Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Chiến tranh Việt Nam

Dưới đây là tất cả các bài báo về Chiến tranh Việt Nam đã đăng trên tờ Der Spiegel và Die Zeit do Phan Ba dịch, theo thứ tự thời gian. Sách về Chiến tranh Việt Nam do Phan Ba dịch nằm ở trang Tủ Sách Phan Ba. Sách và tài liệu về lịch sử hiện đại của Việt Nam và cuộc Chiến tranh Việt Nam của các tác giả khác nằm ở trang Tài Liệu.

1967

Chiếc tàu bệnh viện Helgoland đã hoạt động dưới lá cờ của hội Hồng thập Tự Đức ở Việt Nam từ 1966 cho tới 1972. Hình của hội Hồng thập Tự Đức
Chúng tôi không hỏi những viên đạn đó từ đâu tới: phỏng vấn viên bác sĩ trưởng của chiếc tàu bệnh viện Đức “Helgoland” đã sang Việt Nam từ 1966 cho tới 1972.
Đọc thêm về chiếc tàu bệnh viện Helgoland: Chiếc tàu màu trắng của hy vọng

1968

Có thể tải toàn bộ những bài viết về Chiến tranh Việt Nam trên báo Der Spiegel năm 1968 dưới dạng pdf ở trang Tủ sách Phan Ba

Khi mùa mưa đến: Khe Sanh, 1968
Giới hạn của quyền lực: cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968
Bom nổ trước Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn vào ngày 30 tháng 3 năm 1965. Ảnh: AP/Horst FaasNhững tội phạm dũng cảm (phần 1phần 2hết): Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 và tổng quan về cuộc chiến cho tới thời điểm đó. Đọc trọn bài: Những tội phạm dũng cảm
Sau bảy giờ chỉ còn được phép chết: Phóng sự về Sài Gòn trong Tết Mậu Thân
Chết sau những bồn hoa: Cuộc tấn công vào Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn trong Tết Mậu Thân
Cố gắng cuối cùng: Tường thuật của biên tập viên báo Spiegel từ Huế trong thời gian Tết Mậu Thân
Giết chết lòng nhân đạo: về việc bốn bác sĩ người Đức ở Đại học Huế bị giết chết trong thời gian Tết Mậu Thân
Hai chiếc xe tăng trên nóc hầm: Trận đánh chiếm căn cứ Lang Vei của Mỹ
Một Verdun ở Việt Nam: SPIEGEL phỏng vấn nhà chiến lược của Điện Biên Phủ, tướng Rene Cogny, về Khe Sanh
“Thần Chiến tranh giúp những người Cộng Sản”: Mậu Thân và những tuần sau đó
Tìm Việt Cộng bằng que dò mạch nước: Trận đánh ở Huế, cái vào lúc ban đầu được tiến hành với một đại đội, cuối cùng kéo dài gần bốn tuần và người ta đã phải sử dụng đến tất cả các cỡ hỏa lực có được ở Việt Nam.
Chết ở Việt Nam vì độc giả: về những ký giả đã chết tại Việt Nam
Không đủ lính: “… Tướng Westmoreland, muốn tăng cường cho đội quân viễn chinh Mỹ thêm 206.000 người lên khoảng ba phần tư triệu lính. Nhưng Johnson không có 206.000 người lính…”
Còn phải đổ nhiều máu: Không chỉ những kẻ phá hoại ở cả hai bên, cả những mục đích đàm phán trái ngược nhau của các bên cũng khiến cho người ta lo ngại rằng sẽ còn đổ nhiều máu nữa ở Việt Nam.
Ở bất kỳ nơi nào và không ở đâu cả: Hà Nội liên kết Genève với những hồi tưởng đen tối như người Mỹ với Kaesong: từ lần chia cắt được quyết định ở Genève năm 1954, Hồ Chí Minh có cảm giác bị cuỗm mất lần chiến thắng người Pháp của mình.
Cuộc chiến nhỏ của người Bắc Việt ở Paris: từ hơn hai mươi năm nay, Hồ Chí Minh của Hà Nội đã phải chịu đựng lần chấn thương vì đã thua mất trên bàn đàm phán những gì mà ông ấy đã thắng được trên chiến trường, hay là đã bị các đối thủ chơi xỏ.
Những tiếng hô Hồ Chí Minh: Trong những ngày đầu tiên đến Paris, người Việt Nam đã ngửi hơi cay trong phòng của họ mặc cho mọi sự bảo vệ, nhưng hơi cay không phải là dành cho họ.
Thuyết dẫn đường sai lầm trong chính trị của Hoa Kỳ (phần 1hết): Phân tích Thuyết Domino
Một lính xe tăng người Việt đang dùng khẩu súng máy cỡ 50 bắn vào một vị trí Việt Cộng ở Gia Định vào ngày 4 tháng 6. Ảnh: The Vietnam Center and ArchivViệt Cộng dư thừa vũ khí:Tờ “Figaro” ở Paris tường thuật rằng quân đội Đồng minh đã phát hiện thấy “vũ khí dư thừa” trong tuần vừa rồi vào lúc bắt được lính Việt Cộng – nhiều đến mức ví dụ Biệt Động Quân Nam Việt Nam đã chiến đấu chống lại những người anh em đỏ với vũ khí chiến lợi phẩm đỏ.
Những dấu hiệu nhỏ bé của hòa bình: Từ khi bàn về hòa bình thì cuộc chiến lại càng ác liệt hơn nữa.
Chiến tranh ác liệt hơn trước: Những người lính thủy quân lục chiến mệt mỏi cho nổ tung các công sự mà ở trong đó họ đã sống sót qua được những loạt đạn đại bác bắn liên hồi của quân địch 77 ngày. Họ san phẳng những con hào và phá hủy đường băng, cái nhiều tuần liền là dãy kết nối duy nhất của họ ra thế giới bên ngoài.
USS New Jersey đang bắn phá các mục tiêu quân địch ở bờ biển miền Trung Việt Nam, cuối tháng 3 năm 1969Cuộc chiến tranh ném bom của Mỹ: Gần 120.000 lần trong vòng ba năm rưỡi, các “Giôn xơn” (Johnsons) – như nông dân Bắc Việt gọi máy bay chiến đấu Mỹ – đã bay để đánh phá nước cộng hòa của Hồ Chí Minh.
Vào Dinh Độc Lập sau nửa đêm: Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker đã đến gặp Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu trong Dinh Độc Lập ở Sài Gòn mười lần trong vòng hai tuần.
Bốn sự công bằng: Nguyễn Cao Kỳ, phó Tổng Thống cứng rắn của Nam Việt Nam, tỏ ra khiêm tốn. “Chúng tôi không yêu cầu phía bên kia đầu hàng, mà chỉ yêu cầu công bằng và lý trí phải chiến thắng”, ông ấy nói lúc đến Paris.
Chiến tranh và tham nhũng ở Việt Nam (phần 1phần 2phần 3phần 4hết): Kẻ thù nguy hiểm nhất của Mỹ ở Việt Nam là tham nhũng.

