thống Clinton, đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với CA-TBD.
Nửa đầu những năm 1990 là thời hoàng kim của “Giấc mơ Thái Bình Dương”, lúc mà các từ “tương lai”, “thịnh vượng” và “CA-TBD” gần như trở nên đồng nghĩa. Không có nước nào, nhất là Mỹ, muốn mất phần trong “thế kỉ Thái Bình Dương sắp tới”. Trong một đánh giá mang tính phản biện về tầm nhìn CA-TBD, Rob Wilson viết:
“CA-TBD” là một ý niệm hoàn mỹ của thị trường tự do, một chỉ dấu đang nổi lên của các khát vọng xuyên quốc gia về một sự thống nhất siêu quốc gia cao hơn mà ở đó các lực lượng toàn cầu và địa phương sẽ cùng gặp nhau trong một tình huống “các bên cùng thắng”, và một thị trường mở sẽ hấp thu văn hóa và chính trị vào trong dòng chảy không biên giới mạnh mẽ của nó.
(Wilson 2000:566)
Tóm lại, quy mô nền thương mại CA-TBD đã kích thích giấc mơ về một cộng đồng Thái Bình Dương của Mỹ. Các con số quả thực ấn tượng. Các nền kinh tế Châu Á chiếm 4% GDP toàn cầu năm 1960, nhưng con số này tăng lên 25% vào năm 1991 – xấp xỉ tỉ lệ của Mỹ. Từ 1972 đến 1992, GDP tại CA-TBD tăng tới 141% trong khi Tây Âu và Bắc Mỹ chỉ đạt mức tăng lần lượt là 55% và 59% (Dibb 1995:19). Thứ trưởng Thương mại Mỹ, Jeffrey E.Garten (1995), nhấn mạnh rằng Đông Á có thể tăng trưởng nhanh gấp hai lần nước Mỹ trong thập kỉ tới, và gấp ba lần so với Châu Âu. Kết quả là Mỹ đã ủng hộ APEC như là một hòn đá tảng cho mục tiêu duy trì nền kinh tế năng động trong khu vực của chính quyền Clinton. Tại một cuộc điều trần ở Quốc hội về tương lai chính sách đối ngoại Mỹ tại CA-TBD, đại diện của Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ (Office of the United State Trade Representative – USTR), một chủ thể chính trong chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ, nói rằng APEC “là trọng tâm khu vực trong các nỗ lực của chúng ta để mở của thị trường và tăng cường thương mại” (Barshefsky 1995). Theo ước tính của USTR, nếu thị trường Mỹ mở rộng thêm cứ 1 phần trăm nhờ vào hợp tác trong APEC thì sẽ tạo thêm 300.000 việc làm mới tại Mỹ (Barshefsky 1995). Theo sáng kiến của Clinton, APEC bắt đầu giữ những vai trò quan trọng hơn từ năm 1993 khi mà lần đầu tiên nguyên thủ các nước thành viên gặp nhau tại Seattle. Trước đó, chỉ có các Bộ trưởng và quan chức chính phủ cấp cao tham gia hoạt động của APEC. Hội nghị thượng đỉnh Seattle mang lại một cú hích mạnh cho những sáng kiến tự hóa do thương mại. Một năm sau đó, “Tuyên bố Bogor” của APEC vào năm 1994 đã kêu gọi thành lập trên thực tế Khu vực thương mại tự do CA-TBD vào năm 2020. Tuy nhiên, từ giữa những năm 1990, APEC nói riêng và chủ nghĩa đa phương ở khu vực nói chung dần dần mất đà, nguyên nhân chủ yếu là do khủng hoảng Châu Á vốn đã thay đổi căn bản cách nhìn CA-TBD như là một trụ cột kinh tế của thế kỉ 21. Tuy nhiên, APEC, ARF và các diễn đàn đa phương khác vẫn không phải là không còn phù hợp. Do thiếu vắng các cơ chế thích hợp khác, chúng vẫn cung cấp một khuôn khổ giá trị cho các cuộc họp cấp cao đều đặn giữa các nước mà nếu không có chúng việc liên lạc giữa các nước có thể gặp khó khăn. Trung Quốc và Đài Loan, Nhật và Hàn Quốc, Mỹ và Bắc Triều Tiên là những ví dụ điển hình. Cùng lúc đó, chủ nghĩa đa phương không còn là ưu tiên hàng đầu trong các nghị trình ngoại giao nữa. Đối với nước Mỹ thì sự bùng nổ của khủng hoảng Châu Á năm 1997 đã xoa dịu sự lo lắng về sự suy giảm vị thế ưu việt của Mỹ. Từ quan điểm tái nhận thức sức mạnh của Mỹ, một lần nữa, các mối hợp tác đa phương đã mất đi sự thu hút và cần thiết ban đầu như là một phương tiện tăng cường lợi ích Mỹ. Các chiến lược đơn phương và song phương đã được tái chứng minh tầm quan trọng. Thành công trong việc xác định lại quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật càng ảnh hưởng đến sự thay đổi trong nhận thức nói trên. Hiệp ước được tái ký làm giảm đáng kể những bối rối của Mỹ đầu những năm 1990 về kiến trúc an ninh CA-TBD sau Chiến tranh Lạnh. Mối quan hệ đồng minh này lại tiếp tục được xem là xương sống vững chắc của các mối quan hệ an ninh trong khu vực, vì thế giảm bớt sự cần thiết phải có các chiến lược bổ sung.
Sự hồi sinh của mô hình cũ trong quan hệ Mỹ – Đông Á: ưu thế của chủ nghĩa song phương
Sự áp đảo của cách tiếp cận song phương đối với an ninh CA-TBD được phản ánh rõ ràng qua “Tuyên bố chung Nhật – Mỹ về an ninh: Liên minh cho thế kỉ 21” vào ngày 16 tháng 4 năm 1996. Tuyên bố mô tả khái quát nhu cầu hai nước cần “làm việc cùng nhau và riêng lẻ… nhằm đạt được một môi trường an ninh hòa bình và ổn định hơn tại CA-TBD” (Bộ Ngoại giao Nhật Bản 1996). Văn bản này nhấn mạnh bốn ý chính:
Hợp tác với Trung Quốc nhằm khuyến khích nước này “đóng vai trò tích cực và mang tính xây dựng trong khu vực”.
Khuyến khích hợp tác với tiến trình cải cách đang diễn ra ở Nga, và xác nhận một lần nữa việc bình thường hóa quan hệ đầy đủ giữa Nhật và Nga có vai trò quan trọng đối với an ninh và hòa bình khu vực.
Tiếp tục nỗ lực ổn định bán đảo Triều Tiên thông qua hợp tác với Hàn Quốc.
Phát triển các cơ chế hợp tác và đối thoại an ninh đa phương trong khu vực như Diễn đàn khu vực ASEAN, và cuối cùng là các đối thoại về an ninh ở Đông Bắc Á.
So sánh các điểm này với năm “hòn đá tảng” của chính sách Châu Á của Mỹ được nêu ra bởi Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger năm 1985 cho thấy ưu tiên hàng đầu của Washington không thay đổi về căn bản:
Tầm quan trọng then chốt của quan hệ an ninh Mỹ – Nhật.
Cam kết của Mỹ về ổn định tại bán đảo Triều Tiên.
Nỗ lực của Mỹ để xây dựng mối quan hệ lâu dài với Trung Quốc.
Ủng hộ của Mỹ đối với ASEAN.
Quan hệ hữu nghị lâu đời của Mỹ với Australia và New Zealand (trích trong Grinter 1989:22).
Tuyên bố chung năm 1996 và Đường lối mới cho hợp tác quốc phòng Mỹ – Nhật công bố tại New York ngày 23 tháng 12 năm 1997 đã kích thích những tranh luận học thuật sống động về ý nghĩa của liên minh này đối với quan hệ an ninh ở CA-TBD. Nhìn chung, liên minh được làm mới giữa Mỹ và Nhật được thừa nhận hơn bao giờ hết là xương sống của kiến trúc an ninh khu vực. Nó bảo đảm hòa bình và an ninh không chỉ cho Nhật mà còn cho toàn bộ khu vực CA-TBD. Hầu hết cho rằng liên minh này là lựa chọn tốt thứ hai trong bối cảnh thiếu vắng một cấu trúc an ninh và quốc phòng đa phương tương tự như ở Châu Âu. Đồng thời, việc nhiều người ở Châu Á (mà có lẽ là cả ở Mỹ) cảm nhận liên minh này như một đối trọng nhằm chống lại một Trung Quốc có tiềm năng trở nên bành trướng và hiếu chiến trong tương lai cũng tạo ra một số quan ngại.
Dù có sự nổi trội của chủ nghĩa đa phương trong một thời gian ngắn, cả chính quyền Clinton lẫn chính quyền George W.Bush đều không hề nghi ngờ vai trò của chủ nghĩa song phương với tư cách là cách tiếp cận chính sách đối ngoại chủ chốt dành cho khu vực CA-TBD. Nếu cấu trúc này bị thay đổi thì một cấu trúc hòa hợp quyền lực (concert of power) có thể nổi lên thay thế. Một viễn cảnh phổ biến hay được bàn luận bởi các chính trị gia cũng như giới học giả thường đề cập đến sự mở rộng quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật. Hàn Quốc (và có thể là một Triều Tiên thống nhất trong tương lai) và Australia là những đối tác tiềm năng trong hệ thống hòa hợp quyền lực, vốn có thể mang lại cho các đồng minh của Mỹ nhiều trọng trách hơn nhiều so với hiện nay. Tuy nhiên, một câu hỏi lớn là liệu Trung Quốc có đủ tư cách trở thành một phần trong cấu trúc hòa hợp quyền lực trên hay không. Nếu câu trả lời là có thì CA-TBD có thể giống với cấu trúc an ninh xuyên Đại Tây Dương vốn ngày càng bao gồm nhiều chủ thể dựa trên sự mở rộng của khối NATO.
Những thay đổi trong quan hệ quốc tế sau sự kiện ngày 11 tháng 9 đã tạo ra thêm sự ủng hộ đối với việc phối hợp nỗ lực nhằm thành lập một trật tự khu vực an ninh hơn tại CA-TBD. Bất chấp các xu hướng đơn phương trong chính sách đối ngoại Mỹ diễn ra sau các cuộc tấn công khủng bố vào New York và Washington, cuộc chiến chống khủng bố đang diễn ra cần có nhiều đồng minh mới có thể đạt được thành công. Tuy nhiên tác động của điều này đối Đông Nam Á và Đông Bắc Á tới nay vẫn còn hạn chế. Các tác động của điều này chỉ thể hiện rõ ràng nhất ở Philippines mà thôi.
HỘP 2.1: CUỘC CHIẾN CHỐNG KHỦNG BỐ TẠI CA-TBD: PHILIPPINES LÀ MẶT TRẬN THỨ HAI?Ở đâu? Basilan, một hòn đảo có diện tích khoảng 20×30 dặm ở phía nam Philippines, một tỉnh của khu vực Mindanao, là cứ điểm của nhóm Abu Sayyaf. Những tên khủng bố hay kẻ cướp – tùy vào cách nhìn của từng người – được cho là có liên kết với mạng lưới khủng bố toàn cầu Al-Qaeda.
Mỹ đã làm gì? Ban đầu là tổ chức tập trận huấn luyện. Hiện cuộc tập trận chung với sự tham gia của 3.800 lính Philippines được phía Mỹ gọi tên là cuộc tập trận “Đại Bàng Tự Do – Philippines”.
Mục đích là gì? Mục đích rõ nhất là tiêu diệt Abu Sayyaf. Theo các viện nghiên cứu Mỹ, Philippines là trung tâm lập kế hoạch lớn đối với các sứ mạng toàn cầu của Al-Qaeda. Những báo cáo này cho rằng nhóm Abu Sayyaf có các mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống khủng bố toàn cầu của Osama bin Laden. Tuy nhiên, hầu hết giới quan sát và ngay cả chính phủ Manila và Washington ước tính rằng con số thật sự về các thành viên đang hoạt động của Abu Sayyaf chỉ gần 100. Nhiều người cũng tin rằng nhóm này quan tâm nhiều hơn đến việc cướp bóc hơn là chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan hay khủng bố quốc tế.
Abu Sayyaf gây chú ý dư luận quốc tế như thế nào? Vào tháng 3 năm 2000, Abu Sayyaf đã bắt cóc 58 người từ một trường học ở Basilan. Sau đó, nhóm lại bắt cóc 21 người bao gồm 10 khách du lịch nước ngoài từ một khu du lịch lặn ở Malaysia. Các con tin được thả tự do khi Libya trả hơn 20 triệu đô-la tiền chuộc. Vào tháng 5 năm 2001, Abu Sayyaf bắt cóc tiếp 20 con tin, 17 người Philippines và 3 người Mỹ, ở khu nghỉ dưỡng Dos Palmas trên đảo Palawan của Philippines. Các cuộc bắt cóc quy mô lớn gây ra nhiều mối hoài nghi về nền tảng ý thức hệ mà Abu Sayyaf tự tuyên bố. Viêc nhóm này tự liên hệ với đạo Hồi có vẻ như là để nhằm tạo ra sự thông cảm đối với các hành động tội phạm của chúng.
Sự có mặt của Mỹ được chấp nhận không? Việc triển khai quân của Mỹ là một vấn đề tranh cãi vì Hiệp ước lực lượng quân sự nước ngoài viếng thăm năm 1998 mà theo đó cho phép sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Philippines thực tế lại nghiêm cấm sự tham gia của lực lượng đó vào việc tác chiến trong nước hay trấn áp các phần tử nổi loạn và các hoạt động tội phạm. Chính quyền Manila và Washington đều lờ đi các điều khoản này bởi vì việc hợp tác nhận được sự ủng hộ từ công luận của cả hai nước.
Mối quan tâm thực sự của Washington là gì? Mỹ muốn có quan hệ quân sự thân thiết hơn với Philippines sau khi mất quyền sử dụng các căn cứ ở đây một thập kỉ trước. Hoạt động quân sự chung đã mở ra cánh cửa cho việc khôi phục sự hiện diện quân sự lâu dài của Mỹ ở đất nước này, nơi có tầm quan trọng địa chiến lược đối với Washington.
Các nước Đông Nam Á khác liệu có đi theo? Mặc dù chính quyền Bush lo ngại rằng Đông Nam Á có thể phát triển thành một cái nôi sinh sản của chủ nghĩa khủng bố, các chiến dịch chung tại Philippines khó trở thành một mô hình kiểu mẫu cho toàn khu vực này. Trước mắt, các nhà chức trách Mỹ cho rằng việc triển khai quân tại Indonesia sẽ phản tác dụng do các tình cảm bài Mỹ ở đất nước Hồi giáo lớn nhất thế giới này.
Khái quát lịch sử trên đã cho thấy mặc dù có những thay đổi lớn về cấu trúc ở từng khúc quanh lịch sử, Mỹ vẫn có vị thế áp đảo ở khu vực từ đầu thế kỉ 19. Phần tiếp theo sẽ tập trung vào các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến và thậm chí quyết định cách tiếp cận của Mỹ đối với khu vực.
Ngẫm nghĩ về vai trò của Mỹ tại CA-TBD: Ba biến số
Quyền lực cứng và quyền lực mềm: hai trụ cột tạo vị thế ưu việt cho Mỹ
Đôi lời kết luận về mặt lý thuyết
Tài liệu tham khảo
Download toàn bộ văn bản tại đây: The US in the Asia – Pacific.pd
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2013/05/20/my-ca-tbd/#sthash.mG70zkgL.zybMhsoB.dpuf
“Đạo lý của sự loạn và sự mất”
TƯƠNG LAI
Trong lan man suy ngẫm về nhiễu nhương thế sự của chiếu bạc tàn canh, mọi con bạc dù khát nước hay ngậm miệng ăn tiền, đều làm cho tình hình rối như canh hẹ, bỗng nhớ đến Hoàng Lê nhất thống chí. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên với quy mô của một sử thi miêu tả lại một giai đoạn của những biến động dữ dội trong 30 năm cuối thế kỷ XVIII, xã hội tanh bành, hệ thống giá trị bị đảo lộn, vua không ra vua, quan không ra quan, nghĩa quân thần “nhạt như nước ốc, bạc như vôi”, dân tình điêu đứng lầm than, “tiền tài hai chữ son khuyên ngược, nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”! (1)
Gs Tương Lai
Về quan thì như Nguyễn Cảnh Thước, trấn thủ Kinh Bắc, trắng trợn trấn lột hết “đồ ngự dụng” của vua còn “cho người đuổi theo lột chiếc áo ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt cởi áo ngự bào trao cho chúng…”. Một viên huyện lệnh, để có được tước “Tráng Nghĩa hầu thêm chức Trấn thủ Sơn Tây” đã phủi lời thầy uỷ thác mà nói toẹt ra với chúa Trịnh Tông trong bước đường cùng “Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường, ông cũng không thể tránh khỏi, đừng có làm gì nữa cho nhọc mình” rồi đem nộp Đoan Nam Vương cho quân Tây Sơn. Khi bị Lý Trần Quán quở trách, “Chúa là chúa chung của thiên hạ mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm thế”, y nói ráo hoảnh: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để cho quan lớn làm cho lầm lỡ đâu”.
Về vua, có đoạn sau đây nói về Lê Chiêu Thống chắc nhiều người nhớ: “Nước Nam ta từ khi có đế có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn Long, việc gì cũng do viên Tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc”.
Tới nay tức là tới ngày 16 tháng 10, mùa đông năm thứ 58 niên hiệu Càn Long bên Tàu (1792) cách Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) gần ba thế kỷ, chính xác là 276 năm. Vậy nên, mọi so sánh đều khập khiễng cả nên chớ có bóng gió liên hệ vớ vẩn mà phạm huý, tội chém đầu chứ chả chơi. Gợi lại chỉ để nói đến một chi tiết mà các tác giả của Hoàng Lê Nhất thống chí hai lần nhắc đến nhưng xem ra có thể nhiều người không để ý. Đó là chuyệntrái tim của Lê Chiêu Thống.
Vâng, trái tim chính hiệu chứ không bóng gió gì cả. Xin chép nguyên văn: “Năm Giáp Tý (1804) vua Thanh [tức là Gia Khánh, kế vị Càn Long] giáng chỉ cho đưa di hài của vua Chiêu Thống về táng ở quê nhà…Tháng giêng năm ấy, các bề tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống thì thấy da thịt đã nát hết chỉ có trái tim không nát, mà màu sắc vẫn còn tươi. Tính từ khi quàn đến bây giờ đã hai năm […] Ngày 13 tháng 8 mùa thu năm đó, di hài vua Lê đưa về đến cửa ải[…] Ngày 12 tháng 10, các quan thay hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác. Thấy trái tim vẫn còn y nguyên”. Trước đó đã có đoạn miêu tả tâm trạng Lê Chiêu Thống qua lời trăng trối: “Trẫm gặp lúc vận nhà suy kém, không thể giữ được xã tắc, phiêu bạt ở đất nước người để hòng tính chuyện khôi phục, lại bị đứa quyền gian lường gạt, uất ức đến mãi bây giờ, phải ôm hận mà chết, thật do lòng trời gây nên. Sau này nếu các người được về nước, thì nên đèo nắm xương tàn của trẫm cùng về, chôn ở cạnh lăng tẩm của các vị thánh hoàng đời trước, để tỏ rõ chí hướng của trẫm”.
Vậy đó. Liệu đọc lại những điều nói trên độc giả có thể tất phần nào cho lỗi lầm một tội đồ của lịch sử? Thể tất, vì ông vua tệ hại nhất trong số những “đấng quân vương” từng ngự trị trên ngai vàng để thần dân nước Việt buộc phải tung hô ấy cũng có một trái tim! Hãy để sang một bên chuyện “hư cấu” khi lịch sử được chuyển thành truyện, thành tiếu thuyết cho dù có nâng tác phẩm lên hàng “sử thi”. Hãy cứ tạm thừa nhận cái hình tượng trái tim trong thi hài sau hai năm “vẫn còn y nguyên, màu sắc vẫn còn tươi khi da thịt đã nát hết” để luận đôi điều về hình tượng giàu gợi ý đó. Vì khi nói về trái tim, cho dù trái tim của một người từng bị nguyền rủa về tội bán nước cầu vinh, liệu có đáng được hưởng chút bao dung trong suy ngẫm: “Quả tim tội nghiệp của con người vẫn là quả phao để cứu giữ ít nhiều thơ mộng khỏi sa xuống vực tối” như một nhà văn Pháp đã viết?
Ở đây không có ít nhiều thơ mộng, ở đây là nỗi tuyệt vọng của một số phận lầm lỗi trong sự mê muội, lú lẫn về “chí hướng”. Đó là chí hướng “tính chuyện khôi phục” cái ngai vàng đã quá mục ruỗng của thời Lê mạt mà sự cáo chung chỉ là sớm muộn. Hãy cứ cho là chí hướng đó là khả thủ, thì không thể không chỉ rõ cách lựa chọn giải pháp để thực hiện “chí hướng” là quá ngu muội với tội rước voi về giày mả tổ. Gợi lại sự ngu muội và đê hèn của Lê Chiêu Thống không những nhục nhã luồn cúi vua tôi Càn Long nhà Thanh mà còn rước Tôn Sĩ Nghị đem mười vạn quân Tàu vào giày xéo đất nước, là để một lần nữa gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho những Lê Chiêu Thống của thế kỷ XXI.