1975

“Cái chết đã bao vây chúng tôi” (phần 1hết): Các thống kê, dù chúng có không chính xác cho tới đâu, để cho người ta nhận ra được quy mô đáng sợ của cuộc chiến tranh huynh đệ này: theo số liệu chính thức của chính phủ Sài Gòn, kể từ khi tuyên bố ngừng bắn đã có trên 250.000 người chết, bị thương hay được báo là mất tích. Trong đó chỉ riêng ở phía Nam Việt Nam là 28.000 người chết, 113.000 người bị thương và 15.000 người lính mất tích; thêm vào đó là 5600 người dân thường bị giết chết và 16.000 người dân thường bị tàn phế. Đọc trọn bài tại đây: “Cái chết đã bao vây chúng tôi”
Người Bắc Việt muốn toàn thắng: Việt Cộng cũng không hài lòng với Hiệp định Paris như Thiệu. Họ không bao giờ có thể phục hồi lại từ lần đổ máu trong cuộc tổng tấn công dịp Tết, tháng Hai 1968, và bây giờ phải chịu nằm dưới mệnh lệnh của quân đội Bắc Việt mà nếu như không có sự bảo vệ của những người này thì họ đã thua cuộc rồi. Họ chiếm nhiều lắm là một phần tư Nam Việt Nam, phần lớn là những vùng khó đi lại, thưa dân cư mà trong đó chỉ có 500.000 trong số 20 triệu người dân sinh sống.
Lần chìm đắm trong âm thầm và tuyệt vọng của Việt Nam: Không phải động cơ cho lần can thiệp đã lộ ra là không đầy đủ và vô lý, mà chính là các phương tiện và khả năng cùa nó. Cả đến ngày nay, điều này cũng cần phải được đưa ra như là lý lẽ để chống lại tất cả những người thời đó đã biểu diễn những màn nhảy múa chống Mỹ trên đường phố với bọt mép ý thức hệ ở trên miệng. Họ đã muốn có kết cuộc buồn thảm này, cái mà ngày nay thế giới đang trải qua;…
Đường Tự Do, Sài Gòn 1972. Hình: Gene Whitmer
Giữa những người ăn xin, mại dâm và đào ngũ: Cuộc sống ở Sài Gòn diễn tiến dưới một cái chuông mong manh của sự bình thường; nó gần như có thể làm cho người ta quên đi sự tồn tại siêu hiện thực của thành phố. Cứ giống như là các đoàn quân tan rã ở phương bắc hoàn toàn không phải là hiện thực – hay chính thành phố chỉ là một sản phẩm của sự tưởng tượng, được mơ mộng ra để an ủi cho sự hỗn loạn và đau khổ ở khắp xung quanh.
Những ngày cuối cùng của Sài Gòn: Hình chụp những con người với ánh mắt kinh hoàng trong các tờ báo ảnh không được phép đánh lừa rằng đất nước này đã bước tới số phận của nó với một thái độ đường hoàng độc nhất vô nhị.  (Phan Ba trích dịch từ Cái chết trên ruộng lúa)
Indochina, mon Amour: Nét lôi cuốn có một không hai, gần như là gây đau đớn của Việt Nam hẳn là nằm trong sự kết hợp đầy mâu thuẫn giữa tính xa lánh cứng rắn và nét xa lạ mang tính quyến rũ, gợi tình, nằm trong một sự khó hiểu nữ tính. (Phan Ba trích dịch từ Cái chết trên ruộng lúa)
Giờ đã điểm cho các tướng lãnh ở Sài Gòn: Thiệu có thể đến với một hàng dài các chính khách của những quốc gia nhỏ đó mà bi kịch của họ là đã mù quáng tin vào những bảo đảm và hứa hẹn hay chỉ là cảm giác danh dự của các nước lớn, đến với Beck và Beneš, Sikorski và Mikolayczik, Nagy và Dubček.
Những ngày cuối cùng ở Sài Gòn: Sau một vài ngày lo âu và hoảng hốt, Sài Gòn lại có hy vọng vào ngày thứ Ba, rằng màn cuối đẫm máu của cuộc chiến, nhát đâm kết liễu vào thủ đô, là có thể tránh khỏi được.
Đông Dương: Vài giây trước mười hai giờ: Sốc vì những thành công quân sự của Việt Cộng và Khmer Đỏ, mệt mỏi vì Thượng Viện từ chối không cung cấp thêm vũ khí, lần đầu tiên dường như chính phủ Hoa Kỳ đã sẵn sàng để đàm phán về những giải pháp chính trị lâu dài. Thế nhưng cho một nền hòa bình không có đầu hàng thì lần nhượng bộ này đã đến quá muộn.
Đông Dương: Chúng ta đã không dự tính trước với điều này: phần 1phần 2hết
11 giờ ngày 30 tháng Tư ở Dinh Tổng Thống: Biên tập viên báo SPIEGEL Gallasch là nhà báo duy nhất có mặt khi người đứng đầu nhà nước Nam Việt Nam, Tướng Minh, đầu hàng – ông đưa ra chiếc máy ghi âm để Minh thâu lại bài phát biểu cuối cùng của ông ấy.
Không còn chào mừng nữa, mà là giáo dục cải tạo: Vì tinh thần hòa giải, cái mà các ông chủ mới nói về nó không biết mệt, đã bắt đầu mất hình dạng. Không có hành động phù hợp đi theo lời nói – thay vào đó, điều ngược lại thường hay xảy ra nhiều hơn.

1979

“Những đứa con ngỗ nghịch trong ngôi vườn của Trung Quốc”: “Đặc biệt là Chu Ân Lai đã hết sức ghê tởm các cuồng vọng của Việt Nam. Chu nói về người anh hùng chiến tranh của Việt Nam, tướng Giáp: “Một tên hạ sĩ quan lên mặt ta đây.””

1985

Có thể tải toàn bộ những bài viết về Chiến tranh Việt Nam trên báo chí Đức năm 1985 dưới dạng pdf ở trang Tủ sách Phan Ba

29 tháng Tư 1975: Một người phụ nữ Việt Nam ngồi trên boong của một con tàu đổ bộ tấn công của Mỹ trong cuộc di tản khỏi Sài Gòn. Hình: AP
Những ngày cuối cùng của Sài Gòn: phần 1phần 2hết: Sài Gòn sợ chiến tranh hơn là sợ những người cộng sản. Mặt trận đã tiến đến gần; vào ngày 21 tháng Tư, Xuân Lộc thất thủ, pháo đài cuối cùng chận đường tiến quân vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía Đông… Đọc một lần cả bài: Winfried Scharlau: Những ngày cuối cùng của Sài Gòn
Bài học của ngọn đồi Thịt Băm: phần 1phần 2phần 3, hết: Lính thủy quân lục chiến Mỹ, những người năm 1965 đánh chiếm một ngọn đồi mang tên “Thịt Băm” ở gần Khe Sanh, đã để lại một tấm bảng nhỏ sau khi rút quân: “Việt Nam – có đáng giá như thế không?” Câu hỏi này vẫn còn được đặt ra. Đọc một lần trọn bài: Bài học của ngọn đồi Thịt Băm
Mười năm sau chiến tranh – Cả người chết cũng bị lừa: phần 1hết: “Họ” và “chúng tôi” – mười năm sau cuộc chiến, sự chia rẽ giữa người chiến thắng và người thua trận cũng vẫn còn không thể vượt qua được.
Tôi đã từng yêu người cộng sảnphần 1phần 2hết: Tấn bi kịch của Việt Nam là không còn thế hệ nào mà có thể mang lại cho đất nước một dòng máu mới và những ý tưởng mới.
Mổ xẻ một chiến thắng: phần 1phần 2hết: Năm trăm người lính bắt đầu làm đường, đầu tiên là từ Vinh cho tới sông Bến Hải gần vĩ tuyến 17 chia cắt miền Bắc với miền Nam, và kéo dài nó từng đoạn một, ngày càng sâu hơn vào miền Nam. Đầu 1961, chuyên chở vũ khí đã đạt tới một quy mô mà bắt đầu trở nên nguy hiểm khi cứ tiếp tục lén lút mang qua vùng đất phía Nam của vĩ tuyến 17 được quân đội Nam Việt Nam canh gác cẩn mật.

2014

Vụ giàn khoan HD-981:
Gerhard Will: “Trung quốc không có chiến lược rõ ràng”: “Khi nhìn lại thì người ta cũng có thể hiểu được tại sao các cuộc biểu tình lại bộc phát bạo lực như vậy. Chính phủ Việt Nam đã ngần ngừ quá lâu trong việc liệu họ nói chung là có cho phép biểu tình hay không.”
Giận dữ theo đơn đặt hàng: Một đám đông người đập phá nhà máy Trung Quốc – trong một đất nước mà ngoài ra thì mỗi một sự phản kháng đều bị bóp nát từ trong trứng nước. Hà Nội muốn gởi một tín hiệu tới Bắc Kinh. Cuộc xung đột biên giới bước vào một vòng đấu mới.
Khủng hoảng giữa Hà Nội và Bắc Kinh leo thang: Nhiều kịch bản khủng hoảng tới đây phụ thuộc vào giải pháp cho xung đột vì giàn khoan này.
Xung đột biển đảo: Trung Quốc di tản hàng ngàn người ra khỏi Việt Nam: Vào ngày chủ nhật, năm chiếc tàu thủy đã khởi hành ở thành phố cảng  Hải Khẩu, nhằm rước thêm người Trung Quốc từ Việt Nam trở về nước. Các cuộc biểu tình và biểu thị phản đối đã bị cảnh sát Việt Nam chận đứng: các nhân viên nhà nước ở Hà Nội đã tạo một vòng bảo vệ dầy đặc quanh đại sứ quán Trung Quốc.
Những món nợ đẫm máu giữa Trung Quốc và Việt NamTrung Quốc dường như đang kiên quyết xác định vị thế quyền lực mới của họ
Chạy trốn khỏi Việt Nam: Đối với Bắc Kinh, câu hỏi rút lui là không được đặt ra: “Chủ quyền của Trung Quốc đối với các lãnh thổ biên giới được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chúng tôi không thể làm sai lệch.” Trung Quốc khăng khăng rằng họ không muốn gây ra bất ổn. “Nhưng chúng tôi cũng không sợ bất ổn.”
Wu: “Trung Quốc sẽ bảo vệ quyền lợi của mình”: “…Trung Quốc đã dự tính trước với phản ứng của Việt Nam, và đã chuẩn bị tốt để bảo vệ chủ quyền của mình trong vùng biển này trước bất kỳ hình thức đe dọa nào.”
… vào ngày 11 tháng Ba 2014, các công trình xây dựng dường như đã tiếp tục tiến triển.… vào ngày 11 tháng Ba 2014, các công trình xây dựng dường như đã tiếp tục tiến triển. Hình: AFP/ DFATranh chấp biển – Trung Quốc xây đảo nhân tạo: Bây giờ, Bắc Kinh củng cố tuyên bố chủ quyền của họ bằng một cách hết sức quyết liệt, và cho xây một hòn đảo nhân tạo.
Hà Nội tập trung làm giảm căng thẳng: “vì người ta không muốn tiếp tục gây hại tới các quan hệ kinh tế quan trọng với Trung Quốc”.
Nhật Bản thành lập liên minh chống Trung Quốc: Ở hậu trường, giới lãnh đạo Việt Nam giằng co với ý định khởi kiện Trung Quốc. Nhưng việc này có thể làm giảm mạnh nhập khẩu từ Trung Quốc.
Nỗi lo của Việt Nam: lần trỗi dậy đầy đe dọa của Trung Quốc: “Leszek Buszynski, giáo sư về chính sách đối ngoại tại Đại học Quốc tế ở Nhật Bản, cho rằng điều chính là Đảng Cộng sản Việt Nam phải giải phóng mình khỏi đảng anh em Trung Quốc.”
Vấn đề Trung Quốc của Việt Nam – không chỉ áp lực từ bên ngoài: Áp lực nặng nề của láng giềng to lớn cũng thúc đẩy cuộc tranh cãi nội bộ về những cải cách cần thiết và để cho người ta nhận ra được sự hình thành phe phái trong Đảng Cộng sản.
Trung Quốc xây đảo nhân tạo thứ tư ở Trường Sa: Trung Quốc xây hòn đảo nhân tạo thứ tư ở biển Đông. Theo như trang dịch vụ thông tin quân sự “Jane’s”, các bức ảnh vệ tinh cho thấy hòn đảo cho tới nay là lớn nhất của những hòn đảo này.

2015

Việt Nam tưởng nhớ ngày chấm dứt chiến tranh với một cuộc duyệt binh lớn.Việt Nam kỷ niệm chấm dứt chiến tranh – và mua tên lửa: Vào ngày kỷ niệm chiến tranh, người ta thông báo rằng Việt Nam vẫn tiếp tục chuẩn bị về mặt quân sự cho những xung đột có thể có trong tương lai.
Trung Quốc cảnh cáo máy bay Mỹ ở Trường Sa: “Đây là Hải Quân Trung Quốc, các anh hãy cút đi!”

2016

Cuộc tranh giành quyền lực đã ngã ngũcuộc đấu đá giữa Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội Đảng 12
“Trung Quốc tăng áp lực lên các quốc gia láng giềng”: Trung Quốc có thể đang theo đuổi mục đích lâu dài, là không một đất nước Đông Nam Á nào còn có thể hoạt động quanh Trường Sa nếu như không có sự khoan dung của Trung Quốc.

Việt Nam 1967: Ai chỉ đạo cuộc chiến ở miền Bắc?