Nếu cái khát vọng cuối cùng của Lê Chiêu Thống là di hài của mình được “chôn ở cạnh lăng tẩm của các vị thánh hoàng đời trước” rồi cũng được thực hiện “Vua Thanh sai dùng lễ Quốc công an táng vua Lê ở khu Quảng Lăng, ngoài cửa Tây Trực”, Hoàng Lê Nhất thống chí chép rất rành rọt. Thì ra từ xa xưa bọn xâm lược cáo già từng rất thành thục mua chuộc kẻ cam phận làm tay sai, đặc biệt là kẻ đứng đầu hoặc nắm quyền cai trị ở cấp cao nhất, vì đó là cái giá rẻ nhất cho việc biến một đất nước thành chư hầu.
Xưa đã vậy, nay càng như vậy, cho dù biến thái có khác nhau. Thời buổi văn minh của thế kỷ XXI, tuy có công nghệ điện táng thi hài, nhưng “nghi trượng” oai phong lẫm liệt của đám tang những “tứ trụ” hoặc những bậc công thần đời mới vẫn cứ hấp dẫn ai đó hơn. Cái tâm lý “một ngày tựa mạn thuyền rồng…” xem ra vẫn còn ám ảnh trong não trạng của chẳng ít người bỗng dưng như chuột sa chĩnh gạo, chó ngáp phải ruồi, một phát ngất ngưởng ngồi trên đầu thiên hạ, khiến đêm nằm ngủ còn nhờ vợ véo tai xem thử mình đang mơ hay đang ngồi trên cái ghế ấy thật!
Thì nghe đâu đã từng có một ông tướng nọ bị ung thư giai đoạn cuối đúng vào lúc “cơ cấu lãnh đạo” đã cấm tiệt bác sĩ tuyệt đối không được kể bệnh mà phải ghi là “sức khoẻ đang hồi phục tốt” đó sao. Tội nghiệp cho vị bác sĩ phụ trách bệnh viện, vì thương thủ trưởng, muốn thủ trưởng không sớm ra đi, đã cưỡng lệnh mà kê đơn bốc thuốc nên nghe đâu đã bị cách chức. “Quân lệnh như sơn” chớ có dại. Mà đây lại là “quân lệnh” đặc biệt nhằm thẳng tiến đến chức chủ tịch gì gì cơ đấy. Cách chức là còn nhẹ, may mà rồi ông ấy toi thật, chứ không thì hoạ “tru di” là nhỡn tiền. Dĩ nhiên hình thức “tru di” cũng văn minh lịch sự chứ không máu chảy đầu rơi như thời phong kiến thối nát đâu. Chỉ là thanh tra thuế “làm việc với công ty” nhằm triệt đường làm ăn của con, tác động dây chuyền đến việc học hành, thăng tiến xã hội của cháu. Nhẹ nhàng thế thôi.
Người viết bài này có “diễm phúc” được diện kiến vị tướng nọ trong một buổi báo cáo về một đề tài khoa học trước các vị lãnh đạo cấp cao, để rồi nghe ông hạch: “Này anh TL, để tính ra hệ số mà anh gọi là Gini gì gì đó là từ đâu mà ra không? Từ Mỹ, từ Úc, từ Canada đó”. Đây là ông nói về kiều hối, chuyện này đã nói trong “Cảm nhận và Suy tư” xin không nhắc lại.
Ông hạch, vì ông muốn dạy dỗ phải kiên định lập trường, không “mơ hồ địch ta, mơ hồ diễn biến hoà bình”. Tôi cho là ông có ý tốt, muốn uốn nắn “tư tưởng chuyên môn thuần tuý rất có hại cho Đảng”. Chỉ có điều, yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau. Thì cũng đại loại như cách uốn nắn, dạy dỗ của ông Nguyễn Phú Trọng dạo nào: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chứ gì nữa? Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền phân lập’ không?… Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa! Chỉ ở đâu nữa nào? Tham gia đi khiếu kiện, biểu tình, ký đơn tập thể, thì nó là cái gì…ì? Cho nên các đồng chí quan tâm xử lý cái này”.
Thì cứ cho là ông rất chân thành đi, rất tâm huyết đi, rất kiên định “tỏ rõ chí hướng” đi, thì rồi sao? Chí hướng gì đây? Phải chăng là chí hướng “tính chuyện khôi phục” cái thể chế chính trị đang bị lung lay tận gốc, mà nguyên nhân, đồng thời cũng là hệ luỵ của nó thì ai cũng thấy, miễn phải thuyết minh. Vấn đề có ý nghĩa sống còn là phương cách tỏ rõ chí hướng và tính chuyện khôi phục cái còn sót lại của một hệ thống đã sụp đổ tan tành như lâu đài xây trên cát. Hình như ông quên bẵng đi câu nói bất hủ vốn giấu kín trong trái tim tội nghiệp về sự dao động, hoang mang “đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”!
Có lẽ từ trong tim, chính ông không tin, nhiều người trong các ông cũng không tin. Nhưng nếu không bám vào cái mô hình xã hội chủ nghĩa đã đẩy đất nước dấn sâu vào lạc hậu sau 40 năm để rồi muốn đuổi kịp một nước mà năm 1975 xuất phát điểm về kinh tế cũng chỉ bằng ta, nhưng nay ta phải mất 35 năm may ra mới đuổi kịp họ với một giả thiết là họ đứng yên để chờ ta, thì làm sao giữ được cái ghế quyền lực của ông đang ngồi thêm một nhiệm kỳ nữa?
Chính vì vậy mà phải chọn một giải pháp cực kỳ nguy hiểm là bám lấy người đồng chí cùng chung ý thức hệ mà trong thâm tâm chắc ông cũng như cả bộ sậu của ông đôi khi cũng thấy bất an. Cái trò đu dây đầy phiêu lưu mà hệ luỵ cực kỳ khó lường thì ngày càng lộ ra. Đành rằng đã trót phóng lao thì phải theo lao, nhưng nỗi bất an đang ngày càng tích luỹ theo cấp số nhân nên mới lâm vào thế “khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào” mà trong “Mênh mông thế sự 29” đã có dịp nói đến, chắc khỏi phải bàn thêm.
Nếu có bàn, thì bàn thêm vào những câu nói có tính ngẫu hứng, nhưng vì thế mà hiểu được rõ hơn diện mạo, trí tuệ và bản lĩnh của người nói, Bởi lẽ, như các cụ ta xưa từng nhắc nhở “một lời nói làm cho nước hưng thịnh” nhưng “một lời nói làm cho mất nước” (3) như biện giải của cụ Lê Quý Đôn sẽ dẫn ra dưới đây. Có lẽ phải mạn phép cụ để thêm vào: một lời nói làm tăng thêm sự ngớ ngẩn của một chính khách! Ví như câu nói, đúng hơn là câu hỏi nóng hổi “Ai chạy? Chạy ai? Đằng sau nó là cái gì? Có khi biết mà không nói ra được hay là không dám nói” (báo Tuổi Trẻ ngày 27.3.2016). Ai, cái gì, không nói ra được hay là không dám nói, thì người hỏi đã biết quá rõ rồi, việc gì còn phải đặt ra nữa. Cách nay đúng mười năm, ông Nguyễn Đức Tâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã nói rất rành rẽ, báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh ngày 16.4.2006 đã đăng: “Chạy chức chạy quyền không chỉ ở cơ sở mà trên nữa. Chức thấp tiền ít. Chức càng cao tiền càng lớn. Đã bỏ ra, có chức có quyền rồi thì người ta phải thu về. Mà thu về thì phải có lãi. Càng lãi nhiều càng tốt. Mua quan bán chức, chạy chức chạy quyền là một nguyên nhân làm tha hóa cán bộ”.
Chỉ có cán bộ đảng viên của ông mới chạy chức và chạy quyền, “không chỉ ở cơ sở mà trên nữa. Chức thấp tiền ít. Chức càng cao tiền càng lớn” chứ dân đen thì dính vào đây sao được. Mà dính vào làm gì mặc dầu họ biết rõ, biết tường tận, chẳng cần đợi đến khi trên mạng phơi ra nhân chứng, vật chứng không lẫn vào đâu được nào nhà cửa, chứng từ, nào ảnh chụp đủ mặt vợ chồng con cái đấy thôi. Quả là “thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi” nhằm trả lời câu hỏi ngài Tổng Bí thư đặt ra “đằng sau nó là cái gì” rồi đấy.
Ngài “biết mà không nói ra được” chứ đâu phải là “không dám nói”! Chỉ dân thì mới không dám nói vì họ sợ bị ghép vào điều 258 của Bộ Luật hình sự, chứ ngài thì luật nào dám đụng đến.Biết mà không nói ra được vì sợ gậy ông đập lưng ông, “ném chuột vỡ bình” làm vỡ lở chuyện “không ngờ được Đại hội tín nhiệm giới thiệu, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư gần như 100% tuyệt đối”.
Ấy vậy mà, “thanh khí gốc ở trời và có liên quan với thời đại. Nó tan vào lòng người, thần thông cảm ứng rất linh diệu, rất tinh vi, khó có thể hình dung ra được” như Lê Quý Đôn chỉ ra.Vả chăng, “nói lời không khó, làm nên việc mới khó. Thiên hạ thay đổi, chí hướng mỗi người mỗi khác. Rót vào bên đông sẽ chảy về bên tây, bịt chỗ này lại vọt ra chỗ khác, làm sao bắt được mọi cái đều theo ý mình… Không thể có sự làm điều bất nhân giành thiên hạ mà hưởng lộc nước lâu dài được”. Để nói lên cái quy luật muôn đời ấy, Lê Quý Đôn dẫn lời Tôn Quyền luận về đạo lý của sự loạn và sự mất của các triều đại trong lịch sử: “Xưa nay đâu có chuyện bốn năm người cùng giữ quyền chính mà không chia rẽ, đả kích nhau rồi quay ra cắn xé lẫn nhau, kẻ mạnh thì lăng mạ bạo ngược, kẻ yếu thì xin cứu viện. Đó là đạo lý của sự loạn và sự mất”.
Chao ôi! Lời người xưa nói chuyện thời xưa, nhưng sao cứ như thế sự đang diễn ra trước mắt rõ mồn một thế này? Mà đâu chỉ chuyện thế sự nước ta. Chuyện thế giới cũng vậy thôi. Nhân nói về hình tượng trái tim xin gợi ra đây một trái tim được nhắc đến trong diễn văn của Tổng thống Obama tại Cuba ngày 22.3.2016 nói về những người Cuba từng phải bỏ nước ra đi: Họ “đang cưu mang trong tim bao nhiêu ký ức đau thương của những cuộc cách ly đầy máu và nước mắt. Họ yêu Cuba, và một phần của họ luôn luôn xem nơi đây là chốn quê nhà. Chính vì vậy mà nỗi đau của họ rất sâu… Lịch sử giữa Hoa Kỳ và Cuba có cách mạng, chiến tranh, đấu tranh, hy sinh, ân oán, và bây giờ là hoà giải. Đã đến lúc chúng ta bỏ quá khứ lại sau lưng. Đã đến lúc chúng ta cùng quay hướng nhìn về tương lai”.
Vì thế mà Obama nói rõ: “Hôm nay tôi đến đây để chôn những di vật cuối cùng của cuộc Chiến tranh lạnh. Tôi đến đây để bắt tay và kết bạn với người dân Cuba”. Ông nhắc đến lời José Martí của Cu Ba “Tự do là quyền được sống thật, được suy nghĩ và phát ngôn mà không cần phải ra vẻ đạo đức giả”. Tổng thống Mỹ lưu ý rằng: “Những lý tưởng cách mạng của Hoa Kỳ, của Cuba, của bao cuộc nổi dậy khác trên thế giới, tôi tin rằng chỉ thật sự có ý nghĩa khi chúng được đặt trên nền tảng dân chủ. Tôi tin như vậy không phải vì nền dân chủ của nước Mỹ là hoàn hảo, mà bởi vì nó không hoàn hảo. Đất nước chúng tôi, cũng như bao quốc gia khác, cần không gian rộng lớn của dân chủ để tự điều chỉnh. Bất cứ người dân nào cũng có thể là nhân tố cho sự thay đổi, đưa ra những ý tưởng mới, sáng lập những mô hình xã hội tốt đẹp hơn. Ngay lúc này và ngay trong nước Cuba, một sự tiến hoá cũng đang ngầm xảy ra; một thế hệ người dân Cuba mới đang thành hình”.
Thì ra, có những nguyên lý mà cách nay cả nghìn năm người xưa nói ra đến nay lại cứ như cố tình răn đe cho lũ hậu sinh thế kỷ XXI là chúng ta đây. Đó là lời Lê Quý Đôn trong Quần Thư khảo biện: “Nếu cứ cố chấp vào một thuyết mà không biết lường thời thế, không biết linh hoạt thì không tránh khỏi thất bại vậy”. Xin mạn phép cụ để lấy làm lời kết vậy.
T. L.
Tác giả gửi BVN.
(Bauxitevn)
____________________
Chú thích:
(1) Thơ Nguyễn Công Trứ.
(2) Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí. NXB Văn Học, Hà Nội, 2006. Từ đây, tất cả trích dẫn nói về thời Lê mạt là theo bản này.
(3) Lê Quý Đôn. Quần thư khảo biện. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1995, tr. 50. Từ đây, tất cả trích dẫn từ Lê Quý Đôn là theo bản này.
Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng họp phiên cuối cùng
Sáng nay 26.3, Tuổi Trẻ có đăng một bản tin đáng chú ý v/v thay đổi nhân sự cao cấp với tựa đề: "15 thành viên Chính phủ chuẩn bị nghỉ chính sách". Tuy nhiên, khoảng 12:00 đã gỡ bỏ bài viết. Post lại đây nha ^-^
....
(TT) Vào đầu phiên họp, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu cho biết sau phiên họp này sẽ có 20 thành viên Chính phủ (trên tổng số 27 thành viên Chính phủ) nghỉ chính sách hoặc chuyển công tác khác, từ phiên họp Chính phủ thường kỳ lần sau sẽ không còn tham dự họp với tư cách thành viên Chính phủ.
.
Lý do từ ngày 6-4, Quốc hội sẽ bầu Thủ tướng mới, ngày 8-4 sẽ phê chuẩn thành viên Chính phủ mới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu cụ thể có 15/20 thành viên Chính phủ sẽ nghỉ chính sách bao gồm: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh; Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh; Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng; Bộ trưởng Bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái Bình; Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ Nguyễn Quân; Bộ trưởng Bộ Lao động, thương binh và xã hội Phạm Thị Hải Chuyền; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hoàng Tuấn Anh; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Phạm Vũ Luận; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc Giàng Seo Phử; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang; Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông Nguyễn Bắc Son; Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh.
.
Có 5 thành viên Chính phủ chuyển công tác khác bao gồm: Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải; Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Văn Nên.
.
Có 7 thành viên Chính phủ sẽ tiếp tục công tác ở Chính phủ bao gồm: Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (được Trung ương giới thiệu để Quốc hội bầu là Thủ tướng Chính phủ); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh; Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam; Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Cao Đức Phát; Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến; Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng.
.
Ngoài ra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đề cập đến một số nhân sự khác là lãnh đạo cơ quan thuộc Chính phủ, bao gồm: Ông Nguyễn Xuân Thắng, Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, chuyển công tác sang Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Ông Nguyễn Đăng Tiến, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam nghỉ chính sách, ông Nguyễn Thế Kỷ, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, đã được Thủ tướng bổ nhiệm thay thế ông Nguyễn Đăng Tiến.
.
Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIII chưa kết thúc, còn 3 phiên họp nữa là tháng 4, tháng 5, tháng 6, trung tuần tháng 7 thì Quốc hội khóa XIV bầu Chính phủ mới./.
Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016
Bài phát biểu của Tổng thống Barack Obama ở thủ đô Havana
Sau đây là một vài trích-đoạn từ bài diễn-văn của tổng-thống Obama tại Gran Teatro, Havana, Cuba, dưới sự chứng-kiến của tổng-thống Raul Castro và khoảng một ngàn khách tham-dự. Bài nói chuyện cũng đã được phát-hình trực-tiếp trên các đài truyền-thông tại Cuba vào ngày hôm qua 22-3-2016.
“Kính thưa quý vị,
Havana chỉ cách Florida có 90 dặm. Vậy mà để đến được đây chúng ta đã phải đi qua một chặng đường quá dài, phải vượt qua bao nhiêu rào cản của lịch-sử, của đau thương, và của ly-biệt…
Biết bao nhiêu trăm ngàn người di dân Cuban đã tìm cách vượt qua khoảng không-gian ngắn ngủi này–bằng phi-cơ hay trên những chiếc bè tự-chế, để đến được bến bờ của tự-do và cơ-hội, bỏ lại sau lưng bao nhiêu tài-sản cũng như bao nhiêu người thân…
Hôm nay tôi đến đây để chôn những di-vật cuối cùng của cuộc Chiến-Tranh Lạnh. Tôi đến đây để bắt tay và kết bạn với người dân Cuba…
Nhưng chúng ta không thể, và không nên, bỏ qua những dị-biệt giữa hai thể-chế, hai nền kinh-tế và hai xã-hội. Cuba là một chế-độ độc-đảng, Hoa-Kỳ là một nền dân-chủ đa-nguyên. Mô-hình kinh-tế của Cuba là xã-hội chủ-nghĩa, của Hoa-Kỳ là thị-trường mở. Cuba nhấn mạnh vai trò và quyền-lực của nhà nước, Hoa-Kỳ được xây-dựng trên tư-quyền của cá-nhân…
Tôi xác-minh rằng Hoa-Kỳ không đủ sức và cũng không muốn ép Cuba phải thay đổi. Cuba có thay đổi hay không, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn của người dân Cuba…
Chúng tôi thừa hiểu rằng mỗi dân-tộc phải tự vẽ ra con đường cho chính mình. Nhưng vì chúng ta vừa thoát ra khỏi cái bóng đè của lịch-sử nên tôi xin phép được thẳng-thắn chia sẻ với quý vị những suy nghĩ của mình, cũng như của nhân-dân Hoa-kỳ nói chung….
Thi-sĩ Jose Marti của Cuba từng viết: “Tự-Do là quyền được sống thật, được suy nghĩ và phát-ngôn mà không cần phải ra vẻ đạo-đức giả.” Thế nên tôi cũng xin nói với các bạn những điều tôi hằng tin. Tôi không cần các bạn phải đồng-ý, nhưng các bạn cần biết tôi tin những gì.
Tôi tin rằng tất cả mọi người đều bình-đẳng trước pháp-luật. Tôi tin rằng nhân-phẩm của trẻ em phải được bảo-vệ bằng giáo-dục và y-tế, bằng cách cho chúng cơm ăn áo mặc và nhà cửa tử-tế. Tôi tin rằng mọi công-dân đều có quyền phát-biểu ý-kiến mà không sợ bị bắt-bớ. Ai cũng có quyền lập-hội, quyền chỉ-trích nhà nước, và quyền phản-đối trong ôn-hoà. Tôi tin rằng pháp-luật không được phép bỏ tù người dân khi họ sử-dụng những quyền căn-bản này. Tất cả mọi người đều phải có quyền tự-do tín-ngưỡng. Và dĩ-nhiên tôi cũng tin rằng mọi cử-tri phải được quyền chọn người đại-diện chính-phủ cho mình qua những cuộc bầu-cử tự-do và dân-chủ.
Không phải ai cũng đồng-ý với tôi hay với người dân Mỹ về những điểm này. Nhưng tôi tin rằng các nhân-quyền nói trên áp-dụng cho tất cả mọi người. Nó đúng cho dân Mỹ, cho dân Cuba, và cho tất cả mọi dân-tộc khác trên thế-giới…
Vì vậy, đây là thông-điệp tôi muốn nhắn gửi đến nhà nước cũng như nhân-dân Cuba:
Những lý-tưởng cách-mạng–của Hoa-Kỳ, của Cuba, của bao cuộc nổi dậy khác trên thế-giới, tôi tin rằng chỉ thật sự có ý-nghĩa khi chúng được đặt trên nền-tảng dân-chủ. Tôi tin như vậy không phải vì nền dân-chủ của nước Mỹ là toàn-hảo, mà bởi vì nó KHÔNG toàn-hảo. Đất nước chúng tôi, cũng như bao quốc-gia khác, cần không-gian rộng lớn của dân-chủ để tự điều-chỉnh. Bất cứ người dân nào cũng có thể là nhân-tố cho sự thay đổi, đưa ra những ý-tưởng mới, sáng-lập những mô-hình xã-hội tốt đẹp hơn. Ngay lúc này và ngay trong nước Cuba, một sự tiến-hoá cũng đang ngầm xảy ra; một thế-hệ người dân Cuban mới đang thành-hình…
Có người nghĩ rằng tôi đến đây để kêu gọi người dân đập đổ một cái gì đó. Nhưng sự thật là tôi muốn kêu gọi thanh-niên Cuba hãy kéo nhau đứng lên để xây-dựng một cái gì đó.
Tôi hết sức cảm tạ tấm thịnh-tình của tổng-thống Castro. Tôi tin rằng việc tôi đứng đây hôm nay chứng-tỏ ông không có gì để phải lo sợ từ phía Hoa-kỳ.
Với lòng quyết-tâm bảo-vệ chủ-quyền và sự tự-trị của Cuba, ông cũng không cần sợ tiếng nói đa-chiều của dân-chúng hay lo-lắng khi họ được quyền phát-ngôn, tụ tập hoặc bầu chọn người lãnh-đạo…
Tôi cũng có nhiều kỳ-vọng cho tương-lai bởi vì giữa người Cuban với nhau đang xảy ra một cuộc hoà-hợp hoà-giải. Tôi biết nhiều người Cuban trên đảo vẫn cho rằng những kẻ bỏ xứ ra đi năm xưa vẫn còn ủng-hộ chế-độ cũ. Tôi nghĩ họ cứ tin là những người di-dân kia đã không nhìn thấy những tệ-nạn xã-hội thời tiền-cách-mạng và không chấp-nhận cuộc đấu-tranh để xây dựng một tương-lai mới.