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Bất kỳ câu chuyện nào về chiến sự trong Chiến tranh Việt Nam cũng đều nói rằng Mỹ đã phải chiến đấu với một “kẻ thù khó nắm bắt”: những toán lính du kích bất ngờ tấn công rồi nhanh chóng biến mất; hay các tư lệnh tiểu đoàn nhất định không chịu đánh công khai. Tuy nhiên, câu nói sáo rỗng ấy có nhiều ý nghĩa hơn những gì hầu hết chúng ta nghĩ. Thậm chí đến tận năm 1967, quân đội, tình báo và các lãnh đạo dân sự Mỹ vẫn hoàn toàn không biết ai mới thực sự là người ra quyết định tại Hà Nội.
Hồ Chí Minh và Lê Duẩn
Hồ Chí Minh và Lê Duẩn
Ai lãnh đạo Bắc Việt Nam?
Ở một mức độ nào đó, đây là những gì chính quyền miền Bắc mong muốn – một ấn tượng rằng mọi quyết định đều là tập thể, dù vẫn có bàn tay dẫn dắt nhẹ nhàng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự nhầm lẫn của người Mỹ, dù không cố ý, nhưng cũng phản ánh thực tế là chính trị miền Bắc còn lộn xộn và chia rẽ, một trong những thực tế mà tới nay các nhà sử học mới hiểu được phần nào.
Nhờ có quá trình giải mật hồ sơ lịch sử lúc chậm lúc nhanh, các ấn phẩm hồi ký và lịch sử “không chính thức”, việc lan truyền các bức “thư ngỏ” của các cựu lãnh đạo bất mãn, cùng những nghiên cứu, phân tích cẩn thận và tỉ mỉ từ các chuyên gia Việt Nam, bây giờ chúng ta đã có thể hiểu sâu hơn về việc ai là lãnh đạo cao nhất ở Hà Nội và làm thế nào mà ông ta đạt được vị trí đó.
Trong cuộc chiến, các chuyên gia tình báo Mỹ cứ quanh quẩn trong một danh sách dài những nhân vật tình nghi. Đôi khi các báo cáo và phân tích tình báo chỉ ra rằng toàn bộ 11 thành viên của Bộ Chính trị là những người lãnh đạo thực sự của Đảng Lao động Việt Nam.
Lựa chọn rõ ràng nhất, đồng thời là cái tên luôn được báo chí mô tả là lãnh đạo miền Bắc, chính là Hồ Chí Minh, vị cha già mà chuyến đi tìm đường cứu nước cùng sự nghiệp chống thực dân lừng lẫy đã khiến ông trở thành nhân vật nổi tiếng thế giới. Một ứng viên khác là Võ Nguyên Giáp, vị tướng có công đánh tan quân Pháp mạnh hơn nhiều lần một cách ngoạn mục tại Điện Biên Phủ. Thậm chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại đàm phán Geneva năm 1954, cũng từng được nêu tên như là “bộ não” thực sự đằng sau cuộc chiến của Hà Nội.
Thực ra câu trả lời không nằm trong số những người này. Lãnh đạo thực sự là Lê Văn Nhuận, người sau này lấy tên là Lê Duẩn, một quan chức đảng không mấy nổi bật, với xuất thân khiêm tốn từ một làng quê miền Trung Việt Nam.
Sự trỗi dậy của Lê Duẩn
Gần như không nằm trong tầm ngắm của tình báo Mỹ, nhưng Lê Duẩn đã cai trị đảng bằng bàn tay sắt từ cuối những năm 1950 cho đến khi ông qua đời vào năm 1986. Từ xưa tới nay, chưa có bất kỳ Tổng Bí thư nào có thể nắm giữ quyền lực được lâu như vậy. Thế nhưng người nước ngoài lại biết rất ít về Lê Duẩn, cũng như làm thế nào mà ông đã đánh bại được quốc gia hùng mạnh nhất thế giới.
Sinh năm 1907, Lê Duẩn là một trong năm người con của một gia đình nông dân nghèo ở làng Bích La, tỉnh Quảng Trị. Ông đã chứng kiến sự chuyển đổi của đất nước mình dưới ách áp bức và bóc lột của thực dân Pháp. Ban đầu, ông nối nghiệp cha trở thành một nhân viên đường sắt. Nhưng sau đó, bị cuốn vào phong trào chống thực dân của nhiều thanh niên cùng thế hệ, chàng trai Lê Duẩn 21 tuổi đã chuyển đến sống tại Hà Nội cùng với cô dâu mới là Lê Thị Sương. Tại đây, ngay tại trung tâm quyền lực của người Pháp, Lê Duẩn đã gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và giành được một ghế trong Ủy ban Giáo dục và Đào tạo nhờ công việc ngành đường sắt của mình.
Nhưng phải đến lúc vào nhà tù thuộc địa thì ông Duẩn mới giành được uy tín cách mạng thực sự của mình. Các tù nhân thường xuyên bị cai ngục người Pháp đánh đập, nhưng họ đã trở nên cấp tiến hơn nhờ được củng cố ý thức hệ và cùng nhau tái xây dựng mạng lưới đảng khi bị nhốt chung trong những buồng giam chật chội. Lê Duẩn đã bị giam trong các nhà tù thực dân không chỉ một, mà là hai lần (năm 1931 và năm 1945.) Khi ông được thả sau lần bị giam thứ hai vào năm 1945, Việt Nam đã thay đổi rất nhiều. Thế chiến II đã kết thúc, và nhìn từ bề ngoài thì người Pháp cũng như người Nhật đều đã bại trận. Quan trọng nhất, Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo giàu sức lôi cuốn, đã tuyên bố nền độc lập của Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội vào ngày 02/09/1945.
Tuy nhiên, những ngày sau độc lập đối với Lê Duẩn và Việt Nam là quãng thời gian thử thách. Người Pháp không có ý định để cho đế chế của họ tan rã mà không chiến đấu, và Lê Duẩn hiểu rằng việc khẳng định bản thân trong chính phủ mới là một thách thức. Hy vọng được trở thành bộ trưởng quốc phòng, nhưng ông đã thua Tướng Giáp, người thân thiết hơn với Hồ Chí Minh. Thất bại năm 1945 này có thể là một nguyên nhân khiến Lê Duẩn luôn khinh thường Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh.
Thay vì ở lại Hà Nội làm một ủy viên Bộ Chính trị và giữ một chức bộ trưởng thoải mái nào đó, Lê Duẩn lại phụ trách hoạt động của Đảng ở một nơi có thể được gọi là “miền Nam hoang dã” (Wild South.) Ông đến Đồng bằng sông Cửu Long, nơi mà quyền lực của đảng còn rất yếu so với ở miền Bắc. Không chỉ có người Pháp mong muốn chiếm lại phần phía nam thuộc địa cũ của họ, mà các lực lượng bán quân sự của Phật giáo và các nhóm giang hồ người Hoa ở Chợ Lớn cũng đang kiểm soát tất cả các phần quan trọng của khu vực.
Mối quan hệ với Lê Đức Thọ
Lê Duẩn sẽ không đơn độc trong nhiệm vụ giúp Đảng kiểm soát miền Nam. Năm 1948, Lê Đức Thọ xuất hiện và trở thành ‘phó tướng’ của ông. Là một nhà cách mạng đáng nể từ miền Bắc, người đã thăng tiến trong Đảng qua nhiều năm gian khổ ở nhà tù thực dân, Lê Đức Thọ đã hình thành một mối quan hệ mạnh mẽ với Lê Duẩn, cùng tiêu diệt các đối thủ chính trị và kẻ thù.
Hoạt động của Lê Duẩn ở miền Nam cũng như mối liên hệ với Lê Đức Thọ là những yếu tố quan trọng giúp ông vươn lên trở thành nhà lãnh đạo hàng đầu và ảnh hưởng tới chính sách của ông trên cương vị đó. Năm 1954, đất nước bị chia cắt tại vĩ tuyến 17, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cũng bị chia tách. Ông Thọ tập kết ra miền Bắc, còn ông Duẩn bí mật trở lại Đồng bằng sông Cửu Long, nơi ông đã chứng kiến Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm tàn sát quân kháng chiến, và lời hứa hẹn về một đất nước thống nhất cứ ngày một xa vời.
Trở về Hà Nội, Lê Duẩn nhận thấy Đảng đang bị bao vây bởi những khó khăn trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Khi có thay đổi lớn trong bộ máy lãnh đạo Đảng cộng sản, thời gian của Lê Duẩn ở miền Nam đã được đền đáp: Ông là ủy viên Bộ Chính trị duy nhất không có liên quan đến chính sách thất bại của Đảng ở miền Bắc (chỉ cải cách ruộng đất – NBT). Sau khi Tổng Bí thư đương nhiệm Trường Chinh từ chức, Lê Duẩn đã lên thay và tiếp quản việc điều hành Đảng Lao động Việt Nam.
Được Lê Đức Thọ ủng hộ, Lê Duẩn đã quyết tâm xây dựng một nhà nước cảnh sát mạnh mẽ ở miền Bắc để chuẩn bị cho chiến tranh toàn diện ở miền Nam. Các lãnh đạo chính thức khác, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, muốn kết hợp chính trị và quân sự, nhưng Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cho rằng thống nhất đất nước dưới sự bảo trợ của đảng chỉ có thể được thực hiện bằng cách leo thang quân sự bởi lực lượng nổi dậy ở miền Nam.
Chiến lược của Lê Duẩn
Họ mở màn chiến dịch vào cuối năm 1963, sau khi cả Ngô Đình Diệm và John F. Kennedy đều bị ám sát. Nhận thấy cơ hội giành chiến thắng nhanh chóng khi miền Nam đang thiếu lãnh đạo, Lê Duẩn đã thuyết phục các quan chức Đảng sử dụng toàn lực để giành chiến thắng bằng một kế hoạch táo bạo mà ông gọi là “Tổng tiến công và nổi dậy.”
Đó thực là một canh bạc. Năm 1964, khi Lê Duẩn bắt đầu phát triển kế hoạch của mình, lực lượng của phe cộng sản chưa đủ mạnh để tiêu diệt quân đội miền Nam và do đó phải kích động người dân đứng lên – tiến công và nổi dậy – dù cho khả năng lãnh đạo dân sự – quân sự ở miền Nam lúc đó tương đối yếu. Nhưng ông Duẩn đã kiên nhẫn. Gửi binh lính và trang thiết bị từ miền Bắc qua các tuyến đường biển và đường bộ rất mất thời gian, nhưng cuối cùng Lê Duẩn vẫn làm thay đổi được tình trạng chiến sự phía dưới vĩ tuyến 17, từ chiến tranh du kích tiến hành bởi lực lượng nổi dậy miền Nam thành một cuộc nội chiến toàn diện có sự tham gia của quân đội chính quy miền Bắc.
Tính đến mùa thu năm 1964, vị Tổng Bí thư đã hoàn tất “Kế hoạch X”, giai đoạn cuối cùng trong ván cược giành chiến thắng của ông – bao gồm một cuộc tấn công đầy tham vọng nhắm vào Sài Gòn. Cho các đơn vị lính đặc công trang bị vũ khí hạng nặng đến trấn giữ các mục tiêu chủ chốt, còn quân cách mạng thì đóng rải rác khắp Sài Gòn sẽ kích động nhân dân đứng lên giành lấy chính quyền khỏi tay “chế độ bù nhìn” đang sụp đổ. Kế hoạch đã được tính toán rất kỹ càng, năm tiểu đoàn sẽ đóng tại năm hướng trong khu vực ngoại ô thành phố nhằm cách ly vùng trung tâm thành phố khỏi lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa còn lại cho đến khi lực lượng chủ chốt có thể tiến đến.
Sự xuất hiện của quân đội Mỹ vào năm 1965 đã làm thay đổi việc đánh nhanh thắng nhanh với “Kế hoạch X”, nhưng vị Tổng Bí thư vẫn kiên trì. Luôn tin rằng nếu quay trở lại lối đánh du kích nặng về phòng thủ sẽ làm suy yếu tinh thần của lực lượng cộng sản, Lê Duẩn ra lệnh duy trì thế chủ động và khởi động các trận đánh lớn. Tuy nhiên, chiến lược tấn công này gặp phải sự chống trả sâu rộng của Mỹ ở vùng nông thôn miền Nam trong năm 1966 và đầu năm 1967, khiến sự điều khiển chiến tranh của Lê Duẩn đã bị chỉ trích nặng nề tại Hà Nội.
Quyền kiểm soát của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ ở miền Bắc cũng như nỗ lực chiến tranh bất ngờ gặp phải nguy hiểm. Trước khi cả hai có thể tiến  hành một phiên bản nâng cấp của “Kế hoạch X” – theo đó sẽ tấn công không chỉ Sài Gòn mà còn tất cả các thành phố và thị xã trên khắp miền Nam Việt Nam – họ phải đập tan những lời chỉ trích và lấy lại quyền kiểm soát ở Hà Nội. Năm 1967, trong khi người Mỹ ném bom, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cũng bắt đầu một cuộc chiến chính trị khốc liệt ở Hà Nội, điều cuối cùng trở thành một cuộc thanh trừng lớn nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – và tạo tiền đề cho những gì họ dự định sẽ là chiến dịch đỉnh điểm của Chiến tranh Việt Nam.
Lien-Hang Nguyen là Giáo sư Lịch sử tại Đại học Columbia và là tác giả của cuốn sách sắp được phát hành “Tet 1968: The Battles That Changed the Vietnam War and the Global Cold War.” 
Các tiêu đề phụ trong bài do Nghiencuuquocte.org tự đặt. 
Nguồn: Lien-Hang Nguyen, “Who Called the Shots in Hanoi?”, The New York Times, 14/02/2017.

Đọc những bài viết khác về Chiến Tranh Việt Nam do Phan Ba dịch ở trang: Chiến tranh Việt Nam

Thứ Năm, 20 tháng 4, 2017

Hồi Ký Dang Dở...

Hồi Ký Dang Dở của Đại Tá Dương hiếu Nghĩa


Những gì đã xẩy ra cho dân chúng miền Nam sau ngày 30-4-1975 ... Khó tin ? Nhưng sự thật vẫn có nhiều người kiểm chứng .

Hồi Ký Dang Dở...

Sau ngày quốc hận 30/4/1975, có một số anh chị em Quân Dân Cán Chánh và gia đình, tuy may mắn được di tản ra nước ngoài, nhưng không có dịp "may" ở lại để chứng kiến tận mắt những hành động ngu xuẩn, tàn ác đến man rợ của của những người cộng sản Việt Nam từ miền Bắc vào, tự xưng là để "giải phóng cho đồng bào ruột thịt đói rách ở Miền Nam "; của những người cùng uống nước sông Cửu Long nhưng tự hào được cộng sản Bắc Việt cho "tạm mang dép râu, đội nón cối" (mà không biết!). Ở lại để chứng kiến những con "cọp 30", những người Miền Nam hống hách được cộng sản cho mang băng đỏ trên tay áo, thuộc hệ thống nằm vùng, và nhất thời làm tay sai cho cộng sản!!!
Có thể nói đây là một trang sử bi thảm nhất của người dân Miền Nam Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Những đồng bào nào được may mắn rời khỏi Việt Nam trước ngày 30 tháng 4/1975, và những em cháu thuộc những gia đình nầy (tính đến nay cũng từ 21 tuổi trở lên, kể cả những con em của tất cả người Việt Nam được chào đời trên các nước phương Tây tự do) không bao giờ hình dung được cái ngày lịch sử đen tối nầy, vì cộng sản Việt Nam đã cố tình sửa lịch sử ngay từ đầu chiến dịch tiến chiếm Miền Nam để giành lấy cho đảng cái chánh nghĩa "giải phóng dân tộc". 
Cho đến giờ nầy dù chúng tôi có nói lên những sự việc thật sự đã xảy ra từ trước và sau ngày 30/4/75, thì bà con nào đã rời khỏi đất nước trước ngày lịch sử đó (nhất là thế hệ sau 75) cũng không ai muốn tin và chịu tin đó là sự thật. Một phần vì có người còn cho chúng tôi thuộc thành phần chống cộng, thù ghét cộng sản nên chỉ nhằm tuyên truyền chống cộng; một phần vì bà con không ai ngờ là "cùng là người Việt Nam với nhau ai lại có tâm địa vô nhân đạo, phi đạo đức và phi dân tộc đến như thế được. 
Do đó những gì chúng tôi kể lại đây không hẳn là những trang "hồi ký" của riêng cá nhân mình mà thật sự là những gì đã xảy ra tại Saigon và những vùng phụ cận trong những ngày trước và sau 30/4/1975, kể lại trung thực những sự việc mà chính bản thân chúng tôi vừa là một nạn nhân, vừa là nhân chứng, những sự việc mà chính mắt chúng tôi đã thấy, chính tai chúng tôi đã nghe..., để tạm gọi là "luận cổ" (nói về chuyện xưa), để những anh em bạn già sống tha phương cầu thực chúng ta có đầy đủ yếu tố mà trao đổi nhận định, và để các thế hệ con cháu chúng mình có thêm sự hiểu biết chính xác hơn về bản chất, về con người, về đường lối chủ trương và chánh sách của người cộng sản Việt Nam,mà "suy kim" (suy biết được cái hiện tại). tức là để thấy được việc làm của người cộng sản trong hiện tại và trong tương lai. 
Người dân Miền Nam chúng ta gọi ngày 30/4 là "ngày quốc hận" vì Nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng ta bị xóa tên khỏi bản đồ của Thế Giới nói chung, và củaThế Giới Tự Do nói riêng, từ ngày 30/4/1975. Bởi vì cộng sản Bắc Việt đã xé bỏ Hiệp Định Ba Lê 1973 mà chúng đã vừa long trọng ký kết, vừa xua quân công khai tiến chiếm Miền Nam Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngày mất nước, khách quan có, chủ quan có, xa, gần đều có. Chúng tôi không muốn bàn thêm ở đây, vì trong gần 30 năm qua đã có rất nhiều sách báo, hồi ký, Việt có, Mỹ có, Pháp có, tất cả đều có phân tách rất rõ ràng rồi. Chúng tôi chỉ muốn ghi lại một vài mẩu chuyện thật, vui buồn lẫn lộn của bản thân, có liên quan đến ngày quốc hận nầy, để gọi là đóng góp thêm một ít tài liệu vào trang lịch sử đau thương của Đất Nước. 
..................... 
Ngày 1 tháng 2 năm 1973 
Tôi và một nhóm anh em sĩ quan cấp tướng tá thuộc Khóa 5 Cao Đẳng Quốc Phòng được thuyên chuyển về Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương vừa được thành lập theo điều khoản của Hiệp Định Ngừng Bắn Ba Lê, được ký kết giữa 4 Bên ngày 27 tháng giêng 1973 tại Ba Lê. 
Từ hơn một tháng qua, anh em học viên Cao Đẳng Quốc Phòng chúng tôi được lệnh chia nhau từng toán, sửa lại từng điều khoản một, trong bản thảo của cái gọi là Hiệp Định Ngừng Bắn sắp được 4 Bên ký kết ở Ba Lê (Pháp). Vì qua nghiên cứu, Chánh Phủ không thấy có một câu nào, một đoạn văn nào trong bất cứ điều khoản nào mà không có lợi hoàn toàn cho phía Bắc Việt, ngược lại chỉ có hại hoàn toàn cho Miền Nam Việt Nam mà thôi. Cũng qua nghiên cứu anh em học viên chúng tôi đều thấy là: toàn bộ bản văn tiếng Việt của Hiệp Định nầy rõ ràng là tác phẩm của cộng sản Bắc Việt được Lê đức Thọ trao cho Kissinger dịch ra tiếng Anh, một bản dịch "thật sát nghĩa" từ ý lẫn lời văn của tác giả Miền Bắc! 
Đúng vào ngày 27 tháng giêng /1973 sau khi ký kết Hiệp Định cả Chánh Phủ và chúng tôi đều hết sức thất vọng vì không thấy được một dấu vết sửa chữa nhỏ nào cuối cùng được thực hiện trước khi các Bên ký kết. 
Tôi muốn ghi lại chi tiết nầy để chúng ta cùng thấy được là nước VNCH của chúng ta đã bị Đồng Minh của mình phản bội, bán đứng cho cộng sản Bắc Việt ngay từ khi họ dàn xếp được Hội Nghị Paris (có cả MTGPMN là một trong 4 Bên ở Bàn Hội Nghị) một ít lâu sau Tết Mậu Thân 1968, để rút chân ra khỏi cuộc chiến với một danh từ thật kêu là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh". 
.................... 
Ngày 28 tháng 4/1975: 8 giờ sáng, 