Nhưng tôi có thể xác-định với quý vị rằng những người di-dân kia đang cưu-mang bao nhiêu ký-ức đau thương của những cuộc cách-ly đầy máu và nước mắt. Họ yêu Cuba, và một phần của họ luôn luôn xem nơi đây là chốn quê nhà. Chính vì vậy mà nỗi đau của họ rất sâu, và không ít người đã trở nên quá khích. Riêng đối với cộng-đồng người Cuba mà tôi được dịp gặp-gỡ và tiếp-xúc, đây không phải chỉ là một vấn-đề chính-trị mà còn là chuyện gia-đình. Họ nhớ đến căn nhà cũ, họ mơ được quay về nối lại mối thâm-tình bị đổ vỡ. Họ mong được gầy dựng một ngày mai sáng sủa hơn. Họ đặt niềm tin vào sự kết-hợp và hoà-giải dân-tộc….
Những người Cuba đầu tiên tôi được biết là những người di-dân đầy nhiệt-huyết và tài-năng ở Mỹ. Ngoài sự đau khổ tinh-thần của kẻ biệt-xứ họ còn phải chịu đựng biết bao điều khốn-khó ở một đất nước xa lạ. Họ đã phải làm việc cật-lực để mưu-sinh và để cho con cái mình có cơ-hội vươn lên trong xã-hội Mỹ. Bởi thế cho nên việc hoà-hợp hoà-giải giữa các thế-hệ con cháu của những người cách-mạng và con cháu những thế-hệ di-dân sẽ là nền tảng cho tương-lai của Cuba.
Lịch-sử giữa Hoa-Kỳ và Cuba có cách-mạng, chiến-tranh, đấu-tranh, hy-sinh, ân-oán, và bây giờ là hoà-giải. Đã đến lúc chúng ta bỏ quá khứ lại sau lưng. Đã đến lúc chúng ta cùng quay hướng nhìn về tương-lai. Đây chắc chắn không phải là việc dễ và sẽ có lúc chúng ta gặp phải chướng-ngại. Công việc này sẽ đòi hỏi rất nhiều thời-gian. Tuy nhiên, những ngày ở Cuba vừa qua cho phép tôi đặt niềm tin và hy-vọng vào nhân-dân Cuba. Chúng ta có thể đồng-hành như bạn, như láng giềng, và như người thân trong gia-đình.
Si se puede. Mucho gracias. Thank you.”
Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016
GS Hoàng Xuân Phú: Bầu cử kiểu gì khi tệ ngay từ luật
GS Hoàng Xuân Phú
21-3-2016
Càng gần cuối nhiệm kỳ, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng càng phát ngôn nhiều câu ấn tượng, gần hơn với sự thật. Chẳng hạn, trong phiên làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 23/2/2016, Chủ tịch Quốc hội đã thẳng thắn thừa nhận rằng:
“Thủ tục hành chính đối với dân giờ cay nghiệt, độc ác lắm. Có tiền là cấp, không có tiền là không cấp.”
Hàng chục triệu nạn nhân bỗng dịu lòng, bởi lần đầu tiên nỗi cực khổ của họ được một vị trong “tứ trụ triều đình” công khai thừa nhận. Nhưng rồi chững lại, khi nhận ra Chủ tịch Quốc hội mới chỉ hiên ngang rảo bước trong cái vành đai ngoài cùng, nơi trú ngụ của phần nhỏ sự thật mang tính hệ quả, mà vẫn còn ngoảnh đi, tránh nhìn vào khu vực trung tâm, chốn chất chứa những sự thật cốt lõi mang tính tiền đề.
Cái thủ tục hành dân ấy từ đâu mà ra? Hiển nhiên, chẳng phải từ trên trời rơi xuống, cũng chẳng phải từ dưới địa ngục chui lên, và chắc chắn không phải do thế lực thù địch cài cắm, để phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa tự xưng là ưu việt. Rõ ràng, thủ tục hành chính chỉ là công cụ được sử dụng để hành dân. Thế còn thủ phạm tạo ra và sử dụng công cụ hành dân là những ai?
Nếu Chủ tịch Quốc hội chỉ tay về phía cơ quan hành pháp, thì xin hỏi tiếp: Cơ quan hành pháp từ đâu mà ra? Một trong những nhiệm vụ của Quốc hội, được hiến định tại Điều 70 Hiến pháp 2013, là “bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm… Thủ tướng Chính phủ” và “phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ”. Vậy thì tại sao Quốc hội lại bầu, lại phê chuẩn cái đội ngũ đẻ ra thủ tục hành dân? Và nếu nhận ra đã bầu nhầm, thì tại sao lại không bãi nhiệm? Nếu vì sợ “vỡ bình hoa” mà đành tránh “đánh con chuột” (theo cách nói của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng), thì Quốc hội vẫn còn có một nhiệm vụ hiến định khác, là “bãi bỏ văn bản của… Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ”. Biết chúng “cay nghiệt, độc ác lắm”, tại sao Quốc hội không ra tay bãi bỏ? Đứng đầu “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(Điều 69 Hiến pháp 2013), mà gần về hưu mới thừa nhận vài cái “đối với dân giờ cay nghiệt, độc ác lắm”, thì đã quá buồn. Nhận ra rồi, mà làm như vô can, vẫn không chịu ra tay bãi bỏ theo thẩm quyền hiến định, thì còn đáng buồn hơn.
Cũng chẳng cẩn phải tìm kiếm đâu xa. Bản thân Quốc hội cũng sinh ra rất nhiều điều khoản Hiến pháp và pháp luật, mà đối với dân thì cũng thuộc dạng“cay nghiệt, độc ác lắm”. Chúng là tiền đề pháp lý cho các thủ tục “hành dân là chính“. Một trong những luật mới nhất, chứa đựng nhiều điều khoản tệ hại, là Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân – Số 85/2015/QH13, được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/6/2015 (sau đây viết tắt là Luật BCĐBQH 2015). Nó thay thế cho Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (không số) được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 15/4/1997 (sau đây viết tắt là Luật BCĐBQH 1997).
Luật BCĐBQH 2015 được áp dụng để tổ chức kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đã chính thức bắt đầu vào ngày 25/11/2015, khi Quốc hội khóa XIII raNghị quyết số 105/2015/QH13. Nghị quyết ấy xác định ngày bầu cử là 22/5/2016 và công bố danh sách Hội đồng bầu cử quốc gia, do ông Nguyễn Sinh Hùng làm Chủ tịch. Rõ khổ, trước lúc về hưu lại còn phải đứng đầu cái hội đồng “không cần phải bầu”, bởi “làm gì có… độc lập”, như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã khẳng định trong cuộc họp của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội (thảo luận về dự thảo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân) vào sáng 25/2/2015:
“Đất nước chỉ một Đảng thì làm gì có Hội đồng bầu cử quốc gia độc lập? Thực tế không có chuyện bầu lại Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng không, nên không cần phải bầu Hội đồng bầu cử quốc gia.”
Đương nhiên, Luật BCĐBQH 2015 ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của kỳ bầu cử và cả chất lượng của đội ngũ đại biểu Quốc hội khóa XIV. Tại Hội nghị triển khai Quy chế phối hợp công tác năm 2016 giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào chiều ngày 2/3/2016, Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng đã nói:
“Bây giờ chỉ có tiếp tục chỉ đạo, giải đáp thắc mắc, tổ chức triển khai làm sao cho cuộc bầu cử này thật sự dân chủ, công bằng, thực sự đúng pháp luật và là ngày hội của toàn dân.”
Liệu cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội này có thể “thật sự dân chủ, công bằng, thực sự đúng pháp luật” hay không? Đã từng có một cuộc bầu cử tốt đẹp như thế diễn ra dưới chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam hay chưa? Vì sao? Và công dân nên ứng xử thế nào cho phải?
Bài viết này trình bày một số ý, góp phần để chúng ta cùng nhau tìm lời giải đáp cho mấy câu hỏi nêu trên. Nó được chia thành bốn phần. Phần 1, với tiêu đề“Thăng trầm hiến định”, điểm lại quá trình biến đổi của các quy định về bầu cử đại biểu Quốc hội, được hiến định trong năm bản Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phần 2, với tiêu đề“Thực tế bi hài”, lược qua một số biểu hiện sai trái của mấy kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội trước đây. Phần 3, với tiêu đề “Căn nguyên từ luật”, phân tích một số nguyên nhân luật định tất yếu dẫn đến tiêu cực, bắt nguồn từ Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015. Phần 4, với tiêu đề “Băn khoăn muôn mối”, trao đổi về một số tâm tư, suy nghĩ trên cương vị công dân đối với cuộc bầu cử sắp tới.
Thăng trầm hiến định
Sau khi khai sinh ra chế độ hiện thời, các nhà lập hiến đã long trọng khẳng định trong Hiến pháp 1946 (Điều thứ 17) rằng:
“Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín.”
13 năm sau, nguyên tắc bầu cử được hiệu chỉnh trong Hiến pháp 1959 (Điều 5) như sau:
“Việc tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.”
Nội dung này được tiếp tục duy trì trong Hiến pháp 1980 (Điều 7),Hiến pháp 1992 (Điều 7) và Hiến pháp 2013 (Điều 7).
Có một “thay đổi nhỏ”, nhưng phản ánh một “chuyển biến lớn” của đội ngũ từng giương cao ngọn cờ “tự do” để giành chính quyền, đó là xóa bỏ “tự do”trong điều hiến định về nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội. Thay vào đấy là“bình đẳng”, thứ lung linh đã tưởng chừng trôi dần gần tầm với, song từ thời“đổi mới” nó ngày càng dạt ra xa, mà vẫn bị đem ra ca hoài ca mãi, như thể đùa dai.
Phải chăng việc triệt tiêu nội dung hiến định “bỏ phiếu phải tự do“ là nhằm dọn đường cho việc cản trở công dân tự do ứng cử và ép người người phải tham diễn vở bầu cử phi dân chủ?
Nguyên tắc bầu cử “phổ thông” được Hiến pháp 1946 (Điều thứ 18)cụ thể hóa như sau:
“Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền.”
“Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, vàphải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.”
Với kinh nghiệm của 14 năm cầm quyền, các nhà lập hiến đã sửa lại quy định về bầu cử “phổ thông” trong Hiến pháp 1959 (Điều 23) như sau:
“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người bị Toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử.”
Điều đặc biệt là: Hiến pháp 1959 đã hủy bỏ đòi hỏi “người ứng cử… phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ“ của Hiến pháp 1946, đồng thời khẳng định “công dân… không phân biệt… trình độ văn hóa… đều có quyền ứng cử“. Phải chăng đó là cách nhận thức về“bình đẳng”, thứ được đem ra thay thế cho “tự do”? “Bình đẳng” kiểu ấy tất yếu sinh ra loại Quốc hội với đại đa số đại biểu chỉ có trình độ tầm đại chúng, không đủ khả năng tham gia lập hiến và lập pháp.
Hãy tưởng tượng xem, nếu mấy ông bà mù chữ ứng cử đại biểu Quốc hội, rồi trúng cử và tham gia thực hiện những nhiệm vụ trọng đại được hiến định tạiĐiều 50 Hiến pháp 1959, như làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm pháp luật, quyết định kế hoạch kinh tế Nhà nước, thì sẽ vất vả đến nhường nào? Song nếu được gợi ý ra ứng cử, thì chắc hẳn những người thất học cũng nhận ra, là mình bị đẩy lên sân khấu đóng vai hề. Sao lại nỡ bỡn cợt với phận nghèo như vậy?
Đó chỉ là một ví dụ nho nhỏ, nhưng lại rất đặc trưng cho kiểu hiến định đã trở thành tập quán: Càng không định tôn trọng và thực thi Hiến pháp thì càng hiến định hào phóng.
Sau khi đã thống nhất đất nước, nắm trọn trong tay quyền lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, nhà cầm quyền lại hạn chế tiếp trong Hiến pháp 1980 (Điều 57):
“Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.”
Cái gì thay đổi ở đây? Cụm từ “có quyền ứng cử” đã bị xóa bỏ khỏi Hiến pháp. Thay vào đấy là mệnh đề “có thể được bầu vàoQuốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp”.
Vậy là, bằng thủ thuật tráo chữ, Hiến pháp 1980 đã công khai phủ nhận “quyền ứng cử” của công dân vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Thay đổi ấy là một trong những bằng chứng có thể minh họa nhận định của một số người, cho rằng Hiến pháp 1980 thuộc loại phi dân chủ nhất trong năm bản Hiến pháp của chế độ này. Nhưng đấy là xét về hình thức. Còn xét về thực chất, từ phương diện “quyền ứng cử” của công dân, thì phải chăng Hiến pháp 1980 là tử tế nhất trong số bốn bản Hiến pháp từ năm 1959 đến nay? Vì sao ư? Bởi lẽ nó trung thực nhất. Cho dù “quyền ứng cử” tự do của công dân có được hiến định hay không, thì trên thực tế, suốt bao thập kỷ đằng đẵng, quyền ấy cũng không được nhà cầm quyền tôn trọng và chấp nhận trên thực tế. Vừa hiến định công dân có “quyền ứng cử”, đồng thời lại dùng mọi thủ đoạn (từ công cụ pháp luật đến tiểu xảo chợ búa) để cản trở công dân ứng cử, thì kiểu lừa gạt ấy còn tệ hơn hẳn việc công khai khước từ “quyền ứng cử”.
Hiến pháp 1992 (Điều 54) khôi phục “quyền ứng cử” của công dân:
“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lênđều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.”
Nhưng như vậy lại trở về với trạng thái hào phóng giả tạo của Điều 23 Hiến pháp 1959, là “Công dân, không phân biệt… trình độ văn hoá… đều có quyền ứng cử vào Quốc hội…”. Tuy cụm từ “theo quy định của pháp luật”được dùng làm vũ khí ám muội nhằm hạn chế quyền công dân, nhưng một khi Hiến pháp đã khẳng định “không phân biệt… trình độ văn hoá…”, thì không thể sinh ra thứ “quy định của pháp luật” nào đó hòng đòi hỏi công dân thực hiện“quyền ứng cử” phải “biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” (như đã từng quy định trong Hiến pháp 1946), hay phải có “trình độ văn hóa” ở mức nào đó. Đây là một trong những ví dụ khắc họa tầm tư duy thấp kém của đấng lập hiến.
Chẳng biết vô tình hay hữu ý, nhưng nhờ viết gọn hơn nên Hiến pháp 2013 (Điều 27) đã thoát khỏi trạng thái trớ trêu ấy:
“Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.“
Mệnh đề “Việc thực hiện các quyền này do luật định” là sáng tạo mới mẻ, được huy động để tạo ra bức tường thành tùy tiện mà kiên cố, có thể dễ dàng ngăn cản công dân “thực hiện” các quyền cơ bản, nếu nhà cầm quyền cố tình không ban hành “luật định”. Nhưng tiếc thay, giăng bẫy rồi tự sập bẫy, như đã phân tích trong bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?“.
Dù quyền bầu cử và ứng cử được hiến định thăng trầm thế nào, thì điều quan trọng đọng lại vẫn là: Cả năm bản Hiến pháp của chế độ này đều khẳng định ba nguyên tắc bầu cử “phổ thông”, “trực tiếp” và “bỏ phiếu kín”. Trong khi Hiến pháp 1946 quy định “bỏ phiếu phải tự do”, thì bốn bản Hiến pháp tiếp theo thay thế nội dung ấy bằng nguyên tắc “bình đẳng”.
Thực tế bi hài
Hiến pháp quy định như vậy, còn trên thực tế thì các cuộc bầu cử diễn ra như thế nào? Ta hãy cùng nhau điểm qua một số nét của bức tranh toàn cảnh, để hiểu phần nào lý do, tại sao một số người lại so sánh cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội với màn bi hài kịch.
2.1. Vừa đá bóng vừa thổi còi
Bầu cử đại biểu Quốc hội thường được mở màn bằng việc ra mắt “Hội đồng bầu cử ở Trung ương”. Theo Điều 14 Luật BCĐBQH 1997, được sửa đổi theo Luật số 63/2010/QH12 ngày 24/11/2010, Hội đồng này là tổ chức do “Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập”, để “lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức bầu cử trong cả nước”.
Đặc biệt, Hội đồng bầu cử chính là nơi “lập và công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước”. Với chức năng này, Hội đồng bầu cử có thể lập ra danh sách ứng cử chỉ bao gồm những người của “họ”, hay ít nhất cũng được “họ” chấp nhận. Muốn trúng cử thì hiển nhiên phải lọt vào danh sách những người ứng cử, nhưng kết quả còn phụ thuộc nhiều vào việc người ứng cử được Hội đồng phân đến đơn vị bầu cử nào. Nếu bị xếp vào đơn vị mà cử tri thuộc loại “cứng đầu”, lại phải cạnh tranh với mấy đối thủ quá mạnh, thì chưa vào trận đã nắm chắc phần thua. Ngược lại, nếu gặp được khối cử tri“dễ bảo”, lại chỉ phải tranh cao thấp với mấy vị lùn lùn, thì chưa cần nhón chân đã có thể vững tin là thắng.
Hơn nữa, Hội đồng bầu cử cũng là nơi “giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội…; giải quyết khiếu nại, tố cáo về người ứng cử đại biểu Quốc hội; giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội”. Giữa thời buổi suy đồi, ai dám đảm bảo rằng “người nhà” sẽ bị xử lý nghiêm khắc khi gian lận?
Vì vậy, không quá khó hiểu nếu người ứng cử nào đó muốn “vun đắp quan hệ tình cảm” với các thành viên của Hội đồng bầu cử nhằm mưu cầu thuận lợi. Song đừng tưởng như vậy đã là cao tay, bởi vẫn còn kém lợi thế của các siêu ứng cử viên, những vị chẳng cần mất công “quan hệ”, vì bản thân là Chủ tịch, hay Phó Chủ tịch, hay thành viên của Hội đồng bầu cử. Vị thế siêu đẳng ấy rất thuận lợi cho những ai muốn vừa chăm việc nước, vừa lo việc nhà, tự lựa chọn đơn vị bầu cử thuận lợi cho bản thân, và đỡ phải e dè khiếu nại.
Nếu muốn tìm hiểu công nghệ vừa lãnh đạo bầu cử vừa ứng cử, có thể tham khảo kinh nghiệm của ông Nông Đức Mạnh. Ngày 14/4/1997 Chủ tịch Quốc hội khóa IX Nông Đức Mạnh đã ký Nghị quyết số 360 NQ/UBTVQH9 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó bổ nhiệm chính mình làm Chủ tịch Hội đồng bầu cử ở Trung ương để lãnh đạo việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa X, mặc dù bản thân cũng ra ứng cử, và tất nhiên đắc cử, rồi sau đó lại tiếp tục làm Chủ tịch Quốc hội khóa X.
Tương tự, Chủ tịch Quốc hội khóa XII Nguyễn Phú Trọng đã ký Nghị quyết số 1018/NQ-UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hộivào ngày 21/1/2011, trong đó bổ nhiệm chính mình làm Chủ tịch của “Hội đồng bầu cử để phụ trách tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII…”, mặc dù bản thân cũng ra ứng cử. Cùng với ông Chủ tịch, Hội đồng bầu cử này còn có thêm 12 vị nữa (tức là chiếm 61,9% trong tổng số 21 thành viên) cũng là ứng cử viên và hiển nhiên cũng trúng cử vào Quốc hội khóa XIII. Đó là bà Tòng Thị Phóng, khi ấy là Phó chủ tịch Quốc hội khóa XII kiêm Phó chủ tịch thường trực Hội đồng bầu cử Quốc hội khóa XIII. Và đó là hai vị Phó chủ tịch Hội đồng bầu cử Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Thị Doan, cùng các thành viên Lê Hồng Anh, Nguyễn Quốc Cường, Nguyễn Thị Thanh Hòa, Nguyễn Đức Kiên, Vũ Trọng Kim, Uông Chu Lưu, Huỳnh Ngọc Sơn, Phùng Quang Thanh và Đặng Ngọc Tùng.
Thử hỏi có quốc gia văn minh nào mà đương kim tổng thống vừa tái ứng cử tổng thống, lại vừa đứng ra lãnh đạo toàn quốc bầu cử tổng thống, hay không? Cũng chẳng cần nghiêng ngó đâu xa, mà ngay ở Việt Nam, tại những vùng quê chậm tiến nhất, đương kim trưởng thôn cũng đủ tỉnh táo và tự trọng để không vừa tái ứng cử trưởng thôn, lại vừa đứng ra lãnh đạo toàn thôn bầu cử trưởng thôn. Ấy vậy mà cõi lòng thiên giới lại chẳng hề gợn chút lăn tăn…
2.2. Rộng đường qua ải… lỗ kim
Dù quyền ứng cử được long trọng hiến định, nhưng những người thực sự tự ứng cử (tức không phải được tổ chức phân công sắm vai “tự ứng cử” để hóa trang dân chủ cho chế độ) rất khó lọt vào “danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội”. Đầu tiên họ được vận động, thậm chí có thể bị hăm dọa, để phải tự rút lui. Nếu vẫn chưa “tỉnh ngộ”, thì sẽ vấp ải “lấy ý kiến cử tri”.
Hội nghị cử tri nơi cư trú được đạo diễn rất công phu. Đối với những trường hợp ứng cử thuộc diện đặc biệt, cần sớm bị loại bỏ, thì chỉ những cử tri chọn lọc mới được tham dự, bởi nơi tổ chức Hội nghị cử tri được bảo vệ nghiêm ngặt như chốn xử án kín. Cuộc đối thoại được tổ chức theo công nghệ phát minh từ thời cải cách ruộng đất. Sau màn đấu tố, kết quả bỏ phiếu tín nhiệm người tự ứng cử thế nào thì chẳng nói cũng rõ.