Đại tá Nguyễn Hồng Đài từ tư dinh của Đại tướng Dương văn Minh điện thoại trực tiếp cho tôi nhờ đưa một phái đoàn đại diện cho Tổng Thống đến gặp phái đoàn cộng sản Bắc Việt và Việt Cộng (MTGPMN) ở trại Davis. Phái đoàn gồm có Luật sư Nguyễn Văn Huyền, Phó Tổng Thống, Luật sư Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, quyền Tham mưu trưỏng QLVNCH từ ngày 28 tháng 4/75.(một bộ hạ thân tín của tướng Dương Văn Minh ở Bộ Tư Lệnh Hành Quân từ 1955, sau nầy mới được biết là đã làm tay sai cho CS từ đầu thập niên 70 và từ đó đã trở thành một Việt Cộng nằm vùng rất đắc lực của Bắc Việt. ) Khối Ngoại Vụ chúng tôi cho biết là CSBV và Việt Cộng không tiếp phái đoàn, nhưng đại tá Đài cho tôi biết là "ông già nhấn mạnh là tôi nên cố gắng, vì cuộc gặp mặt nầy rất quan trọng". Tôi đành phải đích thân gọi vào trại Davis, gặp đại tá Sĩ để điều đình và cuối cùng phái đoàn của Tổng Thống Minh "được đồng ý cho vào trại Davis gọi là để viếng thăm hai phái đoàn cộng sản Bắc Việt và CPLTMN" (nguyên văn lời đại tá Sĩ trực tiếp nói với tôi qua điện thoại). 
(Xin mở một dấu ngoặc ở đây để nói rõ về anh đại tá Sĩ nầy. Tôi biết đưọc anh Nguyễn Văn Sĩ trước học ở trường Collège Cần Thơ, có biệt danh là "Sĩ Kiến, Theo bản trận liệt mà chúng ta biết được thì anh Sĩ là Tư Lệnh sư đoàn 7 bộ binh của MTGPMN. Chúng tôi hai đứa gặp nhau và nhìn lại nhau ở cương vị đối nghịch nhau tại bàn hội nghị Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên ở Tân sơn Nhất. Nhờ đó mỗi khi gặp bế tắc trong bất cứ vấn đề gì ở bàn Hội Nghị, nhất là về trao trả tù binh thì anh Sĩ lại được tướng Trần văn Trà cho làm đại diện cho Cộng sản để "mật đàm với đại tá Nghĩa" nhằm tìm ra giải pháp. Đến năm 1989, sau khi ra khỏi trại tù cải tạo, nhân một dịp đi xuống Cần Thơ, tôi lại được gặp anh Sĩ vài lần ở ngay sân quần vợt Cần Thơ, và đươc biết là anh đã rời khỏi quân ngũ từ 1977, vì lý do đảng tịch, và là người Miền Nam nên anh phải "đi một xuồng" với tướng Trà). 
Phái đoàn của Luật sư Huyền vào trại Davis lúc 9 giở 30 và rời khỏi trại hồi 10 giờ hơn. Tôi tò mò muốn biết kết quả của cuộc gặp gỡ nầy, nhưng đại tá Đài không cho biết vì anh không được biết hay vì anh không muốn tiết lộ, hay vì một lý do nào khác? Qua đại tá Sĩ thì tôi cũng không được biết gì hơn ngoài câu "như đã thỏa thuận với anh hồi nãy", tức phải được hiểu ngầm là "chỉ có viếng thăm xã giao mà không có bàn đến các vấn đề gì khác" 
Tò mò hơn, qua điện thoại với trung tá chánh văn phòngTrương Minh Đẩu, tôi được biết là Ông Dương Văn Minh đã "mò" lên tận vùng Long Khánh (không rõ chính xác ở đâu) với liên lạc viên Dương Văn Nhật để gặp Lê đức Thọ từ mấy ngày trước, qua đường dây liên lạc đặc biệt nào đó mà anh không biết. 
(Dương Văn Nhật là em ruột của tướng Minh, tập kết ra Bắc năm 1954, về Nam với quân hàm trung tá của MTGPMN, vào ở ngay Dinh Hoa Lan tại đường Trần quý Cáp với gia đình tướng Minh từ lâu, dĩ nhiên trong nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của cộng sản.) 
Vẫn theo lời anh Đẩu thì sau khi phái đoàn của ông Nguyễn Văn Huyền về đến Dinh Hoa Lan, ông Minh họp Hội đồng Chánh Phủ và cho biết là MTGPMN đã bác bỏ đề nghị của ông nhằm tìm một giải pháp chánh trị cho Miền Nam Việt Nam. Vì vậy ông đã quyết định là "chỉ còn một cách duy nhất là "đầu hàng vô điều kiện" mà thôi. 
4 giờ chiều : 
Tôi muốn nhắc lại ở đây một đoạn đàm thoại ngắn giữa tôi và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ qua điện thoại mà ông gọi tôi lúc 4 giờ chiều ngày hôm nay từ tư dinh của ông ngay trong căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất. 
Anh còn ở đây chưa đi đâu sao anh Nghĩa? 
Thưa thiếu tướng chưa, vì tôi còn trách nhiệm phải lo cho gia đình các anh em quân nhân của Ban Liên Hợp đi cho xong rồi tôi mới đi. Dự trù chiều mai 29 thưa thiếu tướng. 
Gia đình anh đi chưa? 
Thưa thiếu tướng đã đi xong đêm 26 vừa rồi. Còn thiếu tướng sao giờ nầy còn ở đây? 
Tôi và gia đình đang sắp sửa đi đây, Anh Tiên (chuẩn tướng Phan Phụng Tiên) cho phi cơ đưa chúng tôi đi nhưng anh Tiên thì còn ở lại, đi sau. 
Nói đến đây ông hơi ngập ngừng chừng một phút rồi mới nói tiếp: 
Phải đi chớ ở lại đây sao được anh Nghĩa? Tôi vừa mới từ nhà ông Minh về đây. Theo lời ông Minh nói với tôi lúc nãy thì chúng ta coi như đã, mất hết rồi không còn quyền gì nữa hết, anh Nghĩa, kể cả quyền làm chánh trị!..., Ông Minh đã nói thẳng cho tôi như thế. Lúc này thì mình còn ở lại đây để làm gì nữa anh Nghĩa? 
Nói tới đây ông sụt sùi và tôi nghe có tiếng khóc nghẹn ngào của ông qua điện thoại. Tôi nghĩ có lẽ ông vừa bực tức ông Minh vừa bực tức vì một đời ngang dọc của ông coi như bị trói cả hai tay trong lãnh vực quân sự lẫn chánh trị.. . . và xúc động thấy mình sắp phải rời khỏi quê hương. 
Không thấy tôi nói gì nữa ông nói tiếp: 
Vậy tôi đi hôm nay nghe, anh cũng nên đi luôn đi, coi chừng đi không kịp nữa đó. Anh Tiên chắc cũng đi sau tôi. Còn sắp xếp cho anh em Không quân nữa, chắc phải đưa tất cả phi cơ đi cho hết. Thôi anh ở lại đi sau nghe, chúc anh may mắn 
Xin chúc thiếu tướng và gia đình thượng lộ bình an. 
Cám ơn anh. 
Một lúc sau đó anh Phan Nhật Nam về gặp tôi ở Ban Liên Hợp xác nhận là gia đình ông Kỳ vừa bay ra Hạm đội 7 bằng trực thăng và anh cũng nhân đó hỏi tôi đã nói gì với ông Kỳ làm cho ông khóc vậy? Tôi đáp : 
Có lẽ ông cảm động trước khi rời khòi quê hương, và bực tức vì lời nói của ông Minh Dương chớ tôi thì không có nói gì cả. ? 
Từ sáng sớm hôm nay, căn cứ Không Quân Biên Hòa được lệnh dời hết về Tân Sơn Nhất tất cả phi cơ các loại, từ phi cơ chiến đấu, vận tải đến trực thăng các loại, tất cả nhân viên phi hành và không phi hành đều lục tục kéo nhau về hết ở đây cho đến gần 7 giờ chiều mà vẫn chưa hết. Người nào có gia đình hay thân nhân ờ vùng Sài Gòn Chợ Lớn Gia định thì được phép về nhà nhưng toàn bộ vũ khí cá nhân đều phải gởi lại hết ờ Tân Sơn Nhất. Như thế là cả Vùng 3 và Biệt Khu Thủ Đô chỉ còn có mỗi căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất mà thôi. 
6 giờ chiều 
Chúng tôi vào D.A.O. đưa một toán 200 người thuộc gia đình sĩ quan và hạ sĩ quan /Ban Liên Hợp Quân sự ra phi cơ trong chương trình di tản (toán thứ 8). 
Chờ cho phi cơ cất cánh xong (9 giờ) chúng tôi mới trở về lại Ban Liên Hợp, vẫn phải trực như mọi người và mọi đơn vị. 
10 giờ đêm: 
Từ 10 giờ đêm, Bắc Việt bắt đầu pháo kích và bắn hỏa tiễn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay ban chiều vào khoảng 7 giờ, họ đã cho một loạt tác xạ điều chỉnh vào khu vực sân bay rồi : tất cả 5,6 quả và 2 hỏa tiễn đều rơi vào khu dân cư ở xóm Trương minh Giảng và Lăng Cha Cà ở bên ngoài khu vực sân bay. Nhưng từ 10 giờ đêm trở đi thì tất cả đạn pháo nặng nhẹ từ 130 ly đến bích kích pháo 82 ly và hỏa tiễn đều rơi vào các đường bay, các ụ chứa phi cơ và các kho bom đạn cũng như Bộ chỉ huy các Không đoàn, Riêng Ban Liên Hợp chúng tôi cũng được hưởng mấy trái hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly làm cho 3 dãy nhà bị cháy và gây tử thương vài binh sĩ, làm bị thương một số khác 
Chúng tôi và đại tá Ba ra ngoài đường thoát nước lộ thiên bằng xi măng trước văn phòng nằm tránh đạn. Chiếc xe của tôi đậu cách chỗ nằm của chúng tôi chừng 15 thước bị một mảnh đạn và bốc cháy mà chúng tôi không dám chữa. Từ đó, Bắc Việt pháo kích từng chập từng chập cách nhau chừng 15 phút, đủ loại, không ngừng cho đến sáng hôm sau. Hầu như không có phi cơ quan sát hay tiềm kích nào cất cánh lên được suốt đêm nay, và cũng không nghe thấy có tiếng súng phản pháo nào. 
Riêng trại Davis của hai phái đoàn cộng sản, cách văn phòng chúng tôi chừng 100 thước, thì không bị một quả đạn nào, tất nhiên đây là vị trí của tiền sát viên Bắc Việt giúp điều chỉnh tác xạ suốt đêm nay thật chính xác, vì trong 2 năm ở đây họ đã nắm rõ từng vị trí trong sân bay nầy rồi! 
Ngày 29 tháng 4: 
9 giờ sáng: 
Chúng tôi qua Phòng họp của Ban Liên Hợp Quân sự không bị trúng đạn pháo, từ đó mới xử dụng được đường dây điện thoại để báo cáo đi các nơi về thiệt hại vật chất và nhân mạng đêm qua.. 
Đến 9 giờ sáng thì có một chiếc trực thăng Mỹ (sơn toàn trắng) đáp xuống ngay trước phòng họp để bốc chúng tôi đi. Nhưng không hiểu sao tôi lại không chịu đi. Và tôi cho trực thăng nầy di tản 6 sĩ quan của toán thanh tra ngừng bắn, người Nam Dương. 
Tôi vẫn còn nhớ ơn đại tá Abbas, Phó trưởng đoàn và trưởng phòng Tình Báo của phái đoàn Nam Dương nầy đã 2 lần đích thân kín đáo trao cho tôi bản đồ trận liệt ghi rõ tiến trình xâm nhập vào Miền Nam của đầy đủ 16 sư đoàn chánh quy bộ binh Bắc Việt và các sư đoàn thiết giáp và sư đoàn pháo binh nặng, vừa được cập nhật vào đầu tháng giêng năm 1975. 
- lần đầu ngày 3 tháng giêng 1975. (tôi đích thân mang tay lên trình cho Tổng Thống Thiệu ngày 4 tháng 1, với lời giải thích miệng rất đầy đủ theo đúng tin tức tình báo mà phái đoàn Nam Dương đã sưu tầm rất chính xác và rất đầy đù, (nhưng sau đó tôi đã không thi hành lệnh của Tổng Thống, chỉ vì ông bảo tôi phải mang sang cho Trung tướng Đặng văn Quang) 
- lần thứ hai ngày 1 tháng 3, với chú thích về mục tiêu tiến chiếm dự trù của cộng sản là Ban Mê Thuột. Đây là tin tức hết sức chính xác về mục tiêu và thời điểm tấn công của Bắc Việt: tiến chiếm Ban Mê Thuột vào tháng 3/75. Tôi cũng đã mang tay bản đồ và tin tức nầy đến trình cho Tổng Thống Thiệu, nhưng lần nầy thì ông bảo tôi mang sang cho Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng.. Tôi đã y lệnh thi hành. Dĩ nhiên tôi không biết với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân đội và Tổng Tham Mưu Trưởng hai ông đã có quyết định kịp thời về một "đường lối hành động" nào hay không. . 
10 giờ sáng: 
Tôi liên lạc với Đại tá Nguyệt, Hải Quân, để đưa một số sĩ quan và quân nhân các cấp, khoảng 30 người xuống tàu, di tản theo Hải Quân. Trong số nầy có các Đại tá Chuân, đại tá Đóa,v.v. thuộc Khối Nghị Hội / Ban Liên Hợp. Số anh em sĩ quan và nhân viên còn lại của Ban Liên Hợp, chúng tôi dự trù cũng sẽ xuống luôn bến Bạch Đằng khoảng 12 giờ trưa sau khi thu xếp việc tản thương xong cho một số anh em quân nhân và nữ trợ tá xã hội tử thương và bị thương đêm qua. 
11 giờ 30 sáng: 
Chúng tôi nghe thấy có tiếng súng liên thanh từ dưới đất bắn lên các phi cơ đang cố gắng cất cánh khỏi phi trường. Anh em cho biết là chiếc xe jeep mui trần có gắn liên thanh 12 ly 7 của đại úy Quân Cảnh / Phi trường đang nằm ngay giữa các phi đạo bắn lên bất cứ loại phi cơ và trực thăng nào muốn cất cánh rời khòi phi trường. (sau ngày 30/4, đích thân tôi gặp đại úy Quân Cảnh nầy, mang súng lục đang đứng gác ngay tòa nhà Quốc Hội ở đường Tự Do. Thì ra đây là một tên cộng sản nằm vùng đã nhận lệnh của cộng sản từ trại Davis trong công tác ngăn chận không cho phi cơ cất cánh từ khuya ngày 29 tháng 4.) 
Chúng tôi lên xe đi xuống Hải Quân để kịp lên tàu với đại tá Nguyệt. Nhưng lúc vừa đi ngang qua Bộ Tổng Tham Mưu (đúng 12 giờ trưa) thì không biết tại sao thình lình tôi lái xe Jeep của tôi rẽ trái đi vào cổng Tổng Tham Mưu. Hai xe jeep và 2 xe 4/4 trong đoàn xe của tôi dĩ nhiên phải vào luôn cổng theo xe của tôi. 
Đến ngay Bộ Chỉ Huy Pháo Binh, chúng tôi ngừng xe lại và tôi vào ngay Hội trường của Bộ Chỉ Huy nầy tìm chỗ nằm xuống đánh một giấc ngon lành không còn biết ất giáp trời trăng gì nữa, có lẽ vì quá mệt mỏi. Tất cả anh em sĩ quan theo tôi từ Tân Sơn Nhất (trong số nầy có đại tá Nguyễn ngọc Nhận, đại tá Lộc, pháo binh thuộc Ban Liên Hợp quân sự Cần Thơ, trung tá Chữ Nam Anh, trung tá Hoàng chánh văn phòng v.v.) đều theo tôi vào hết trong hội trường vắng trống nầy. 
Đến 4 giờ chiều, thình lình tôi thức dậy và đinh ninh mình đang ngủ dưới tàu của Hải Quân nên lên tiếng hỏi: 