Không chỉ những nhân vật bị xếp vào sổ đen mới bị phân biệt đối xử. Ngay cả nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cũng phải nếm “quả đắng” khi ra ứng cử Quốc hội vào năm 2011. Như được trình bày trong đơn khiếu nại của ông Lê Cường (Ủy viên Hội đồng biên tập Tạp chí Quê hương – thuộc Bộ Ngoại giao), ông Hải đã gửi thư trực tiếp đến ngài Nguyễn Phú Trọng, với các tư cách Tổng Bí thư ĐCSVN, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử, kiêm cả Trưởng đoàn giám sát bầu cử tại Hà Nội. Trong thư ấy ông Hải viết rằng:
“Đây là một cuộc Hội nghị lấy ý kiến của cử tri nơi cư trú để Hội đồng bầu cử hiểu biết thêm về nét sinh hoạt của tôi tại địa phương, và sẽ là một cuộc lấy ý kiến công bằng dân chủ, nhưng rất tiếc là không phải như vậy:
– Không mời những cử tri của các hộ liền kề nơi cư trú của ứng cử viên.
– Mời quá nhiều những cử tri không ở nơi cư trú của ứng cử viên mà không rõ nguồn gốc.
– Bố trí những người phát biểu xuyên tạc về lý lịch và hoạt động khoa học của ứng cử viên.
– Ứng cử viên không được trả lời những phát biểu xuyên tạc.
– Phát hành số phiếu quá nhiều so với thông báo ban đầu.
– Quyết định bỏ phiếu ngay lập tức sau khi đã xuyên tạc về ứng cử viên mà ứng cử viên không được trả lời.
– Ban kiểm phiếu không kiểm phiếu trước mặt Hội nghị mà mang nhau sang buồng riêng, nên không thể rõ sự minh bạch của những phiếu này.”
Nếu người ứng cử được coi là “vô hại”, thì có thể trót lọt khi lấy ý kiến cử tri nơi làm việc và nơi cư trú. Nhưng đừng vội mừng mà hụt, vì khó lòng vượt qua cái ải gọi là “Hội nghị Hiệp thương lần thứ ba”. Lần này,
“Hội nghị hiệp thương căn cứ vào tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, cơ cấu, thành phần và số lượng đại biểu được bầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh lần thứ hai và kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội.” (Điều 43 Luật BCĐBQH 1997, được sửa đổi theo Luật số 31/2001/QH10)
Về cơ bản, vở kịch ứng cử dân chủ kết thúc tại đây. Bởi phần lớn những người tự ứng cử, đã vượt qua mọi thử thách, bây giờ cũng bị loại khỏi vòng chiến. Tại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII vào năm 2011, trong số 832 ứng viên được đưa vào “danh sách chính thức”, chỉ có 15 người tự ứng cử, chiếm 1,80%. Còn lại một “danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội” với hầu hết là người của “họ”, dù bỏ phiếu cho ai thì cử tri cũng chỉ thực hiện “quyền tự do bầu cho họ” mà thôi.
Sau khi thỏa mãn mọi tiêu chuẩn và đạt được số phiếu cao trong hai cuộc “lấy ý kiến cử tri”, một số người tự ứng cử đang vững tin là mình sẽ lọt vào danh sách chính thức, nay lại đột nhiên phải chia tay với cuộc thử nghiệm dân chủ, mà không rõ vì sao.
Nhà báo Nguyễn Minh Tuấn, phóng viên báo Đại đoàn kết, thuộc vào số tự ứng cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã rơi vào hoàn cảnh ấy. Khi đó, ông đã được trên 80% phiếu ủng hộ tại Hội nghị cử tri nơi công tác và 100% phiếu ủng hộ tại Hội nghị cử tri nơi cư trú. Vì vậy, như ông tâm sự 10 năm sau,
“Đến vòng Hiệp thương 3, tôi chờ đợi, và tin chắc tên mình sẽ có trong danh sách ứng cử viên chính thức, để đưa ra cuộc bầu cử Quốc hội chính thức, vì tôi đã lọt qua ‘2 vòng sát hạch’ rồi. Thế nhưng ít hôm sau, mấy người bạn là đồng nghiệp ở mấy tờ báo bạn gọi điện đến cho tôi, hỏi tôi là ‘Tại sao cậu lại xin tự rút lui ra khỏi danh sách bầu cử chính thức?’. Tôi rất ngạc nhiên, nói là tôi đã tham gia xin tự ứng cử Quốc hội, thì sao lại xin tự rút được. ‘Hội đồng bầu cử họ nói thế đấy’, một người bạn nói với tôi.”
Và sau khi cuộc bầu cử Quốc hội kết thúc được khoảng hơn một tháng, ông Nguyễn Minh Tuấn nhận được thư của Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hà Nội, giải thích rằng:
“Do yêu cầu về cơ cấu, thành phần, và số lượng ĐBQH Khóa 10 của Hà Nội có hạn, nên không thể đưa hết các ĐB vào danh sách để giới thiệu ra ứng cử Đại biểu Quốc hội được…”
Cứ như thế, số tự ứng cử cứ rụng dần, rồi cuối cùng rơi lả tả như cành hoa đào bị lẳng đi sau khi đã hoàn thành sứ mạng trang trí tết. Lúc kết thúc nhận hồ sơ vào chiều ngày 18/3/2011, Thành phố Hồ Chí Minh có 22 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIII. Đến ngày 20/4/2011, sau hiệp thương vòng ba, chỉ 4 người trong số đó được đưa vào danh sách chính thức để bầu đại biểu Quốc hội khóa mới. Cuối cùng, chỉ một người tự ứng cử có tên Hoàng Hữu Phước trúng cử vào Quốc hội khóa XIII. Đó chính là vị hay phát biểu kiểu “bảo hoàng hơn vua” tại diễn đàn Quốc hội, khiến dư luận vấn vương với câu hỏi: Không hiểu ông ta có thực sự “tự ứng cử” hay không?
Như vậy, chỉ có 4/22 = 18,18% trong số tự ứng cử tại Thành phố Hồ Chí Minh được đưa ra cho cử tri bầu trực tiếp vào năm 2011. Tỷ lệ này khá thấp, nhưng vẫn còn cao hơn hẳn so với kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII vào năm 2007. Khi đó, chỉ có 7 trong số 101 người tự ứng cử tại Thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 6,93%) lọt vào “danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội”, và cuối cùng thì không ai trúng cử. Sự gia tăng tỷ lệ “lọt vào vòng chung kết” không hẳn bắt nguồn từ tiến bộ dân chủ, mà do số người tự ứng cử đã giảm đi 101/22 = 4,59 lần sau bốn năm. Phải chăng, sụt giảm đó cũng thể hiện nỗi thất vọng đọng lại sau màn bầu cử 2007?
2.3. Bầu… “cua trong lỗ”
Dân chủ bầu cử chỉ có thể trở thành hiện thực nếu công dân có quyền lựa chọn. Trước hết, số ứng cử phải nhiều hơn hẳn số cần bầu. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ! Lựa chọn chỉ thực chất khi công dân có đầy đủ thông tin cần thiết, để so sánh giữa các ứng cử viên và đối chiếu với mong muốn của bản thân, mà đưa ra quyết định. Không có đủ thông tin mà vẫn lựa vẫn chọn, thì đó chỉ là trò đùa nhân danh dân chủ mà thôi.
Tiếc rằng, các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội ở CHXHCN Việt Nam thường giống như “ngày hội bầu… cua trong lỗ”. Cử tri hầu như không biết gì về những người mà họ phải bầu, phải chọn. Thậm chí, quá nửa danh sách người ứng cử là những cái tên mà cử tri mới đọc lần đầu khi bước chân vào phòng bỏ phiếu.
Trước ngày bầu cử người ta cũng tổ chức cho những người ứng cử tiếp xúc với cử tri, nhưng chỉ là hình thức, làm cho có. Gọi là tiếp xúc với cử tri, nhưng thường thì chưa đến một phần nghìn cử tri thuộc đơn vị bầu cử được tiếp xúc. Thay vì công bố rộng rãi cho người người đều biết, để bất cứ ai quan tâm cũng có thể đến tham dự, thì lại tiến hành lặng lẽ như thể vụng trộm, chỉ một vòng hẹp “cử tri cốt cán” nhận được giấy mời. Thay vì tổ chức ở nơi rộng thênh thang, đủ chỗ cho ngàn người chứng kiến, thì lại bố trí phòng họp nhỏ xíu, khiến cử tri “hạng hai” muốn đến nghe lỏm cũng khó chen chân. Mà dù có chen được vào, thì sau chút thời gian dành cho cả dàn ứng cử viên đồng diễn, người nghe chẳng hiểu thêm mấy về tính cách và năng lực của mỗi cá nhân.
Một thời gian dài, người ta còn “chu đáo” hướng dẫn cử tri phải bầu ai, gạch ai. Thậm chí, để dễ nhớ, đỡ nhầm lẫn, họ còn xếp những vị cần được bầu lên đầu danh sách ứng cử viên, bất chấp vần ABC. Khổ thân thay mấy vị được đưa vào danh sách, để có người cho cử tri gạch bỏ. Bây giờ “tế nhị” hơn, nên ít can thiệp thô bạo hơn. Vả lại cũng chẳng cần thiết, vì thường thì tất cả “danh sách chính thức” đều là người của “họ”, nên dù cử tri bỏ phiếu cho ai thì những người trúng cử cũng là của “họ” mà thôi.
Vậy là khi bỏ phiếu, nếu không muốn bầu bừa, thì cử tri cũng đành tần ngần trước mấy dòng lý lịch trích ngang… vu vơ như cạm bẫy. Tên tuổi, bằng cấp, chức vụ, danh hiệu, huân huy chương… Những thứ ấy đảm bảo được gì, khi có thể mua hay ngụy tạo? Nếu đọc liệt kê “Ủy viên Trung ương ĐCSVN, Bí thư tỉnh ủy, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân…”, thì bạn có thể yên tâm bầu người ấy vào Quốc hội hay không? Song chưa biết chừng đó lại là lý lịch trích ngang của ai đó giông giống Hồ Xuân Mãn, loại được lãnh đạo tối cao hết mực tin tưởng và cất nhắc, nhưng lại bị đồng đội tố cáo là man trá… Thế thì còn biết làm gì, ngoài việc tặc lưỡi chọn bừa mấy cái tên trong danh sách do nhà cầm quyền ấn định? Dân chủ xã hội chủ nghĩa là như vậy sao?
2.4. Nét hài màn chót
Cử tri thông thường chẳng thể biết rõ việc kiểm phiếu có trung thực hay không, nên đối với họ thì vở bầu cử dân chủ kết thúc ở màn bỏ phiếu.
Mặc dù Điều 57 Luật BCĐBQH 1997 quy định rõ ràng, rằng “việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối”, nhưng mới sáng sớm chủ nhật tổ bầu cử đã phái người tới mọi ngõ ngách, giục giã cử tri đi bầu cử. Rồi gọi điện thoại nhắc nhở, khiến cử tri chưa đi bỏ phiếu chưa yên. Ấy là cuộc đua, xem tổ nào bầu xong sớm hơn. Những vị cao niên bỗng trở nên hiếu thắng như trẻ thơ. Quá hồn nhiên, họ tưởng rằng mình đang thực thi trọng trách nên có quyền hối thúc, mà quên rằng bao người dân vẫn phải hàng ngày lo chuyện làm ăn, kiếm sống… Có người đang phải ngủ bù vì vừa qua ca làm đêm. Có người phải hối hả vào bệnh viện chăm sóc người thân. Đâu phải ai ai cũng thênh thang thời gian như mấy cụ về hưu, có thể chủ động ngủ sớm dậy sớm để tham gia “ngày hội lớn”. Do muốn đạt thành tích xong sớm, người ta chấp nhận một người bỏ phiếu thay cho cả nhà, mặc dù Điều 58 Luật BCĐBQH 1997 (được sửa đổi theo Luật số 63/2010/QH12) quy định rằng “Cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người khác bầu thay…”. Lẽ ra phải tổ chức bầu cử một cách nghiêm túc và tôn trọng quyền tự do của công dân, thì họ lại biến bầu cử thành trò chơi, như thể thi đua dành phiếu bé ngoan.
Cầm lá phiếu trên tay, cử tri lúng túng với câu hỏi bầu ai gạch ai. Nhưng còn lúng túng hơn khi tặc lưỡi bầu, mà chẳng biết làm sao cho khỏi bị lộ, bởi bàn viết phiếu cứ tênh hênh giữa bao người chen chúc. Vai chạm vai, mắt chạm mắt, chỉ vô tình cũng thấy rõ lá phiếu của vị kế bên, huống hồ kẻ rắp tâm theo dõi. Cái tay đeo kính râm có phải là mật vụ không? Phải chăng gã lấc láo kia là tay chân của ứng cử viên mà mình định gạch? Thực hiện quyền bầu cử của công dân, mà cứ phải lấm lét như vụng trộm. Gọi là “bỏ phiếu kín”, nhưng chỉ kín khi phiếu đã nằm yên trong thùng. Còn lúc viết phiếu bầu thì khó lòng mà kín nổi, khi không có ca bin hay màn che chắn, để từng cử tri có thể viết phiếu một cách kín đáo. Ngay cả nơi bầu cử đặt tại các cơ quan trung ương giữa lòng Thủ đô Hà Nội cũng thế, nói gì đến nơi rừng rú xa xôi. Thuở xa xưa còn thiếu thốn, dốt nát đã đành. Giờ bước sang thế kỷ 21 đã quá mười năm, mà“bỏ phiếu kín” ở xứ này vẫn chẳng kín được như ở xứ người mấy mươi năm trước. Cổ hủ mãi như vậy là “bi” hay là “hài”?
Căn nguyên từ luật
Trong phần 2, ta đã phác qua mấy nét ký họa đặc tả hình hài dân chủ của bầu cử ở CHXHCN Việt Nam. Nói chung, chẳng cần tìm cội nguồn đâu xa, bởimức độ dân chủ trong bầu cử là thể hiện tương ứng trạng thái dân chủ của chế độ. Tuy nhiên, trong phần này, ta sẽ đề cập đến mấy căn nguyên từ luật.
Vì lý do thời sự, nhằm khẳng định căn nguyên từ luật sẽ gây ra ảnh hưởng xấu tới cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và các kỳ bầu cử tiếp theo, ta sẽ xem xét Luật BCĐBQH 2015. Phòng ngừa ngụy biện, rằng luật mới thông qua giữa năm 2015 không thể ảnh hưởng đến các cuộc bầu cử trước đó, ta sẽ chỉ ra rằng những căn nguyên ấy cũng đã tồn tại trong Luật BCĐBQH 1997, được Quốc hội khóa IX thông qua năm 1997, được Quốc hội khóa X sửa đổi năm 2001 bởi Luật số 31/2001/QH10 và được Quốc hội khóa XII sửa đổi năm 2010 bởi Luật số 63/2010/QH12.
Sẽ quá dài nếu phân tích tất thảy mọi điều phi lý, nên ta chỉ tập trung vào mấy điều khoản vi hiến của Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015. Và để chứng tỏ tính vi hiến, ta cũng chỉ tham chiếu một điều khoản trong Hiến pháp, đó là:
“Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.”
Nội dung này đã được hiến định tại Điều 7 Hiến pháp 1992 và được tiếp tục duy trì tại Điều 7 Hiến pháp 2013. Cho nên, nếu điều khoản nào của Luật BCĐBQH 1997 hay Luật BCĐBQH 2015 vi phạm một trong bốn nguyên tắc trên, thì nó vi hiến so với cả Hiến pháp trước đây lẫn Hiến pháp hiện hành.
3.1. Kín… tênh hênh
Đầu tiên ta thảo luận về nguyên tắc cuối cùng, đó là “bỏ phiếu kín”. Vì sao? Bởi đó là nguyên tắc mà nhà cầm quyền dễ chấp nhận nhất và cũng dễ thực hiện nhất. Thành thử, nếu nguyên tắc đơn giản ấy mà còn bị phớt lờ, thì đừng ngạc nhiên về số phận của ba nguyên tắc kia. Câu hỏi then chốt là: Phải làm sao để đảm bảo nguyên tắc “bỏ phiếu kín” và ai có trách nhiệm thực thi?
Điều 60 Luật BCĐBQH 1997 quy định rằng: “Khi cử tri viết phiếu bầu, không ai được đến xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử.” Câu này được nhắc lại nguyên văn tại Khoản 5, Điều 69 của Luật BCĐBQH 2015. Ngoài nó ra, không còn tồn tại điều khoản luật định nào khác liên quan đến nguyên tắc “bỏ phiếu kín”.
Đọc qua thì tưởng là rất hợp lý, song nghĩ kỹ lại thấy quy định ấy chứa những nét hài hước. Khi nhiều cử tri phải cùng chụm đầu quanh một cái bàn nhỏ để viết phiếu, hay phải đứng sau lưng người đang viết phiếu để đợi đến lượt mình, thì chỉ còn nước nhắm mắt mới đảm bảo chẳng nhìn thấy lá phiếu của người khác. Hơn nữa, không chỉ người đang đứng gần, mà cả người đứng từ xa cũng dễ dàng quan sát trạng thái lá phiếu, thậm chí có thể dùng cả camera để ghi lại toàn bộ quá trình cử tri viết phiếu, khi bàn để viết phiếu được đặt tênh hênh giữa phòng, không hề được che chắn. Vậy thì cần gì phải mất công“đến” mà “xem”? Cứ như thể ép bao người phải tụ họp trong trạng thái khỏa thân, rồi quy định rằng không ai được nhìn vào vùng kín… tênh hênh của người khác, nhằm chứng tỏ phía tổ chức rất tôn trọng bí mật riêng tư.
Giữ bí mật nội dung lá phiếu của bản thân là quyền, chứ không phải là trách nhiệm của cử tri. Vì vậy, chẳng lạ nếu cử tri nào đó không có nhu cầu giữ bí mật, mà ngược lại còn muốn khoe với người thân hay bạn bè, rằng mình bầu ai gạch ai. Khi đó, chỉ cần nghe đã biết, thì cấm “xem” phỏng có ích gì? Cũng thường tình nếu cử tri đem theo con nhỏ tới nơi bỏ phiếu. Hiển nhiên, bố mẹ đi đâu thì đứa trẻ cũng “đến” đó, và khi bố mẹ viết phiếu bầu thì đứa trẻ cũng có thể “xem”, cho dù đã biết đọc hay chưa. Vậy thì tại sao luật lại áp đặt “không ai được đến xem” cả trong những hoàn cảnh như vậy?
Kiểu quy định trách nhiệm đơn phương “không ai được đến xem” lặp lại một lối tư duy đặc trưng của giới cầm quyền tự nhận là “đầy tớ của dân”. Đó là lẩn tránh trách nhiệm của chính quyền và đổ dồn trách nhiệm lên phía người dân. Một ví dụ điển hình của kiểu tư duy này là chuyện xử phạt mũ bảo hiểm xe máy. Lẽ ra, chính quyền có tránh nhiệm kiểm soát và quản lý thị trường, sao cho mũ bảo hiểu không đảm bảo chất lượng không được bày bán ở cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam. Và nếu người dân mua phải mũ “rởm”, thì họ có quyền kiện và yêu cầu chính quyền phải bồi thường. Song chính quyền lại để mặc cho mũ“rởm” được công khai bày bán nơi nơi, rồi quy định xử phạt những người mua phải mũ “rởm”. Tương tự như vậy, lẽ ra Quốc hội phải quy định trong Luật BCĐBQH, rằng các cơ quan tổ chức bầu cử phải thiết lập nơi bầu cử sao chongười khác không thể đọc được phiếu bầu của cử tri. Song Quốc hội lại bỏ qua trách nhiệm đó, mà luật định rằng người khác không được đọc, và thản nhiên như thể đã làm tròn nhiệm vụ lập pháp.
Để người khác không đọc được phiếu bầu của cử tri, thì Luật bầu cử cần và chỉ cần quy định hết sức đơn giản. Chẳng hạn, Luật bầu cử của CHLB Đức quy định tại Điều 33 như sau:
“Phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa sao cho cử tri có thể điền và gấp phiếu bầu mà không bị quan sát.”
Đó là trách nhiệm của cơ quan tổ chức bầu cử. Còn đối với phía cử tri, để đảm bảo bí mật nội dung lá phiếu, Luật bầu cử của CHLB Đức hướng dẫn tại Điều 34 như sau:
“Sau đó cử tri gấp lá phiếu, sao cho người khác không thể nhận biết ý kiến bầu cử của mình, và bỏ vào thùng phiếu.”
Rõ ràng, nếu đã đảm bảo “cử tri có thể điền và gấp phiếu bầu mà không bị quan sát” thì chẳng cần phải quy định thêm “không ai được đến xem”. Ngược lại, nếu cử tri “bị quan sát” (từ xa, bằng mắt hay thông qua camera) lúc đang điền phiếu bầu, thì dù “không ai được đến xem” cũng chẳng giữ nổi bí mật nội dung lá phiếu. Hơn nữa, dù không bị quan sát lúc viết phiếu, nhưng nếu cử tri không gấp phiếu cẩn thận, mà cầm trên tay lá phiếu mở lộ nội dung và đi từ nơi viết phiếu đến thùng phiếu, rồi bỏ nó vào thùng phiếu có vách trong suốt, thì mọi biện pháp bảo mật tại nơi viết phiếu đều là vô ích. Và lúc đó, cử tri không thể đổ lỗi cho phía tổ chức bầu cử hay những người khác.
Trên thực tế, có thể dễ dàng thiết lập những khoang bầu cử, để từng cử tri có thể tới đó viết phiếu bầu một cách kín đáo (xem Phụ lục 1).
Về lý mà nói, Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 không cấm các khu vực bầu cử thiết lập khoang bầu cử. Nếu có đủ khả năng tư duy và có đủ tinh thần trách nhiệm (trước cử tri và Hiến pháp), thì những người tổ chức bầu cử vẫn có thể chủ động nghĩ ra và tiến hành các biện pháp che chắn cần thiết nhằm đảm bảo bí mật khi cử tri viết “phiếu kín”. Nhưng tiếc thay, sau mấy mươi năm sống dưới chế độ “do Nhân dân làm chủ”, các chủ nhân đã bị thụ động hóa tột cùng, đến mức chỉ còn hành động như những rô-bốt, chỉ có thể làm và chỉ dám làm theo lập trình của đấng bề trên. (Phải chăng, đó chính là chủ đích và bí quyết cai trị của giới cầm quyền?) Hệ quả là, dù Hiến pháp đã quy định rõ ràng vẫn chưa dám thực hiện và cũng chưa được phép thực hiện, mà còn phải đợi Quốc hội ban hành luật. Và dù có luật rồi thì vẫn phải tiếp tục đợi nghị định, thông tư… hướng dẫn. Vậy thì làm sao có thể trông chờ các rô-bốt tổ chức bầu cử dám chủ động nghĩ ra biện pháp để thực thi bầu cử theo đúng tinh thần của Hiến pháp?
Cho nên, trong hoàn cảnh xã hội bị rô-bốt hóa triệt để, cơ quan lập pháp có trách nhiệm ban hành các quy định pháp luật nhằm đảm bảo cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội có thể diễn ra một cách hợp hiến, tức là đáp ứng đầy đủ bốn nguyên tắc hiến định. Ít nhất, chính Quốc hội phải quy định cụ thể trong Luật BCĐBQH nội dung bộ máy tổ chức bầu cử “phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa sao cho cử tri có thể điền và gấp phiếu bầu mà không bị quan sát”. Không thể phó mặc cho bộ máy hành pháp, lúc thì quy định lúc thì không. Cũng không thể bắt các cấp thực thi phải mày mò tìm kiếm, xem có văn bản hướng dẫn nào đã được ban hành trong quá khứ nhưng vẫn còn hiệu lực, rồi xem có văn bản hướng dẫn nào mới được sinh ra, và còn phải phân vân với câu hỏi: Văn bản mới đã đề cập đầy đủ mọi điều cần thiết chưa, hay vẫn phải bổ sung thêm một số nội dung từ văn bản cũ (xem Phụ lục 2)?
Vì lẽ đó, việc Quốc hội không quy định trong Luật BCĐBQH yêu cầu phải triển khai biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo nguyên tắc “bỏ phiếu kín” có thể coi là một hành vi vi phạm Hiến pháp. Đặc biệt, một khi đã viết rõ trong phần mở đầu của Luật BCĐBQH 1997, rằng “Luật này quy định việc bầu cử đại biểu Quốc hội”, mà vẫn không quy định phải triển khai biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo nguyên tắc “bỏ phiếu kín”, thì càng có thể coi là vi hiến.
Cử tri đã phải chịu cảnh bầu cử kín… tênh hênh suốt bẩy thập kỷ, vậy mà Quốc hội vẫn không nhận ra điều bất cập, và sau năm lần thay đổi Luật bầu cử vẫn không bổ sung quy định cụ thể để khắc phục. Điều đó chứng tỏ hạn chế về trình độ lập pháp của Quốc hội, chứ không thể đổ hết trách nhiệm cho các cơ quan hành pháp và các cấp thực thi.
3.2. Trực tiếp… ngây ngô
Để thể hiện nguyên tắc “bầu cử trực tiếp”, Điều 58 Luật BCĐBQH 1997 quy định như sau:
“Cử tri phải tự mình đi bầu, không được bầu bằng cách gửi thư, trừ những trường hợp quy định tại Điều 59 của Luật này.”
Và nội dung Điều 59 là:
“Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.”
“Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.”
Các nội dung trên cũng được đưa vào Điều 69 của Luật BCĐBQH 2015, song bỏ đi mệnh đề “không được bầu bằng cách gửi thư”. Đặc biệt, nội dung thứ hai trong Điều 59 của Luật BCĐBQH 1997 được mở rộng như sau:
“4. Trong trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.”
Nghĩa là bổ sung thêm yêu cầu “Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến… chỗ điều trị của cử tri” và “đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Chu đáo đến thế là cùng, phải không?
Tiếc rằng, chu đáo kiểu ấy thì ngây ngô, vì không khả thi. Chỗ điều trị của các cử tri đang đau ốm có thể rất phân tán, ở nhiều bệnh viện khác nhau và có thể ở xa cả ngàn km. Vậy thì bắt buộc “Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến…” tất cả các “chỗ điều trị” đó hay sao? Tương tự, cử tri có thể bị tạm giam hay đưa vào cơ sở giáo dục hoặc cai nghiện ở nhiều địa điểm khác nhau. Hơn nữa, để tăng cường “tác dụng giáo dục” đối với cả đương sự lẫn người nhà, nơi giam giữ thường được bố trí tại những nơi “khỉ ho cò gáy” cách rất xa nơi cư trú của đương sự. Vậy Tổ bầu cử buộc phải bươn trải viếng thăm một loạt trại giam xa xôi hẻo lánh, rải khắp đất nước, hay sao?
Nguyên nhân khiến bộ máy tổ chức bầu cử phải lang thang lưu lạc đó đây là các nhà lập pháp đã hiểu sai lệch nguyên tắc “bầu cử trực tiếp”. Họ đinh ninh rằng đã “bầu cử trực tiếp” thì “cử tri phải tự mình đi bầu”, tức là bản thân cử tri phải đến phòng bỏ phiếu, rồi tự tay viết phiếu và bỏ vào thùng phiếu. Đương nhiên, không phải cử tri nào cũng có thể tự tay viết phiếu và bỏ vào thùng. Vậy là buộc phải chấp nhận ngoại lệ, cho phép người khác viết hộ phiếu hay bỏ hộ phiếu vào thùng. Chưa đủ, còn có những cử tri bị đau ốm, không thể đến phòng bỏ phiếu. Vậy là quy định Tổ bầu cử mang hòm phiếu và phiếu bầu đến tận nhà. Song lại có những người bệnh không nằm điều trị ở nhà. Thế thì Tổ bầu cử phải tới cả bệnh viện…
Cứ thế, chuỗi ngoại lệ cứ dài dần, song không bao giờ đủ. Giống như cảnh dùng vải mục may quần, rồi cố gắng vá víu cho kín mọi bề, nhưng càng vá thì càng rách, và dù cố đến đâu thì cuối cùng cũng chỉ thu được kết quả kín đáo kiểu đóng khố mà thôi. Đáng nói là bế tắc nảy sinh ngày càng nhiều và càng khó xử lý hơn, thậm chí không thể xử lý được. Ví dụ: Nếu công dân đang điều trị tại một bệnh viện ở nước ngoài (giống như trường hợp Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh điều trị ở Pháp) thì Tổ bầu cử sẽ làm sao? Tất nhiên là… tịt.
Quá trình vá víu bất tận và vô vọng kể trên sẽ dễ dàng biến mất, nếu chấp nhận thực hiện hình thức “bầu bằng cách gửi thư”. Song Điều 58 Luật BCĐBQH 1997 lại quy định thẳng thừng, rằng “không được bầu bằng cách gửi thư”. Tuy Luật BCĐBQH 2015 không nhắc lại mệnh đề cấm đoán ấy, nhưng nó cũng không đưa ra bất cứ cơ chế hay biểu hiện nào cho phép “bầu bằng cách gửi thư”, nghĩa là vẫn không được thực hiện. Tại sao lại nhất quyết là không? Nếu chấp nhận cho những cử tri đau ốm hay tàn tật được nhờ người khác bỏ hộ phiếu vào thùng, thì tại sao lại không chấp nhận cho những công dân ở xa nhờ bưu điện làm hộ việc đó? Vì nhân viên bưu điện không đáng tin cậy ư? Tại sao có thể tin tưởng vào đạo đức và nghiệp vụ của mấy vị nghiệp dư, năm năm mới tham gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội một lần; nhưng lại không thể tin tưởng bộ máy bưu điện chuyên nghiệp, vốn thường xuyên phải nghiêm ngặt tuân thủ quy định pháp luật về bí mật thư tín?
Cần nhấn mạnh rằng: Hình thức “bầu bằng cách gửi thư” hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc “bầu cử trực tiếp”. Chính vì vậy, một số nước, chẳng hạn như CHLB Đức, vừa luật định nguyên tắc “bầu cử trực tiếp”, vừa luật định hình thức “bầu bằng cách gửi thư”. Gần đây,trong cuộc bầu cử Quốc hội CHLB Đức năm 2013, có tới 10.758.677 cử tri (chiếm 24,3%) sử dụng hình thức “bầu bằng cách gửi thư”. Cho nên, nếu dựa vào nguyên tắc “bầu cử trực tiếp” để khước từ hình thức “bầu bằng cách gửi thư” thì quả là ngây ngô.
3.3. Trực tiếp… với hư vô
Bầu cử là một thể hiện dân chủ, nhưng chưa chắc đã là dân chủ tuyệt đối, thậm chí có thể chỉ là dân chủ nửa vời, hay dân chủ giả tạo.
Để đảm bảo độ “an toàn” (theo một nghĩa tử tế hay tệ hại nào đó), phía tổ chức bầu cử có thể tiến hành bầu cử qua một hay mấy bước trung gian. Ví dụ, ở Mỹ cử tri bình thường chỉ có thể tham gia trực tiếp bầu ra Hội đồng các đại cử tri (Electoral College), rồi các đại cử tri thuộc Hội đồng ấy mới bầu ra Tổng thống. Nghĩa là công dân Mỹ chỉ bầu Tổng thống một cách gián tiếp thông qua các đại cử tri. Ở Việt Nam, đảng viên ĐCSVN họp chi bộ để bầu ra đại biểu đi dự đại hội đảng bộ trực thuộc, đại hội cấp hai ấy lại bầu ra đại biểu đi dự đại hội cấp quận huyện, đại hội cấp ba bầu ra đại biểu đi dự đại hội cấp tỉnh thành, rồi đại hội cấp bốn mới bầu ra đại biểu đi dự đại hội cấp toàn quốc. Cuối cùng thì đại hội cấp toàn quốc cũng chỉ được bầu ra Ban chấp hành Trung ương, rồi Ban chấp hành Trung ương mới bầu ra Tổng Bí thư ĐCSVN. Xét về hình thức thì có thể coi là đảng viên ở cơ sở đảng cũng tham gia bầu Tổng Bí thư, nhưng chỉ gián tiếp qua năm tầng đại diện trung gian. Về thực chất thì sự tham gia của đảng viên ở cơ sở đảng chỉ có tác dụng trang điểm dân chủ, chứ không hề đóng vai trò nào trong việc bầu ra Tổng Bí thư. Cách bầu như trong hai ví dụ vừa nêu được gọi là “bầu cử gián tiếp” (indirect election). Hình thức bầu cử này thường được áp dụng trong những trường hợp mà phía tổ chức không yên tâm với trình độ chung của lực lượng tham gia bầu cử, hay khi phía tổ chức muốn tăng cường khả năng thao túng của mình đối với kết quả bầu cử, hay đơn giản là vì tuân theo truyền thống lịch sử, hoặc không cần thiết phải làm khác đi.
Ngược lại với hình thức “bầu cử gián tiếp” là “bầu cử không gián tiếp”, tức bầu cử không qua bất cứ khâu trung gian nào. Nó thường được gọi là “bầu cử trực tiếp” (direct election). Dưới hình thức bầu cử này, cử tri (tức những người tham gia bầu) lựa chọn trực tiếp trong số các cá nhân hay tổ chức ứng cử, để quyết định mình bầu cho ai hay tổ chức nào, nhằm có được kết quả bầu cử cuối cùng. Tức là quyết định bầu ai không được thực hiện bởi các tầng lớp trung gian (như đại cử tri hay người đại diện). Không thế lực nào (kể cả Hội đồng bầu cử quốc gia, Mặt trận Tổ quốc, hay một nhóm nhỏ cử tri) được phép đứng ra cản trở hay tác động vào quyết định bầu ai của cử tri. Đặc biệt, không thể chấp nhận kiểu sơ tuyển, thường được gọi “hiệp thương”, nhằm gạt bớt những người tự ứng cử độc lập. Cử tri phải là người đưa ra tiếng nói đầu tiên và cũng là tiếng nói quyết định cuối cùng đối với từng người ứng cử.
Dù là bầu cử gián tiếp hay trực tiếp, luôn tồn tại những phương thức tiến hành bầu cử khác nhau để cử tri thể hiện quyết định bầu ai. Nếu chọn phương thức bầu cử thông dụng nhất, là bỏ phiếu tại những nơi bầu cử, thì cử tri có thể tiếp xúc trực tiếp với hai dụng cụ bầu cử đặc trưng là lá phiếu và hòm phiếu. Nhưng nếu chọn phương thức “bầu bằng cách gửi thư” thì đương nhiên cử tri không cần và cũng không thể tiếp xúc trực tiếp với hòm phiếu. Còn khi chọn phương thức bầu cử bằng máy thì cử tri chỉ tiếp xúc với máy, chứ không tiếp xúc trực tiếp với lá phiếu bầu nữa. Thậm chí, nếu chọn phương thức giơ tay biểu quyết thì chẳng cần có dụng cụ nào để cử tri phải tiếp xúc trực tiếp cả.
Qua đó ta thấy: Không thể coi việc tiếp xúc trực tiếp với dụng cụ phục vụ một phương thức bầu cử cụ thể nào đó là biểu hiện bắt buộc của nguyên tắc bầu cử “trực tiếp”, nhất là khi luật bầu cử cho phép sử dụng những phương thức bầu cử khác nhau. Nếu quan niệm việc cử tri phải tự mình viết phiếu và bỏ nó vào thùng phiếu là thể hiện bắt buộc cử bầu cử “trực tiếp”, thì cũng không thể chấp nhận những trường hợp phải nhờ người khác viết hộ hay bỏ hộ lá phiếu vào thùng phiếu. Khi đó, không thể dùng nguyên tắc bầu cử “phổ thông” để biện hộ cho các trường hợp ngoại lệ, bởi vì nguyên tắc ấy chỉ đảm bảo quyền bầu cử của những công dân có ý muốn và có đủ khả năng tham gia bầu cử.
Thông thường, nếu quy định cử tri phải tự mình viết phiếu và bỏ nó vào thùng phiếu, hay không chấp nhận “bầu bằng cách gửi thư”, thì lý do chính đáng không phải là để thực hiện nguyên tắc bầu cử “trực tiếp”, mà để đảm bảo tính đích thực (rằng lá phiếu đúng là của một người có quyền tham gia bỏ phiếu), để hạn chế tiêu cực, để thực thi nguyên tắc bình đẳng (mỗi người chỉ thể hiện quan điểm của mình thông qua một lá phiếu có giá trị bình đẳng với các lá phiếu khác), và để đảm bảo bí mật trong bầu cử.
Như vậy, từ “trực tiếp” trong thuật ngữ “bầu cử trực tiếp” được dùng để thể hiện mối quan hệ bầu cử giữa cử tri và những người ứng cử, chứ không thể hiện mối quan hệ giữa cử tri với các dụng cụ phục vụ một phương thức bầu cử cụ thể nào đó. Dù đích thân cử tri Mỹ trực tiếp viết phiếu và bỏ nó vào thùng phiếu thì cuộc bầu cử Tổng thống ở Mỹ vẫn là bầu cử gián tiếp. Và dù rất nhiều cử tri Đức tham gia bầu bằng cách gửi thư thì cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội ở Đức vẫn là bầu cử trực tiếp.
Tiếc rằng, trong giới cầm quyền và giới luật gia Việt Nam lại phổ biến một cách hiểu ngược lại. Chẳng hạn, tài liệu “Một số kiến thức pháp luật về quyền con người – Dành cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật” (Tập 1) của Vụ Phổ biến, Giáo dục Pháp luật thuộc Bộ Tư pháp (Nhà xuất bản Pháp luật 2012) viết rằng:
“Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi cử tri không được nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư.”
Nghĩa là, quan hệ trực tiếp giữa người với người đã bị hiểu nhầm thành quan hệ trực tiếp giữa người với đồ vật. Thành thử, Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 đã dành rất nhiều câu chữ để quy định về việc cử tri phải trực tiếp viết phiếu rồi bỏ nó vào hòm phiếu, và lúng túng gỡ rối đống bòng bong ngoại lệ, mà càng gỡ thì lại càng rối. Trong khi đó, hai luật ấy lại xử lý sai mối quan hệ bầu cử trực tiếp giữa cử tri và những người ứng cử.
Cần thấy rằng: Quan hệ bầu cử trực tiếp phải hiện diện giữa mọi cử tri và mọi người ứng cử. Xét từ góc độ của cử tri, quan hệ bầu cử trực tiếp có nghĩa là mọi cử tri đều trực tiếp lựa chọn từ tập hợp toàn thể những người ứng cử tại đơn vị bầu cử của mình. Ngược lại, xét từ góc độ của người ứng cử, quan hệ bầu cử trực tiếp có nghĩa là mỗi người ứng cử đều có quyền được hưởng và chỉ phải chịu sự đánh giá lựa chọn trực tiếp của tập hợp toàn thể cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình.
Rõ ràng, đối với bầu cử trực tiếp, không tồn tại bất cứ thế lực nào có tư cách chính đáng để đứng ra hạn chế phạm vi tập hợp toàn thể của các cử tri hay tập hợp toàn thể của những người ứng cử. Nếu cử tri chỉ được bầu chọn một phần nhỏ của tập hợp toàn thể những người ứng cử tại đơn vị bầu cử của mình, hay nếu người ứng cử chỉ được hay phải chịu sự phán chọn của một phần nhỏ của tập hợp toàn thể cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình, thì tức là có thế lực xông vào chiếm lĩnh vai trò trung gian, đứng ra cắt xén và phá vỡ tính toàn vẹn của mối quan hệ trực tiếp với tập hợp toàn thể. Điều đó đương nhiên là vi phạm nguyên tắc bầu cử “trực tiếp”.
Lưu ý rằng, sự lựa chọn của tập hợp toàn thể cử tri đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội chỉ có thể thực hiện thông qua lá phiếu của các cử tri trong ngày bầu cử Quốc hội. Tài liệu “Một số kiến thức pháp luật về quyền con người – Dành cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật” (đã dẫn ở trên) viết rằng:
“Bầu cử trực tiếp, có nghĩa là công dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, công dân trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào.”
Tức là cử tri chỉ được “thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu“, đương nhiên là bỏ tại địa điểm bỏ phiếu trong ngày bầu cử. Không thể chấp nhận việc một nhóm nhỏ cử tri sử dụng võ miệng tấn công người ứng cử tại cái gọi là “Hội nghị cử tri”, hòng loại bỏ những người tự ứng cử ra khỏi danh sách ứng cử, tiếp diễn trò đấu tố đã từng hoành hành trong cải cách ruộng đất.
Tập hợp toàn thể những người ứng cử bao gồm hai dạng. Dạng thứ nhất là những người được các tổ chức chính trị đề cử. Dạng thứ hai là những người tự ứng cử. Ở đây ta không thảo luận về cơ chế mà các tổ chức chính trị áp dụng để chọn người đưa vào danh sách đề cử của họ, bởi đó là chuyện nội bộ của các tổ chức ấy. Điều đáng quan tâm là số phận của những người tự ứng cử. Họ là ai? Nói chính xác hơn: Những ai thuộc vào diện tự ứng cử để cho cử tri lựa chọn trong ngày bầu cử? Đương nhiên, những người đó phải chính thức đăng ký ứng cử và thỏa mãn những tiêu chuẩn pháp quy hợp hiến có thể dễ dàng xác định một cách chính xác.
Cần nhấn mạnh tính pháp quy hợp hiến, vì không thể dùng những quy định pháp luật vi hiến để cản trở công dân thực hiện quyền hiến định. Ví dụ:Điều 3 Luật BCĐBQH 2015 quy định “người ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật tổ chức Quốc hội”. Trong khi đó, Điều 22 Luật tổ chức Quốc hội quy định rằng đại biểu Quốc hội phải “có trình độ văn hóa”. Và như vậy, giả sử Hiến pháp 1992 còn có hiệu lực, thì Điều 3 Luật BCĐBQH 2015 sẽ trở nên vi hiến, vì Điều 54 Hiến pháp 1992 quy định rằng “công dân, không phân biệt… trình độ văn hoá… đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội”. Song, căn cứ vào Hiến pháp hiện hành thì Điều 3 Luật BCĐBQH 2015 không còn bị vi hiến như vậy nữa, bởi vì Điều 27 Hiến pháp 2013 đã gạch bỏ mệnh đề “không phân biệt… trình độ văn hoá”.
Hơn nữa, chỉ có thể đòi hỏi người ra ứng cử phải đáp ứng những tiêu chuẩn pháp quy có thể dễ dàng xác định một cách chính xác. Vì nếu không hạn chế trong phạm vi những tiêu chuẩn như vậy, thì ai sẽ là người có đủ khả năng và tư cách để phán xét, xem đương sự có đáp ứng hay không? Chẳng hạn, có thể căn cứ vào giấy khai sinh để xác định xem đương sự đã đủ 21 tuổi trở lên hay chưa. Hay căn cứ vào bằng tốt nghiệp để xác định xem đương sự đã tốt nghiệp phổ thông hay chưa. Luật Bầu cử CHLB Đức (Điều 20) chỉ đưa ra một tiêu chuẩn bắt buộc duy nhất đối với những người tự ứng cử, là phải xuất trình chữ ký ủng hộ của ít nhất 200 cử tri ở cùng đơn vị bầu cử, bởi vì đó là tiêu chuẩn có thể kiểm chứng dễ dàng. Nói chung, những tiêu chuẩn kiểu này phải mang tính định lượng và được thể hiện rõ ràng trên giấy tờ. Còn những tiêu chuẩn định tính thì không ai có thể xác định một cách tuyệt đối khách quan và chính xác.
Tiếc rằng, tất cả các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội được quy định tại Điều 22 của Luật Tổ chức Quốc hội (số 57/2014/QH13, do Quốc hội khóa XIII ban hành 20/11/2014) đều thuộc loại lơ mơ, dễ nắm bắt… như lươn. Chẳng hạn:
“1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp…”
“2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng…”
“3. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.”
Than ôi, biết làm sao để cân đo đong đếm lòng trung thành với Tổ quốc? Thỏa thuận Thành Đô thể hiện lòng trung thành với Tổ quốc nào? Suốt mấy chục năm ròng ngăn cấm việc trình bày sự thật lịch sử của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc trong sách giáo khoa, cản trở các thế hệ sinh sau đẻ muộn tìm hiểu một trong những chương quan trọng nhất của lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Cái thế lực ngăn cấm, cản trở ấy có trung thành với Tổ quốc hay không? Suốt mấy nhiệm kỳ liên tiếp, Quốc hội đều phớt lờ việc sách giáo khoa tránh nhắc tới cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, trận đánh Gạc Ma bảo vệ Trường Sa năm 1988… Rồi phớt lờ cả việc chính quyền cản trở, đàn áp những công dân tham gia tưởng niệm các đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh. Điều đó có chứng minh lòng trung thành với Tổ Quốc của tất thảy đại biểu Quốc hội hay không?
Một Quốc hội bất chấp nguyện vọng đích thực của Nhân dân, hiến định thể chế xã hội chủ nghĩa đã lụn bại từ lâu, hiến định vô điều kiện quyền lãnh đạo vĩnh viễn của ĐCSVN, phủ định cả quyền sở hữu của người dân đối với đất đai đã được khai hoang và thừa kế từ bao đời, thì có thể coi là trung thành với Nhân dân hay không?
Một Quốc hội từng thông qua bao điều luật vi hiến, thậm chí 97,59% tổng số đại biểu Quốc hội đã biểu quyết tán thành thông quamột Hiến pháp vi hiến (tức là Hiến pháp vi phạm chính nó), thì có thể coi là trung thành với Hiến pháp hay không?
Làm thế nào để xác định “phẩm chất đạo đức tốt”? “Tốt” theo quan niệm nào? Theo lập trường ngoại lai giả danh giai cấp, hay lý tưởng thực sự vì Nước vì Dân? Theo thước đo chuyên chính vô sản cực đoan, hay chuẩn mực dân chủ đích thực? Những ai trong số leo trèo trên chính trường thực sự “vô tư”?
Một Quốc hội chưa phế truất được bất cứ phần tử tham nhũng nào trong bộ máy ngập tràn tham nhũng, thì có thể coi là “có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng” hay không?
Những ai không đáp ứng tiêu chuẩn “có trình độ văn hóa”? Sau một năm cắp sách tới trường thì đã có “có trình độ văn hóa” lớp 1. Gắng 12 năm thì “có trình độ văn hóa” lớp 12. Thậm chí, mù chữ mà biết hát xẩm thì cũng ít nhiều “có trình độ văn hóa” dân gian. Vậy thì đại biểu Quốc hội phải “có trình độ văn hóa” tầm nào, sao không viết rõ?
Thông qua một bản hiến pháp với đầy lỗi sơ đẳng với vẻn vẹn hai phiếu trắng và không hề có phiếu chống, thì có phải tất cả các đại biểu Quốc hội đều “có đủ năng lực… để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội”, hay không?
Hỏi lịch sự như vậy thôi, chứ dù thận trọng đến đâu thì cũng có thể khẳng định rằng: Quá nhiều đại biểu Quốc hội KHÔNG “đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật tổ chức Quốc hội”.
Có hai câu hỏi nảy sinh ở đây:
– Một là, nếu bản thân các đại biểu Quốc hội đương nhiệm còn không “đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật tổ chức Quốc hội”, thì có quyền đòi hỏi “người ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội quy định tại Luật tổ chức Quốc hội”, hay không?
– Hai là, có thể dùng cái cơ chế và bộ máy đã từng tuyển chọn ra biết bao đại biểu Quốc hội không đáp ứng các tiêu chuẩn… để chọn lọc những người ứng cử, hay không?
Câu trả lời tất nhiên là KHÔNG và KHÔNG.
Rõ ràng, không thể dùng những tiêu chuẩn vu vơ, khó xác định chính xác, như các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội được quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13, để làm lý do gạt bỏ một số người ứng cử khỏi danh sách ứng cử.
Nếu tồn tại tiêu chuẩn định tính hợp lý hợp pháp nào đó đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội, thì từng cử tri sẽ tự mình xem xét và đánh giá những người ứng cử, để đưa ra kết luận và quyết định cho riêng mình, rằng bản thân sẽ bầu chọn ai. Không có tổ chức hay cá nhân nào có đủ tư cách đứng ra làm việc ấy, thay cho bản thân các cử tri. Và hiển nhiên, không thể chấp nhận thủ đoạn được triển khai tại các “Hội nghị cử tri”, trong đó huy động một nhúm cử tri nhân danh toàn thể cử tri để phán xét và buộc tội những người tự ứng cử, hòng loại họ ra khỏi danh sách ứng cử.
Chính vì thế, nếu người nào đó muốn tự ứng cử và đáp ứng được những tiêu chuẩn định lượng hợp hiến hợp pháp, thì cơ quan tổ chức bầu cử không được phép ngăn cản người ấy ứng cử. Mà theo Hiến pháp và Luật BCĐBQH hiện hành, thìngười ứng cử đại biểu Quốc hội chỉ cần là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chỉ phải thỏa mãn một tiêu chuẩn định lượng duy nhất là “đủ hai mươi mốt tuổi trở lên”.
Vậy mà Điều 43 Luật BCĐBQH 1997 lại cho phép Hội nghị hiệp thương “lựa chọn, lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội”, và Điều 48 Luật BCĐBQH 2015 sửa tên danh sách ấy thành “danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội”. Dù gọi tên danh sách thế nào, thì về thực chất cũng là loại bỏ bớt một số người ứng cử.
Như đã viết ở trên, ta không bàn đến thành phần được Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề cử, nên cũng không thảo luận về việc các tổ chức ấy dùng cơ chế “hiệp thương” để sàng lọc và thiết lập danh sách đề cử của họ. Song phải khẳng định rằng: Hội nghị hiệp thương không có tư cách chính đáng để loại bỏ bớt những người tự ứng cử không hề tham gia hiệp thương, cũng như những người được các tổ chức không tham gia hiệp thương đề cử.
Để ngụy tạo tính chính đáng, trong Luật BCĐBQH 2015, Điều 48 quy định rằng “Hội nghị hiệp thương lần thứ ba căn cứ vào… kết quả lấy ý kiến cử tri để lựa chọn, lập danh sách những người đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội”. Mà theo Điều 44 thì “việc tổ chức lấy ý kiến cử tri được thực hiện theo quy định tại Điều 45 của Luật này”, tức tại cái gọi là “Hội nghị cử tri”, thứ “được tổ chức tại thôn, tổ dân phố nơi người ứng cử đại biểu Quốc hội cư trú thường xuyên”, và ở cả một số cơ quan, nơi người ứng cử làm việc.
Gọi “Hội nghị cử tri” là vô tình lạm danh hay cố tình lừa dối. Bởi vì số cử tri tham gia “Hội nghị cử tri” chỉ chiếm chưa đến một phần nghìn cử tri của đơn vị bầu cử. Thật vậy, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII vào năm 2011, cả nước có 62.313.605 cử tri và được chia thành 183 đơn vị bầu cử. Như vậy, bình quân mỗi đơn vị bầu cử có khoảng 340.512 cử tri. Nếu một thôn hay tổ dân phố có khoảng 200 cử tri, thì nó chỉ chiếm khoảng 0,059% (tức là chưa đến 6 phần vạn) toàn bộ cử tri của đơn vị bầu cử. Trên thực tế, khi cần loại bỏ người tự ứng cử thì tỷ lệ cử tri tham gia “Hội nghị cử tri” còn thấp hơn hẳn, vì chỉ những phần tử cốt cán đắc lực mới được huy động đến.
Như vậy, chỉ có một phần siêu nhỏ cử tri thuộc đơn vị bầu cử tham gia cùng bộ máy tổ chức bầu cử để loại bỏ một số người tự ứng cử. Hậu quả là một số người tự ứng cử bị loại bỏ khỏi cuộc bầu cử chỉ vì ý kiến của một phần siêu nhỏ cử tri, trong khi nguyên tắc bầu cử “trực tiếp” đảm bảo họ có quyền được hưởng và chỉ phải chịu sự đánh giá lựa chọn trực tiếp của tập hợp toàn thể cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình. Đó là cái sai nhìn từ góc độ của người ứng cử. Còn về phía cử tri, họ chỉ được bầu chọn một phần trong số những người ứng cử, trong khi nguyên tắc bầu cử “trực tiếp” đòi hỏi họ phải được trực tiếp lựa chọn từ tập hợp toàn thể những người ứng cử tại đơn vị bầu cử của mình.
Tóm lại, xét về mọi phương diện, việc dùng cơ chế “hiệp thương”, trong đó có dựa vào ý kiến của cái gọi là “Hội nghị cử tri”, để gạt bỏ bớt những người tự ứng cử là hành vi chen ngang của thế lực trung gian, nhằm tước bỏ quyền bầu chọn trực tiếp của cử tri đối với tất cả những người ứng cử, và quyền được lựa chọn trực tiếp của những người ứng cử bởi toàn thể cử tri. Vì vậy, cơ chế vi hiến này vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc bầu cử “trực tiếp”.
Hoàn cảnh tệ hại có thể xảy ra đối với không ít cử tri, khi họ cho rằng tất cả các vị có tên trong danh sách ứng cử do bộ máy tổ chức bầu cử đưa ra đều “có vấn đề” (chẳng hạn không kém năng lực thì lại tham nhũng…). Và các cử tri đó chỉ tín nhiệm mấy người thuộc diện tự ứng cử, song đã bị gạt bỏ trước ngày bầu cử bởi cơ chế “hiệp thương”. Vậy là chẳng còn ai trong danh sách ứng cử đáng để họ bầu nữa. Nghĩa là cử tri có quyền bầu cử trực tiếp, nhưng lại là trực tiếp với hư vô.
3.4. Bình đẳng… hơn người
Quá trình “hiệp thương” (được quy định tại Mục 2, Chương 5 của Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015) do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương điều khiển. Và thành phần tham gia chỉ có thêm đại diện ban lãnh đạo của các tổ chức thành viên của Mặt trận và đại diện Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong khi đó, Khoản 1 Điều 9 Hiến pháp 2013 viết:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.”
Tức là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ là một “liên hiệp tự nguyện…”. Chắc chắn có rất nhiều cá nhân và tập thể người Việt Nam không hề “tự nguyện”tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ thành phần ấy, có thể có nhiều người tự ứng cử, hoặc được các tổ chức không tham gia Mặt trận đề cử. Ngoài ra, còn có cả những người tham gia các tổ chức thành viên của Mặt trận, nhưng không được các tổ chức đó đề cử, mà tự ra ứng cử. Ta tạm gọi họ là những người ứng cử phi chính thống. Trớ trêu thay, họ và đại diện của họ không hề được tham gia “hiệp thương”, nhưng số phận ứng cử của họ lại do cơ chế“hiệp thương” quyết định.
Trên thực tế, phần lớn những người ứng cử phi chính thống bị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gạt bỏ khỏi danh sách ứng cử. Vì
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo…” (Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam số 14/1999/QH10)
Mà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì khó chấp nhận những người ứng cử phi chính thống.
Hệ quả tất yếu là đa số những người ứng cử phi chính thống không được hưởng sự bầu chọn của toàn thể cử tri trong ngày bầu cử, mà bị loại bỏ từ trước bởi cơ chế “hiệp thương”, trong khi hơn tám trăm người được bộ máy tổ chức của ĐCSVN đề cử hay chấp nhận cho ứng cử thì được hưởng sự bầu chọn ấy. Đó rõ ràng là bất bình đẳng giữa những người ứng cử.
Chưa đến một phần nghìn cử tri của đơn vị bầu cử được tham gia “Hội nghị cử tri” để tôn vinh nhằm ủng hộ, hay phê phán nhằm loại bỏ một số người ứng cử cụ thể nào đó, trong khi hơn 999 phần nghìn cử tri còn lại không được tham gia bày tỏ quan điểm về người ứng cử ấy. Như vậy là bất bình đẳng giữa các cử tri.
Điều 66 Luật BCĐBQH 2015 quy định về cái gọi là “Hội nghị tiếp xúc cử tri”, với “thành phần tham dự hội nghị tiếp xúc cử tri gồm đại diện các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cử tri ở địa phương“, và tất nhiên có cả những người được chấp nhận ứng cử tại “địa phương” ấy, tức là tại đơn vị bầu cử tương ứng. Hội nghị kiểu ấy đã từng diễn ra trước đây, nhưng chẳng mấy cử tri được biết. Ngay cái loa phường, thường ra rả đủ thứ, cũng chưa bao giờ tiết lộ, rằng vụ “tiếp xúc cử tri” sắp xảy ra bao giờ và ở đâu. Vả lại, nếu vô tình biết được thì cũng chẳng được tham gia. Dù có bất bình thì cử tri cũng khó lòng mà khiếu nại, vì hoạt động này chỉ được đề cập rất sơ sài tại Điều 52 của Luật BCĐBQH 1997.
Bây giờ Điều 66 Luật BCĐBQH 2015 quy định khá chi tiết, với ba nội dung chính là:
“b) Đại diện Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri chủ trì cuộc tiếp xúc cử tri, giới thiệu và đọc tiểu sử tóm tắt của người ứng cử.”
“c) Từng người ứng cử báo cáo với cử tri về chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.”
“d) Cử tri nêu ý kiến, đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử. Người ứng cử và cử tri trao đổi dân chủ, thẳng thắn và cởi mở những vấn đề cùng quan tâm.”
Đặc biệt, để không cử tri nào có thể kêu ca rằng mình không biết mà tham gia,Điều 66 Luật BCĐBQH 2015 còn quy định rõ ràng tại Khoản 1 rằng:“Ủy ban nhân dân nơi tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri có trách nhiệm thông báo về thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị để cử tri tham dự đông đủ.”Như vậy là tòi ra cái đuôi giả tạo hay ấu trĩ của những người soạn thảo và thông qua luật này.
Đương nhiên, khi đã viết chung chung là “tiếp xúc cử tri” (chứ không phải là “tiếp xúc với đại biểu cử tri”) thì có nghĩa là tiếp xúc với tất cả các cử tri muốn tham gia, và cái chất “tất cả” cũng hiện ra trong từ “đông đủ”. Để giới thiệu với cử tri về những người ứng cử và chương trình hành động của họ, cũng như để cử tri“đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử”, thì đối tượng của“Hội nghị tiếp xúc cử tri” hiển nhiên phải là tất cả cử tri của đơn vị bầu cử tương ứng. Mà, như đã viết ở cuối phần trên, bình quân mỗi đơn vị bầu cử có khoảng 340.512 cử tri. Vậy thì có nơi nào có thể chứa một “Hội nghị tiếp xúc cử tri” với ngần ấy người tham gia? Và hội nghị phải kéo dài bao lâu để bằng ấy người “đề đạt nguyện vọng của mình với những người ứng cử”? Độ khả thi xấp xỉ bằng 0, mà vẫn luật định bằng được. Đây cũng là một ví dụ về thói hình thức, hiến định bất chấp thực tế, và càng không định thực thi thì càng hiến định hào phóng.
Kiểu gì thì cũng không thể tổ chức một hình thức gặp gỡ hợp lý nào giữa những người ứng cử và tất cả cử tri, để giới thiệu về những người ứng cử và để cử tri trình bày nguyện vọng của mình. Vậy mà họ đã và sẽ còn tiếp tục tổ chức màn kịch giả tạo ấy. Hệ quả đương nhiên, là chỉ có một vài phần nghìn cử tri liên quan được tham gia. Số còn lại đành bơ vơ ngoài vòng “tiếp xúc”. Không thể trình bày nguyện vọng bản thân đã đành, cộng đồng đại đa số bị bỏ rơi cũng không có điều kiện tìm hiểu về những người ứng cử mà họ sẽ phải bầu chọn, nên đến ngày bầu cử đành phải bầu liều. Đó cũng là một biểu hiện bất bình đẳng giữa các cử tri. Từ đây còn nảy sinh thêm câu hỏi: Khi không được nghe, được biết nguyện vọng của gần hết cử tri thuộc đơn vị bầu cử của mình, thì các đại biểu Quốc hội có thể đại diện cho cử tri thuộc đơn vị bầu cử ấy hay không?
Còn một khía cạnh bất bình đẳng khác của Luật BCĐBQH mà ta không thể không bàn. Điều 48 Luật BCĐBQH 1997 quy định:
“Người ứng cử không được làm thành viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cửở đơn vị mình ứng cử. Nếu đã là thành viên của Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị mình ứng cử thì người ứng cử phải được rút khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử đó kể từ ngày được ghi tên vào danh sách chính thức những người ứng cử.”
Chứng tỏ các nhà lập pháp cũng thừa nhận, rằng việc “vừa thổi còi vừa đá bóng” trong bầu cử là không ổn. Tuy nhiên, không hiểu do cố ý hay vô tình, mà họ lại viết rằng “người ứng cử phải được rút khỏi danh sách thành viên…”. Viết như vậy thì có thể hiểu là: Nếu người ứng cử muốn xin rút để thể hiện mình khách quan thì “phải được (phép) rút”, còn nếu không muốn rút thì thôi.
Lỗi trên đã được khắc phục trong Luật BCĐBQH 2015 như sau:
“Điều 27. Những trường hợp không được tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử
Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân không được làm thành viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình ứng cử. Nếu đã là thành viên của Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình ứng cử thì người ứng cử phải xin rút khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử đó chậm nhất là vào ngày công bố danh sách chính thức những người ứng cử. Trường hợp người ứng cử không có đơn xin rút thì cơ quan đã quyết định thành lập Ban bầu cử, Tổ bầu cử đó ra quyết định xóa tên người ứng cử khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử và bổ sung thành viên khác để thay thế.”
Tắm gội như vậy là triệt để, phải không? Tất nhiên là… KHÔNG. Bởi vì tắm gội kiểu này mới sạch từ rốn trở xuống, song chưa hề thấm ngực ướt đầu. Điều 27 chỉ quy định “những người ứng cử đại biểu Quốc hội… không được làm thành viên Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử ở đơn vị bầu cử mà mình ứng cử”. Tiêu đề “Những trường hợp không được tham gia vào các tổ chức phụ trách bầu cử”của Điều 27 cho thấy: Luật BCĐBQH 2015 không hề cấm những người ứng cử đại biểu Quốc hội tham gia các tổ chức phụ trách bầu cử cấp cao hơn. Đó làHội đồng bầu cử quốc gia và Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chính hai cấp này mới là nơi nắm “quyền sinh quyền sát”, có khả năng thao túng kết quả bầu cử nhiều nhất.
Vì sao khi tắm gội lại chừa ra cái đầu, là Hội đồng bầu cử quốc gia, tổ chức lãnh đạo bầu cử trên phạm vi cả Nước? Đã từ lâu, chẳng mấy ai còn ngây thơ, đến mức tin tưởng hay đòi hỏi lãnh đạo cao cấp phải tử tế và gương mẫu. Do đó, việc Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 né tránh đối tượng đáng phải khống chế nhất chính là dung túng việc lạm dụng quyền lực. Nhờ thế, các siêu ứng cử viên có thể tham gia chèo lái Hội đồng bầu cử và các Ủy ban bầu cử, và nếu muốn thì có thể tác động để đưa ra các quyết định có lợi cho việc ứng cử và trúng cử của bản thân. Riêng việc chọn cho bản thân một đơn vị bầu cử với đa số cử tri thuộc loại “dễ bảo” và đưa vào danh sách ứng cử tại đó những đối thủ “nhẹ ký” thì đã có thể yên tâm lắm rồi.
Theo quy định tại Điều 8 Luật BCĐBQH 1997, được sửa đổi theo Luật số 31/2001/QH10, và Điều 7 Luật BCĐBQH 2015, tổng số đại biểu Quốc hội được giới hạn bởi con số năm trăm. Cho nên, lợi thế giúp người này trúng cử có thể là điều bất lợi khiến người khác thất cử. Do đó, việc Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 để cho các siêu ứng cử viên được phép tham gia Hội đồng bầu cử và Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là vi phạm nguyên tắc “bình đẳng” trong bầu cử.
Hẳn là, tất cả mọi người đều bình đẳng, nhưng thế lực cầm quyền còn bình đẳng hơn. Lâng lâng trên vị thế vời vợi “bình đẳng hơn người” ấy, mới dễ cao hứng mà cảm thấy “cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản”.
Hiển nhiên, khi tạo ra một cơ chế bầu cử với nhiều khía cạnh bất bình đẳng trầm trọng như vậy, Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 không chỉ vi phạm nguyên tắc bầu cử “bình đẳng”, được hiến định tại Điều 7 Hiến pháp 1992 và Điều 7 Hiến pháp 2013. Chúng còn vi phạm nghiêm trọng cả nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, được hiến định tại Điều 52 Hiến pháp 1992 và Điều 16 Hiến pháp 2013.
3.5. Phổ thông mà bỏ sót
Khi một số người tự ứng cử bị loại khỏi danh sách ứng cử, mặc dù họ hoàn toàn có quyền ứng cử, như đã đề cập ở trên, thì có nghĩa là quyền ứng cử của họ đã bị tước bỏ một cách phi lý. Vì vậy, việc dùng cơ chế “hiệp thương” để loại bỏ họ cũng vi phạm cả nguyên tắc bầu cử “phổ thông”.
Xét từ góc độ cử tri, thì nguyên tắc bầu cử “phổ thông” còn bị vi phạm tràn lan hơn. Có những trường hợp, nhìn qua thì thấy có vẻ ổn thỏa, nhưng thực ra cũng chẳng hề “phổ thông” chút nào. Chẳng hạn như trường hợp “trực tiếp với hư vô”, đã được xét ở cuối phần 3.3. Đó là hoàn cảnh mà tất cả những người ứng cử được cử tri tín nhiệm đều đã bị “tổ chức” loại bỏ bằng cơ chế “hiệp thương”, chỉ còn sót lại một danh sách ứng cử bao gồm những nhân vật mà một số cử tri nào đó cho là đều tệ hại, rặt là “sâu”.
Hoàn cảnh trớ trêu ấy có thể xảy ra, khi đứng đầu một tỉnh lại là loại lãnh đạo như Hồ Xuân Mãn. Nếu ông ta tự công nhận là mình tệ hại, thì “mã tầm mã ngưu tầm ngưu”. Ngược lại, nếu ông ta thành tâm nghĩ là mình tốt, thì cũng sẽ lựa chọn những người tốt như mình, mà tốt như thế thì cũng đã quá tệ mất rồi. Đừng chủ quan, tin rằng cấp trên sẽ uốn nắn, ngăn chặn. Bởi Hồ Xuân Mãn là một trong ba Bí thư Tỉnh ủy được Ban chỉ đạo Trung ương Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Bí thư ĐCSVN Nông Đức Mạnh, vinh danh tại hội nghị biểu dương các điển hình tiên tiến toàn quốc vào tháng 1 năm 2010.
Đương nhiên, khi đứng trước một danh sách ứng cử mà bản thân nghĩ là toàn“sâu”, mọi cử tri có lương tâm và trách nhiệm đều phải gạch hết, không thể bầu cho bất cứ nhân vật nào. Song cả Điều 65 Luật BCĐBQH 1997 vàĐiều 74 Luật BCĐBQH 2015 đều quy định, rằng phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử là phiếu bầu không hợp lệ. Vì sao? Phải chăng họ muốn cử tri phải bầu bằng được ai đó trong danh sách mà họ đưa ra. Bầu ai cũng được, vì thông thường thì cả danh sách ứng cử đều là người của họ. Nhưng ít nhất phải bầu cho một người. Xem chừng cũng tương tự kiểu tư duy “bố già” : “Không tín nhiệm thằng cướp, thì tối thiểu cũng phải chấp nhận thằng trộm, vì chúng là con tao.” Cuối cùng, lương tâm và trách nhiệm buộc một số cử tri phải quyết định gạch xóa hết tên những người ứng cử, tức là đành phải chấp nhận để phiếu bầu của mình trở thành phiếu không hợp lệ. Mất công đi bầu cử, mà phiếu bầu lại không được tính là hợp lệ, thì còn tệ hơn là không đi bầu. Thành thử, về thực chất, Điều 65 Luật BCĐBQH 1997 và Điều 74 Luật BCĐBQH 2015 đã tước mất quyền bầu cử của những cử tri có lương tâm và trách nhiệm ấy. Tức là chúng vi phạm nguyên tắc bầu cử “phổ thông”.
Vừa tước quyền bầu cử hiến định của công dân, vừa vi phạm nguyên tắc bầu cử “phổ thông”, hiển nhiên cái quy định “phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử là phiếu bầu không hợp lệ” vi hiến, cho dù chiểu theo bất kỳ hiến pháp nào của chế độ này. Đáng lưu ý, là phiếu không bầu cho ai từng được coi là hợp lệ trong Sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 17 tháng 10 năm 1945 – Số 51. Nó tiếp tục được thừa nhận là hợp lệ trong Luật BCĐBQH 1959 (Điều 44) và Luật BCĐBQH 1980 (Điều 45). Chỉ đến Luật BCĐBQH 1992 (được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 15/4/1992) thì phiếu không bầu cho ai mới bị coi là không hợp lệ (Điều 48). Rồi quy định vi hiến này được tiếp tục duy trì trong Luật BCĐBQH 1997 (Điều 65) và Luật BCĐBQH 2015 (Điều 74).
Một dạng bầu cử khác, có vẻ như quán triệt nguyên tắc bầu cử “phổ thông”, nhưng chẳng phải là bầu cử “phổ thông” đích thực, mà hoàn toàn hình thức, đó là tổ chức cho cử tri vãng lai tham gia bỏ phiếu bầu cử tại những địa phương xa lạ. Điều 12 Luật BCĐBQH 1997 và Điều 11 Luật BCĐBQH 2015 cho phép thành lập khu vực bỏ phiếu tại bệnh viện, nhà an dưỡng… và thậm chí ở cả trại tạm giam… Nhưng khi bệnh viện, nhà an dưỡng, trại giam… ở quá xa nơi cư trú, nằm ngoài phạm vi đơn vị bầu cử của cử tri, thì đó chỉ là quyền tham gia trò chơi bầu cử mà thôi. Bởi vì những người đi chữa bệnh, hay an dưỡng, hay bị tạm giam… chỉ quan tâm và có hiểu biết nào đó để bầu ra những đại biểu Quốc hội đại diện cho địa phương mà họ đã và sẽ trở về đó sinh sống, chứ không phải bầu ra những đại biểu đại diện cho nơi mà họ đang có mặt chỉ một thời gian ngắn (xem Phụ lục 3).
Những cử tri đang di chuyển trong nước, ra xa đơn vị bầu cử cử mình, vì lý do công việc hay vì những lý do khác, cũng phải chịu chung số phận giống như những người đi chữa bệnh hay bị tạm giam ở xa nơi cư trú. Hoặc là chịu mất quyền bỏ phiếu, hoặc là tham gia bầu cử một cách hình thức ở chốn xa xôi để bầu cho những đối tượng hoàn toàn xa lạ, không liên quan đến bản thân.
Còn những cử tri đi ra nước ngoài trong thời gian bầu cử thì chỉ còn nước chịu mất quyền bỏ phiếu, vì hình thức bỏ phiếu bằng cách gửi thư không được chấp nhận. Đặc biệt, những người được cử ra nước ngoài làm nhiệm vụ nghiễm nhiên bị mất quyền bầu cử (ví dụ như nhân viên các cơ quan ngoại giao, cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, hay quân nhân được phái đi tham chiến hoặc gìn giữ hòa bình ở nước ngoài). Vắng mặt vì lý do riêng tư thì đã đành, nhưng đi thi hành công vụ mà lại bị mất quyền bầu cử, thì phải lý giải sao đây?
Đó là chưa kể đến đông đảo công dân Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Họ thuộc vào cộng đồng quan trọng, có nhiều đóng góp cho Tổ quốc, đến mức Hiến pháp 2013 (Điều 18) phải bổ sung thêm khẳng định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.” Thế mà Luật BCĐBQH 2015 (được ban hành khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực) vẫn bỏ rơi “bộ phận không tách rời” ấy.
Tóm lại, cả Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 đều phớt lờ quyền bầu cử và ứng cử của rất nhiều công dân Việt Nam đang ở nước ngoài vào thời điểm diễn ra bầu cử đại biểu Quốc hội. Vì thế, chúng vi phạm cả hai nguyên tắc bầu cử “phổ thông” và “bình đẳng”.
3.5. Sát thủ hóa trang thánh thiện
Một trong số bốn nguyên tắc xác định người trúng cử được quy định tại Điều 78 Luật BCĐBQH 2015 là:
“Người trúng cử phải là người ứng cử đạt số phiếu bầu quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ.”
Nếu số người trúng cử đại biểu Quốc hội chưa đủ số lượng được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử, thì có thể có bầu cử thêm. Đối với cuộc bầu cử thêm,Điều 79 Luật BCĐBQH 2015 quy định:
“Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong danh sách những người ứng cử tại cuộc bầu cử đầu tiên nhưng không trúng cử. Người trúng cử là người được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ và có số phiếu bầu cao hơn. Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai.“
Luật BCĐBQH 1997 cũng đã quy định những nội dung trên tại Điều 70 vàĐiều 71.
Hai nội dung pháp định quan trọng nhất là: Trong cả hai cuộc bầu cử ban đầu và bầu cử thêm, người trúng cử buộc phải “được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ”, và “nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số lượng đại biểu được bầu… thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai”. Điều đó chứng tỏ các nhà lập pháp rất coi trọng ý kiến của đa số (quá bán) cử tri, đúng không? Quy định như vậy thì thánh thiện quá, đúng không? Xin đừng vội trả lời, mà hãy kiên trì đọc tiếp, mấy phút sau trả lời cũng không muộn.
Giả sử đơn vị bầu cử được bầu một đại biểu Quốc hội. Nếu, đối với cử tri, uy tín của tất cả những người ứng cử không quá chênh lệch, thì khi danh sách ứng cử có ba người, tỷ lệ số phiếu bầu cho mọi người ứng cử sẽ quanh quẩn xung quanh 33%, và không ai trong số họ “được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ”. Trong trường hợp uy tín của những người ứng cử khá khác biệt, thì chỉ cần số người ứng cử đủ nhiều, vẫn có thể xảy ra tình trạng không có ai “được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ”. Tương tự như vậy, kể cả khi đơn vị bầu cử được bầu nhiều hơn một đại biểu Quốc hội, danh sách ứng cử đủ dài sẽ có thể dẫn đến kết cục không có ai “được quá một nửa tổng số phiếu bầu hợp lệ”. Tức là, theo quy định của Điều 78 Luật BCĐBQH 2015, không có ai trúng cử cả. Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri vẫn đứng trước danh sách ứng cử cũ. Dưới giả thiết rằng cử tri bầu cử nghiêm túc theo lập trường kiên định, thì kết quả không hề thay đổi. Do Điều 79 Luật BCĐBQH 2015 quy định “không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai”, nên cuối cùng đơn vị bầu cử đó sẽ không bầu được đại biểu nào cả. Và nếu việc ứng cử là thực sự tự do, toàn quốc có thể có rất nhiều người ứng cử, đến mức rất nhiều đơn vị không bầu được đại biểu nào, hoặc chỉ bầu được quá ít đại biểu. Hậu quả có thể xảy ra là cả nước chỉ bầu được rất ít đại biểu Quốc hội (xem Phụ lục 4).
Với đội ngũ quá lơ thơ, Quốc hội không thể đảm đương nhiệm vụ hiến định. Thậm chí, kể cả khi chỉ định đóng vai trò của một sân khấu chính trị hình thức, thì Quốc hội cũng không có đủ diễn viên để đóng.
Để một trạng thái bế tắc như vậy không thể xảy ra, nếu không rắp tâm ngụy tạo kết quả bầu cử, thì thế lực cầm quyền chỉ còn có một cách duy nhất, là khống chế số người ứng cử dưới một mức “an toàn” nào đó. Đối với lần bầu cử này, chẳng cần phải đợi lâu để thấy được hành vi khống chế số người ứng cử. Mặc dù Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG (do Hội đồng bầu cử quốc gia ban hành ngày 29/1/2016) quy định thời hạn nhận hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV bắt đầu từ ngày 17/2/2016 và kết thúc vào ngày 13/3/2016, nhưng một số báo đã đưa tin vào ngày 17/1/2016 (tức 12 ngày trước khi Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG ra đời và đúng một tháng trước khi thời hạn nhận hồ sơ ứng cử bắt đầu), rằng “Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho biết đã xác định được số lượng ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV là 896 người”.
Chẳng có gì đáng bàn nếu đảng cầm quyền tự hạn chế số người trong danh sách đề cử của đảng mình và các tổ chức liên minh, bởi đó là công việc nội bộ của họ. Song hiển nhiên thế lực cầm quyền không đơn phương tự vẫn, mà tìm mọi cách để hạn chế số lượng ứng cử viên độc lập và số lượng đề cử của các tổ chức không thuộc liên minh cầm quyền. Cơ chế “hiệp thương” là một trong những thủ thuật được sử dụng trên thực tế để khống chế số người ứng cử.
Hành vi ấy không chỉ vi phạm thô bạo quyền ứng cử của công dân, mà còn vi phạm cả quyền bầu cử, bởi nó hạn chế đáng kể phạm vi bầu chọn của công dân. Và hiển nhiên là vi phạm nguyên tắc bầu cử “phổ thông”.
Như vậy, cái nguyên tắc xác định người trúng cử được quy định tại Điều 78 và Điều 79 của Luật BCĐBQH 2015, và cũng đã được quy định tại Điều 70 và Điều 71 cùa Luật BCĐBQH 1997, tất yếu dẫn đến tình trạng vi phạm trầm trọng quyền ứng cử và bầu cử của công dân trên quy mô toàn quốc. Nó chính là sát thủ đích thực, được hóa trang thánh thiện, như thể rất coi trọng ý kiến của đa số cử tri. Nếu nó còn tồn tại thì quyền ứng cử và bầu cử của công dân nhất định bị xâm phạm, nếu không bởi thủ thuật “hiệp thương” thì cũng bởi thủ đoạn “sát thương” nào đó. Chính vì vậy, nguyên tắc xác định người trúng cử được quy định trong Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015 chắc chắn là vi hiến, cho dù chiểu theo bất kỳ hiến pháp nào của chế độ này.
Tất nhiên, ở các nước thật sự dân chủ, chẳng kẻ nào dám mơ đến việc dùng võ bẩn để loại bớt người ứng cử, hòng đảm bảo quân số cần thiết cho Quốc hội. Vậy thì tại sao Quốc hội của họ lại không bao giờ bị lâm vào cảnh thiếu đại biểu trầm trọng, mặc dù công dân có thể ứng cử hoàn toàn tự do? Đơn giản vì luật bầu cử của họ không có quy định ngây ngô như luật của Việt Nam.
Luật Bầu cử CHLB Đức quy định: “Trúng cử là người ứng cử nhận được nhiều phiếu nhất”, nghĩa là không hề đòi hỏi người trúng cử phải “được quá nửa số phiếu hợp lệ”. Quy tắc bầu cử của Pháp chỉ đòi hỏi người trúng cử phải được hơn nửa số phiếu bầu trong lần bầu cử ban đầu, còn nếu phải bầu cử lần thứ hai thì chỉ cần được nhiều phiếu nhất (xem Phụ lục 5).
Đơn giản như vậy, tại sao các nhà lập pháp Việt Nam lại không quy định tương tự? Câu trả lời chắc sẽ khiến nhiều người phải ngạc nhiên: Các thế hệ lập pháp trước kia của chế độ này đã từng quy định tương tự như quy tắc bầu cử của Pháp. Thật vậy, Sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 17 tháng 10 năm 1945 – Số 51 quy định:
“Điều thứ 56: Phải có một phần tư (1/4) sổ cử tri (người có quyền bầu cử) toàn tỉnh hay thành phố có đi bầu thì cuộc bầu cử mới có giá trị. Nếu không, sẽ có cuộc bầu cử thứ hai.”
“Điều thứ 57: Những người ứng cử phải được hơn một nửa số phiếu bầu (hợp lệ) thì mới được trúng cử.”
“Điều thứ 58: Điều thứ 56 và 57 kể trên không thi hành cho cuộc bầu cử thứ hai. Lần này người ứng cử nào được nhiều phiếu hơn thì trúng cử.”
Tức là khi tiến hành cuộc bầu cử thứ hai thì không nhất thiết phải một phần tư số cử tri tham gia và người trúng cử chỉ cần được nhiều phiếu hơn, chứ không còn cần phải được hơn một nửa số phiếu bầu. Chính vì thế, sau hai lần bầu cử chắc chắn sẽ bầu được đủ số đại biểu cần thiết.
Cách xác định người trúng cử trong Sắc lệnh kể trên tiếp tục được duy trì trongLuật BCĐBQH 1959, Luật BCĐBQH 1980 và Luật BCĐBQH 1992 (với khác biệt nhỏ, là để không phải bầu cử lại thì lần bầu cử thứ nhất phải có quá nửa số cử tri tham gia, chứ không phải một phần tư). Chỉ đến khi ban hành Luật BCĐBQH 1997 (được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 17/4/1997, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh và Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười), mới xuất hiện tại Điều 71 đòi hỏi, rằng cả trong lần bầu thêm người trúng cử cũng phải “được quá nửa số phiếu hợp lệ”, và “nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu theo quy định thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai”. Rồi “sát thủ hóa trang thánh thiện” ấy được tiếp tục nuôi dưỡng tại Điều 79 của Luật BCĐBQH 2015(được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/6/2015, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng).
Diễn biến kể trên chứng tỏ, dù không có “sát thủ hóa trang thánh thiện” thì quyền ứng cử của công dân vẫn có thể bị xâm phạm, và lỗi đó không nhất thiết do bản thân Quốc hội gây ra. Song cần phải nhấn mạnh rằng: Khi “sát thủ hóa trang thánh thiện” được Quốc hội luật hóa trong Luật BCĐBQH, thì quyền ứng cử của công dân chắc chắn bị xâm phạm. Đó là trách nhiệm không thể chối bỏ của Quốc hội.
Không nhất thiết phải dùng “sát thủ hóa trang thánh thiện” vẫn có cách khác để đạt được mục đích, thì tại sao phải luật định nó cho tai tiếng? Chắc hẳn do hạn chế về khả năng lập pháp và trình độ tổ chức bộ máy nhà nước của các đại biểu Quốc hội. Mặt khác, có lẽ xuất phát từ tâm lý ngộ nhận hay sĩ diện, cho rằng ta và người của ta hiển nhiên được tín nhiệm cao, khi bầu cử ít nhất cũng được quá bán, và nếu thực tế không phải như vậy thì cũng phải cố mà thể hiện như vậy. Thành thử quy định một cách tràn lan, bầu cử nào cũng phải “quá bán”, và để thực tế không bác bỏ thì thao túng bằng mọi cách để có được kết quả bầu cử như ý. Vậy là sĩ diện hình thức kéo theo bầu cử hình thức.
Sự xuất hiện của quy định “phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử là phiếu bầu không hợp lệ” trong Luật BCĐBQH 1992 và “sát thủ hóa trang thánh thiện” trong Luật BCĐBQH 1997 là hai ví dụ điển hình về tiến trình phi dân chủ hóa, diễn ra trong một phần tư thế kỷ qua, ngay trong hệ thống lập pháp.
Thật chua chát, khi Nhân dân đã phải tốn bao tiền của để đào tạo và duy trì bộ máy lập pháp, mà chất lượng lập pháp không tăng theo thời gian, thậm chí còn ngược lại. Thuở mới giành được chính quyền, lực lượng lập pháp nói riêng và giới cầm quyền nói chung vừa mỏng, vừa thiếu kiến thức và kinh nghiệm, do ít được học, nhưng chịu học, nên tránh được nhiều lỗi lập pháp sơ đẳng. Còn ngày nay hậu bối được học rất nhiều, nhưng lại sinh ra những văn bản pháp luật với chất lượng quá thấp, như Hiến pháp 2013và Luật BCĐBQH 2015, phải chăng vì không chịu học?
Những quy định pháp luật nhằm hạn chế quyền bầu cử và ứng cử của công dân, giống như “sát thủ hóa trang thánh thiện”, chỉ có thể xuất hiện trong những chế độ không chấp nhận quyền bầu cử “phổ thông” của công dân. Và ngược lại, những quy định phi dân chủ ấy lại góp phần đắc lực để duy trì tình trạng phi dân chủ của chế độ.
Bài học cảnh giác, mà những người đấu tranh cho dân chủ, bảo vệ quyền công dân và phấn đấu xây một nhà nước pháp quyền đích thực, cần rút ra qua hai ví dụ trên là: Nhiều điều khoản trong hệ thống văn bản pháp luật có vẻ vô hại, thậm chí còn có vẻ thánh thiện, nhưng thực ra chúng rất tệ hại, là sát thủ đích thực đối với dân chủ và quyền công dân.
Băn khoăn muôn mối
Phần 3 khá dài, mặc dù mới chỉ tập trung phân tích mấy điều khoản vi hiến của Luật BCĐBQH 1997 và Luật BCĐBQH 2015, nhằm chỉ ra rằng chúng vi phạm nghiêm trọng tất cả bốn nguyên tắc hiến định cho bầu cử Quốc hội, là “phổ thông”,”bình đẳng”, “trực tiếp” và “bỏ phiếu kín”. Chỉ riêng việc cho phép Hội đồng bầu cử quốc gia và Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam dùng cơ chế “hiệp thương” để loại bỏ bớt những người tự ứng cử và những người được các tổ chức không tham gia Mặt trận đề cử, thì đã đồng thời vi phạm ba nguyên tắc bầu cử “phổ thông”,”bình đẳng” và “trực tiếp”. Như vậy đã quá đủ để ta phải băn khoăn…
4.1. Chiến tích nhiệm kỳ
Rõ ràng, Luật BCĐBQH 2015 là văn bản pháp luật quan trọng thứ hai mà Quốc hội khóa XIII đã thông qua trong nhiệm kỳ của mình. Quan trọng vì nó sẽ quyết định diện mạo và chất lượng của mấy khóa Quốc hội tiếp theo, cho đến khi ban hành một Luật BCĐBQH mới. Tiếc thay, mới thoáng qua ta đã thấy giật mình vì chất lượng của nó.
Văn bản pháp luật quan trọng nhất mà Quốc hội khóa XIII đã thông qua hiển nhiên là Hiến pháp 2013. Một dự thảo mới ở tầm bản nháp, còn chứa đựng quá nhiều lỗi sơ đẳng, kể cả về từ ngữ, văn phạm, lô-gíc và kỹ thuật lập hiến, như đã được chỉ rõ trong bốn bài “Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?“, “Hiến pháp vi hiến“, “Bắt mạch Hiến… nháp” và “Não lòng với Hiến pháp“. Ấy vậy mà, bất chấp góp ý và khuyên can của bao người hiểu biết, 486 đại biểu Quốc hội khóa XIII (chiếm 99,59% trong số 488 vị tham gia biểu quyết) vẫn bấm nút “tán thành”. Chẳng có ai “không tán thành”. Chỉ có hai vị biểu quyết bằng cách bấm cái nút mang tên“không biểu quyết”. Chỉ riêng điều đó cũng chứng tỏ rằng Quốc hội ấy không có đủ trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm và bản lĩnh để có thể đảm nhận nhiệm vụ “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật”(được hiến định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 và Điều 70 Hiến pháp 2013).
Hai sản phẩm quan trọng nhất, được ưu tiên nhất, mà chất lượng lại thấp như vậy, thì các sản phẩm khác sẽ thế nào? Chẳng nhẽ lòng tự trọng và trí tuệ của hơn chín mươi triệu người dân đất Việt đã cạn kiệt đến mức chỉ chắt lọc ra nổi cái “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân” (Điều 83 Hiến pháp 1992 và Điều 69 Hiến pháp 2013) với tâm và tầm như vậy hay sao?
Không! Dân tộc này không tàn lụi đến mức chẳng kiếm nổi đủ người xứng tầm lập hiến và lập pháp. Nhưng tiếc rằng quyền quyết định diện mạo Hiến pháp lại bị chiếm giữ bởi những người dưới tầm lập hiến, và quyền thông qua Hiến pháp lại được trao cho cái “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân” nhưng lại không đại diện cho trí tuệ và quyền lợi của Nhân dân.
Vì sao lại xảy ra thực tế trớ trêu như vậy trong “Nhà nước… của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân” (Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp 2013)?
Bởi vì, tuy gọi là “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…” (Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013), nhưng hoàn cảnh duy nhất mà Nhân dân có thể thực thi quyền lực nhà nước là các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, như hiến định tại Điều 6 Hiến pháp 1992:
“Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân…”
Điều 6 Hiến pháp 2013 nới rộng thêm đôi chút:
“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằngdân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.”
Nhưng “dân chủ trực tiếp” là gì? Nó có thể tồn tại trên thực tế hay không, khi“dân chủ đại diện” cũng chỉ thuộc phạm trù “hư ảo”? Ngoài Quốc hội và Hội đồng nhân dân, chẳng hề có cơ quan nhà nước nào khác được Nhân dân cử ra thông qua bầu cử phổ thông. Vậy khi “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước… bằng dân chủ đại diện… thông qua các cơ quan khác của Nhà nước“, thì đó là những cơ quan nào? Chất vấn đến tận cùng thì sẽ lòi ra, rằng thể hiện “tiến bộ” ấy thực chất cũng chỉ là tái diễn trò vần vò tập rỗng mà thôi.
Chính vì thế, nếu kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội bị thực thi phi dân chủ, nếu bộ máy tổ chức bầu cử dùng đủ thủ đoạn để cản trở ứng cử tự do và chỉ chấp nhận danh sách ứng cử do thế lực đương quyền tuyển lựa, thì quyền làm chủ nhà nước của Nhân dân cũng bị triệt tiêu. Và lúc đó Quốc hội chỉ còn là sân khấu biểu diễn dân chủ, với dàn diễn viên chỉ đại diện cho trí tuệ và quyền lợi của giới cầm quyền, chứ không hề đại diện cho toàn thể Nhân dân.
Dù khen hay trách thì Quốc hội khóa XIII cũng sắp kết thúc nhiệm kỳ, chẳng thể hy vọng hay đòi hỏi gì hơn. Gánh nặng quá khứ để lại và hình thành trong 5 năm tới sẽ chất cả lên vai của Quốc hội khóa XIV. Liệu nó sẽ hoàn thành bao nhiêu phần trăm sứ mạng? Hay sẽ để lại cho tương lai một gánh nặng, còn nặng hơn cả cái gánh mà các thế hệ tiền nhiệm chất lên vai nó?
Nhìn từ góc độ lập hiến và lập pháp, thì băn khoăn lớn nhất là: Liệu một Quốc hội được bầu theo một Luật bầu cử vi hiến có đủ năng lực để ban hành các văn bản pháp luật hợp hiến hay không?
4.2. Bến bờ trách nhiệm
Những ai phải chịu trách nhiệm về tình trạng vi hiến tràn lan và chất lượng quá thấp của Hiến pháp và của các luật? Hiển nhiên là các đại biểu Quốc hội, những người đã biểu quyết thông qua chúng. Có thể họ sẽ chỉ tay lên trời, ám chỉ cái nơi điều khiển tuyệt đối và toàn diện hoạt động của Quốc hội. Đáp lại, có thể hội trên trời phẩy tay vặn lại: Chốn nào mới là nơi được hiến định quyền lập hiến và lập pháp?
Để trách nhiệm không như con đò vô chủ, bị đùn đẩy giữa dòng sông, mọi công dân nên nghiêm túc nhìn nhận phần mình, cho trách nhiệm một bến bờ neo đậu. Vâng, những người đã và sẽ tham gia bỏ phiếu bầu ra Quốc hội với tâm và tầm như vậy hãy tự trách mình, trước khi trách cái sản phẩm do chính mình tham gia bầu ra.
Nếu cử tri nào nghĩ là mình vô can, bởi cho rằng tất cả các đại biểu Quốc hội đều do thế lực thực quyền lựa chọn và xác định mà thôi, thì hãy chịu khó ngồi yên ở nhà, để cho giới cầm quyền tùy thích tự biên tự diễn, và tự tạo ra cái danh sách đại biểu như ý. Xin ông hay bà đừng sốt sắng xông lên sân khấu sắm vai hề, kẻo mang tội phung phí tiền của Dân để lừa Dân. Nếu cho rằng bầu cử chỉ là hình thức, thì đừng hạ mình tham gia một trò chơi hình thức, mà tác hại thì thực chất và trầm trọng.
Ngoài bốn nguyên tắc bầu cử Quốc hội là “phổ thông”, “bình đẳng”, “trực tiếp”và “bỏ phiếu kín”, Hiến pháp CHLB Đức còn quy định thêm nguyên tắc“tự do”. Khi bầu cử là “tự do”, thì công dân có quyền “tự do” tham gia hay không tham gia. Thành thử, trong kỳ bầu cử Liên bang năm 2013, chỉ có 71,5% cử tri tham gia, mà không ai có thể gây khó dễ cho số 28,5% cử tri còn lại. Như đã viết trong phần 1, ở Việt Nam Hiến pháp 1946 đã từng quy định tại Điều thứ 17, rằng “bỏ phiếu phải tự do”. Tuy bốn Hiến pháp tiếp theo không nhắc lại nguyên tắc “tự do”, nhưng cũng chỉ hiến định rằng công dân có quyền, chứ không bị bắt buộc phải tham gia bầu cử Quốc hội. Mà dù có muốn thì cũng không thể quay ra hiến định “bỏ phiếu là bắt buộc”, một khi Hiến pháp khai sinh của chế độ đã long trọng tuyên bố “bỏ phiếu phải tự do”, bởi nếu hành động như thế sẽ bị dư luận coi là tráo trở trắng trợn. Cũng chính vì thừa nhận công dân có quyền tự do không tham gia bầu cử, nên Điều 78 Luật BCĐBQH 2015 mới xét đến trường hợp chưa đạt quá nửa tổng số cử tri tham gia bầu cử, mà quy định rằng:
“Kết quả bầu cử… chỉ được công nhận khi đã có quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri tại đơn vị bầu cử tham gia bầu cử, trừ trường hợp quy định tại Khoản 4 Điều 80 của Luật này.”
Và Khoản 4 Điều 80 của Luật này quy định:
“Nếu bầu cử lại mà số cử tri đi bầu cử vẫn chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri trong danh sách cử tri thì kết quả bầu cử lại được công nhận mà không tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.”
Hiến pháp và Luật BCĐBQH đều không quy định công dân bắt buộc phải tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội, thì tại sao vẫn tham gia, khi cho rằng bầu cử không thực chất? Nếu đâu đó trưng lên khẩu hiệu “tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân là quyền và nghĩa vụ của công dân”, thì đừng chấp, vì đó chỉ là phát biểu riêng của một số cá nhân. Họ nói dzậy nhưng không nhất thiết nghĩ và hành động như dzậy. Chính họ cũng tuyên bố, mọi người đều phải “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, song bản thân lại thường xuyên vi phạm, thậm chí chà đạp lên Hiến pháp và pháp luật.
Bởi vậy, nếu chẳng xem bầu cử đại biểu Quốc hội là một trò tiêu khiển, thì chỉ nên tham gia khi bản thân nhận thức đó là trách nhiệm, đồng thời dựa trên giả định, rằng bầu cử cũng có chút ít thực chất, và ít nhất thì lá phiếu bầu của bản thân phải là thực chất. Đương nhiên, không thể coi bản thân có tinh thần trách nhiệm và lá phiếu bầu của mình là thực chất, nếu không hề biết hoặc không có đủ hiểu biết cần thiết về người ứng cử mà cũng bầu, để rồi mới rời khỏi nơi bỏ phiếu đã chẳng nhớ nổi mình vừa bầu ai, gạch ai.
Có một lý do khách quan có thể biện hộ chút ít cho cử tri về chứng chóng quên tên người mà mình đã bầu. Đó là mỗi đơn vị bầu cử có thể bầu đến ba đại biểu. Khó khăn nhớ tên đại biểu sẽ giảm hẳn, hơn nữa còn thu được những ưu điểm khác nữa, nếu mỗi đơn vị bầu cử chỉ bầu đúng một đại biểu, như ở CHLB Đức và Pháp (xem Phụ lục 6).
Khá dễ thống nhất với những cử tri nghiêm túc cái quan điểm, là muốn bầu cho một người ứng cử nào đó thì phải biết tương đối rõ về người ấy. Song thế nào gọi là “biết”?
Đừng ngộ nhận là mình đã biết người ứng cử, sau khi xem bức ảnh màu mè và đọc họ tên cùng mấy dòng trích ngang lý lịch ngắn ngủi treo ở phòng bỏ phiếu. Hay sau khi mình may mắn thuộc vào một vài phần nghìn cử tri được tham gia màn “Hội nghị tiếp xúc cử tri”, để nghe mấy lời giới thiệu sơ sài về những người ứng cử. Có lẽ những cử tri nghiêm túc ở Bến Tre, từng tham gia bầu Phó Bí thư thường trực Tỉnh uỷ tỉnh Bến Tre Trần Văn Truyền làm đại biểu Quốc hội khóa X, và bầu Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền làm đại biểu Quốc hội khóa XII, đã tưởng rằng họ biết đủ rõ về ông, cho đến ngày ông bị báo chí phanh phui đủ chuyện, khiến Ủy ban Kiểm tra Trung ương phải điều tra và kết luận, dẫn tới việc một phần trong số tài sản tham nhũng bị thu hồi.
Đừng tưởng tiếp nhận được thông tin ca ngợi, quảng cáo của đài báo chính thống thì mình đã có được thông tin khách quan và chính xác. Một ví dụ thời sự điển hình, được bao người biết tới, là Lê Xuân Giang, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Liên kết sản xuất thương mại Việt Nam (Liên kết Việt). Hay đi ô tô mang biển kiểm soát 80B…, rồi nhiều lần xuất hiện trên đài báo chính thống, với quân hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, lại được nhiều tướng và sĩ quan cấp tá tháp tùng. Vậy thì còn gì để nghi ngờ nữa? Tiếc rằng, với lòng tin ngây thơ, được báo chí chính thống chắp thêm đôi cánh, 6 vạn người đã nhẹ nhàng sa vào cái bẫy bán hàng đa cấp của tên trùm lừa đảo.
Tóm lại, mỗi cử tri trung thực và có tinh thần trách nhiệm cần cân nhắc thận trọng. Chẳng bầu cho những người mình không tín nhiệm đã đành, cũng không thể bầu cho những người mà mình không có đủ hiểu biết về họ. Nói gọn lại, nguyên tắc bầu cử trung thực và có trách nhiệm phải là: KHÔNG BIẾT KHÔNG BẦU.
Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với Khẩu hiệu 02, một trong hai khẩu hiệu được văn bản hướng dẫn của số 1327/HD-BNV của Bộ Nội vụ (ban hành ngày 19/4/2011) quy định phải treo ở “hai bên tường phòng bỏ phiếu”. Nội dung của nó là: “Sáng suốt lựa chọn những người tiêu biểu có đủ đức, đủ tài bầu vào Quốc hội…”. Rõ ràng, nếu cử tri không biết chắc một người ứng cử “có đủ đức, đủ tài” hay không, thì phải khiêm tốn mà thừa nhận trung thực rằng mình KHÔNG BIẾT, và vì vậy KHÔNG BẦU cho người đó. Không thể sĩ diện, làm như thể mình biết, rồi bầu bừa một cách vô trách nhiệm. Nếu bầu cho người mà mình không biết có thật sự xứng đáng làm đại biểu Quốc hội hay không, thì bản thân cũng không xứng đáng là cử tri.
Trường hợp xấu nhất là danh sách ứng cử chỉ có những người mà mình không biết, hoặc biết nhưng không tín nhiệm. Nếu vậy thì không thể bầu cho ai cả. Đó là kết luận mà mọi cử tri trung thực và có tinh thần trách nhiệm đều phải rút ra.
Điều 74 Luật BCĐBQH 2015 quy định rằng “phiếu gạch xóa hết tên những người ứng cử” là “phiếu bầu không hợp lệ”. Thì đã sao? Không hợp lệ chỉ là quan niệm lệch lạc của phía cầm quyền. Đối với bản thân cử tri, thì quan trọng nhất là lá phiếu phải hợp với lòng mình. Với người tử tế, phiếu bầu bị coi là không hợp lệ nhưng vô hại vẫn còn tốt hơn hẳn, so với phiếu bầu được coi là hợp lệ mà có hại cho Dân, cho Nước.
Cả những cử tri yêu chế độ và đồng cảm với giới cầm quyền cũng chẳng cần phải băn khoăn, về việc lá phiếu bầu của mình bị bộ máy tổ chức bầu cử của chế độ coi là không hợp lệ. Vì những lá phiếu trắng không chỉ là vô hại, mà chúng còn có tác dụng thức tỉnh. Vâng, chúng nhắc nhở những người ứng cử cần cố gắng hơn, và nhắc nhở bộ máy tổ chức phải thận trọng, chu đáo hơn trong lần bầu cử tiếp theo. Ngược lại, nếu vì muốn làm hài lòng giới cầm quyền, mà nhắm mắt bầu bừa cho cả những người mà mình không hề biết hoặc không có đủ hiểu biết cần thiết, thì đó là hành vi tham gia lừa dối Nhân dân, lừa cả bản thân người ứng cử và lừa chính bộ máy tổ chức bầu cử.
Cũng đừng tự dày vò, rằng mình thiếu hiểu biết về những người ứng cử, bởi đó không phải là lỗi của bản thân, mà là lỗi của chính cơ quan tổ chức bầu cử. Họ chẳng triển khai mọi biện pháp cần thiết, cũng chẳng tạo mọi điều kiện cho những người ứng cử tự thể hiện, nhằm giúp tất cả cử tri hiểu rõ về từng người ứng cử. Dù may mắn thuộc vào một vài phần nghìn cử tri được tham gia “Hội nghị tiếp xúc cử tri”, thì sau khi nghe mấy lời giới thiệu ngắn ngủi, cử tri cũng không thể biết rõ từng người ứng cử “có đủ đức, đủ tài” hay không. Nếu ăn nói kém cỏi thì có thể tạm coi là không “đủ tài”. Nhưng nếu nói năng rất hay thì chưa thể coi là “đủ đức”, bởi vì đám đạo đức giả thường ăn nói giỏi hơn người. Hơn nữa, một khi những người ứng cử chỉ độc diễn kể lể về bản thân, chứ họ không hề công khai tranh luận với nhau, thì làm sao cử tri có thể biết được ai đúng ai sai, ai hơn ai kém, để mà “sáng suốt lựa chọn những người tiêu biểu”theo yêu cầu của Khẩu hiệu 02?
4.3. Phân thân đôi ngả?
Bài học “KHÔNG BIẾT KHÔNG BẦU“ đã được rút ra ở cuối bài “Não lòng với Hiến pháp“. Những tưởng như thế là đã rõ phương châm hành động. Ai dè đến bài này thì ta lại vương vào một mối băn khoăn mới, khó tìm ra câu trả lời thỏa đáng.
Nhận thức quan trọng vừa thu được là: Luật BCĐBQH 2015 vi phạm nghiêm trọng tất cả bốn nguyên tắc bầu cử “phổ thông”,”bình đẳng”, “trực tiếp” và “bỏ phiếu kín”, được hiến định tại Điều 7 Hiến pháp 2013. Hơn nữa, nếu không có thay đổi đột biến, truyền thống vi hiến của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trước đây lại có thể được tiếp diễn. Bên cạnh những hệ quả vi hiến tất yếu của Luật BCĐBQH, còn vô số hành vi vi hiến được bộ máy tổ chức chủ động“sáng tạo” ngoài khuôn khổ pháp luật. Vậy phải ứng xử sao đây?
Nếu vì thế mà không đi bầu đại biểu Quốc hội, thì lại đánh mất một cơ hội, để thể hiện chính kiến công dân và đóng góp cho mục tiêu bầu ra một Quốc hội tốt hơn trước, cho dù tỷ trọng của một lá phiếu cử tri là rất nhỏ. Và nếu không đi bầu thì lại áy náy về trách nhiệm công dân, mặc dù trách nhiệm đó do mình tự đặt ra cho bản thân, chứ không hề được hiến định.
Song nếu tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành theo một Luật BCĐBQH vi hiến, lại bị những thế lực “không ngại vi hiến” chi phối toàn diện và triệt để, thì lại tòng phạm trong việc vi phạm Hiến pháp. Sự tham gia của đông đảo cử tri sẽ khiến thế lực cầm quyền chủ quan, yên tâm rằng họ đã luật định rất đúng, hoặc dù có luật định sai thì dân trí thấp đến mức chẳng ai nhận ra mà phản ứng, nên cũng chẳng cần phải sửa.
Thực trạng vi hiến khiến những công dân vừa có ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc và Nhân dân, vừa tôn trọng pháp luật hiện hành, lâm vào tình trạng khó xử, băn khoăn đứng trước ngã ba đường. Cả hai ngả đều vấp phải cái quá dở. Biết chọn ngả nào đây?
Chẳng thể phân thân, mong vẹn toàn đôi ngả. Nên mỗi người phải tự cân nhắc và quyết định, sao cho phù hợp nhất với lương tâm và quan điểm của chính mình.
* * * * * * * * * *
Phụ lục 1: Biện pháp đảm bảo cho cử tri có thể bỏ phiếu kín
Khoang viết phiếu kín đáo cho từng cử tri đã được sử dụng hơn một trăm năm (Ảnh 1). Kín đáo nhất là che cả bốn phía, và để tiết kiệm thì có thể dùng vải treo lơ lửng, chỉ che nửa người trên (Ảnh 2). Nếu ai đó cố ngụy biện, rằng như vậy cũng đã quá tốn kém, thì hãy nhớ tới đống tiền vung vãi cho rừng cờ quạt biểu ngữ. Chỉ cần bớt một phần nhỏ những khẩu hiệu “muôn năm”, “đời đời”, “nhiệt liệt”… thì đã thừa vải để che chắn các khoang bầu cử (Ảnh 3 và 4). Thậm chí, có thể dùng chính cờ quạt, biểu ngữ mà che chắn (Ảnh 5). Một số nơi chỉ che kín phía trước mặt và hai bên, còn phía sau được che chắn bởi chính thân thể cử tri (Ảnh 6). Trong trường họp ấy thì cử tri thường đứng chứ không ngồi, để khi cúi gập người mà viết thì che kín lá phiếu, đến mức người đứng sau khó nhìn thấy. Trong Ảnh 7 là một kiểu bảo mật bầu cử độc đáo ở Trung Quốc. Nhờ cái hốc gỗ đủ hẹp được che hai bên, phía trước và cả phía trên, dù cử tri ngồi hay đứng để viết thì người khác đứng ở đâu cũng không nhìn thấy lá phiếu, và camera đặt ở đâu cũng không thể ghi hình. Còn ở Mỹ thì có cả những khoang bầu cử gọn nhẹ, có thể gấp lại như một chiếc va li nhỏ khi không sử dụng (Ảnh 8).
Điều đáng nói là: Khoang bầu cử không phải là thứ đặc sản dành riêng cho những xứ giàu có văn minh, mà còn được phổ cập ở cả những vùng nghèo hẻo lánh (Ảnh 9, 10, 11 và 12). Tiếc rằng, trong khi khoang bầu cử được thiết lập nghiêm túc ở cả hai nước láng giềng Lào (Ảnh 13) và Campuchia (Ảnh 14), thì chúng vẫn còn khá xa lạ ở Việt Nam. Không hiểu bao giờ thì trình độ tổ chức bầu cử của giới cầm quyền Việt Nam mới đuổi kịp đồng nghiệp ở Lào và Campuchia?
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)