Tàu của chúng ta đã chạy đến đâu rồi? đã ra khòi sông Lòng Tão chưa?
Chạy đến Hội trường của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh trong Tổng Tham Mưu rồi! Trung tá Hoàng vừa cười mai mỉa vừa trả lời. 
Tôi bàng hoàng đứng ngay dậy quan sát thì rõ ràng thấy mình đang ở giữa Bộ Tổng Tham Mưu. Bèn ra lệnh: 
Anh em lên xe ngay đi để xuống Bến Bạch Đằng chắc còn kịp vì đại tá Nguyệt chắc chắn còn đợi tôi. 
Không kịp nữa rồi ông ơi, Bộ Tổng Tham Mưu đã khóa cổng và có lệnh không cho ai ra vô gì nữa hết, chúng tôi đã thử mấy lần muốn ra rồi mà không được. 
Vậy là chết rồi! anh thử liên lạc với ông Nguyệt thử coi? ở số nầy nè! 
Trung tá Hoàng cố gọi chừng 15 phút mà không nghe ai trả lời.. . . 
Thế là số mạng bắt ta phải ở lại đây rồi! (tôi chán nản nghĩ thầm như vậy khi sực nhớ lại không biết vì lý do gì mà mình tự nhiên lại rẽ vào cổng Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa nay thay vì cứ phải chạy thẳng xuống Bến Bạch Đằng để xuống tàu. Về sau nầy tôi mới được biết là đại tá Nguyệt chỉ vì chờ tôi không chịu nhổ neo tách bến nên phải bị anh em binh sĩ Hải Quân khiêng xuống tàu và rời bến lúc 2 giờ trưa ) 
7 giờ chiều 
Trung tướng Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham mưu trưởng, cho người xuống gọi cá nhân tôi và đại tá Nhận lên văn phòng của ông để nhận việc. Lúc đó tôi mới biết được là ở Bộ Tổng Tham Mưu hiện giờ không có Tham mưu Trưởng, không còn một số trưởng phòng quan trọng nào nữa như P1, P2, P3 và P4. Tất cả đều đã tìm phương tiện di tản hết rồi, chỉ còn sĩ quan xử lý thường vụ mà thôi. Không cần suy nghĩ tôi cũng đã thấy được tình hình chung như thế nào rồi. 
Đại tá Nhận được trung tướng Vĩnh Lộc ép nhận chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vẫn không chịu nhận bất cứ một nhiệm vụ nào, ít nhất trong hiện tại, vì đã dự định nội nhật ngày mai là phải rời khòi Bộ Tổng Tham Mưu để tìm phương tiện di tản. 
8 giờ 30 tối: 
Các trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ồ ạt đáp xuống D.A. O. (Phòng Tùy viên Quân Lực Mỹ) ở ngay phía sau lưng tòa nhà chánh của Bộ Tổng Tham Mưu để bốc người Mỹ theo đúng tiến trình hành quân di tản của Hoa Kỳ. Không có một tiếng súng nhỏ lớn hay hỏa tiễn phòng không nào của Bắc Việt từ dưới đất bắn lên, điều nầy cho thấy rõ là giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã có một mật ước nào đó rồi cho thời gian và lộ trình di tản của Hoa Kỳ. 
Có tiếng loa kêu gọi từ các trực thăng lúc họ bay ngang qua không phận Bộ Tổng Tham Mưu: Ai muốn được di tản thì cứ qua bãi đáp trực thăng bên D.A.O. ngay phía sau Bộ TTM. Có một số sĩ quan và nhân viên của Ban Liên Hợp (đang ở đây với tôi) đã nghe rõ tiếng loa kêu gọi từ trực thăng và đã vượt rào kẽm gai của Bộ Tổng Tham Mưu đến bãi bốc trực thăng bên D.A.O. (khoản 40 thước đường) trong số đó có Đại tá Lộc, trung tá Hoàng và một số sĩ quan cấp úy khác. Riêng tôi thì không thích "chui rào" như họ, (có lẽ vì tự ái cá nhân hay vì số mạng không biết ) 
Ngày 30 tháng 4: 
6 giờ sáng: 
Do đó, sáng ra kiểm điểm lại thì chỉ còn có tôi với trung tá Chử Nam Anh và một số chừng 10 binh sĩ mà thôi. Những người khác thì đã được trực thăng Mỹ di tản đêm qua rồi. Cùng tôi lên xe sẵn sàng ra cổng Bộ Tổng Tham Mưu. 
7 giờ sáng: 
Nhân lúc xe của trung tướng Vĩnh Lộc và đại tá Nhận ra cổng, chúng tôi tháp tùng theo xe nầy luôn, vì nếu không thì sẽ bị chận lại không ra khỏi đây được nữa theo tiêu lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu. 
Ra khỏi Bộ Tổng Tham Mưu là chúng tôi chia tay nhau, tạm gọi là "đường ai nấy đi" vì tới giờ phút nầy chúng tôi hình như đã linh cảm được số phận của Miền Nam Việt Nam sẽ ra sao rồi! 
Tôi lái xe về nhà người em họ ở Cư xá Đô Thành (Bàn Cờ) dự trù sẽ thay quần áo và nghỉ ngơi trước khi tìm được phương tiện di tản. Tình hình quân sự và chánh trị thì đã quá rõ ràng rồi, bây gờ chỉ còn xem con đường nào thuận tiện nhứt để thoát khỏi đây thôi. Phương tiện nào đây? Tàu hay phi cơ? Bằng tàu thì hoặc phải xuống Bến Bạch Đằng và Nhà Bè, hoặc phải ra tận Vũng Tàu hay Gò Công? Bằng phi cơ thì chỉ có ra tòa đại sứ Mỹ.. Vậy ta phải đi một vòng xem sao rồi mới quuyết định được. Đang ngồi suy tính một mình thì thằng em họ kêu cho hay là có lệnh mới rồi.. Lệnh của Tổng Thống và của Tổng Tham Mưu trưởng.. 
11 giờ trưa 
Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố Miền Nam Việt Nam "đơn phương ngừng bắn vô điều kiện", một cách chơi chữ để nói lên một sự "đầu hàng Cộng sản Bắc Việt không có điều kiện (nhưng đó mới thực sự là điều kiện của Bắc Việt đã trao cho ông), và ngay sau đó tướng Nguyễn hữu Hạnh với tư cách là Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH lên tiếng trên đài truyền hình và đài phát thanh Sài Gòn, ra lệnh đơn phương ngừng bắn cho các đơn vị còn đang chiến đấu và kêu gọi quân nhân các cấp phải buông súng xuống! 
Lắng tai nghe đi nghe lại những lời tuyên bố của hai tướng Minh và tướng Hạnh tôi vừa đau khổ vừa bùi ngùi nghe theo lời khuyên của em mình, trút bỏ bộ quân phục thân yêu của mình trong suốt gần 25 năm trong quân đội, xong mượn chiếc xe Honda của thằng em vội vàng phóng ra cửa. Tôi nghĩ bụng: Thôi thế là coi như xong hết rồi, không biết cái gì sẽ xảy ra sau chuyện đầu hàng quá nhục nhã nầy? Thương thuyết chăng? Chánh phủ Liên Hiệp chăng? Chắc chắn là không rồi. Hàng ngàn chiếc xe xe tăng T.54 từ Bắc Việt vào đây tức là cộng sản Bắc Việt nhất quyết đã chọn giải pháp quân sự rồi thì làm gì còn có giải pháp chánh trị? Và đối với mộng bành trướng bá quyền của Cộng sản thì đâu có chuyện anh MTGPMN nhảy vào ngồi mát ăn bát vàng của họ được? Tôi vừa đi vừa suy nghĩ mông lung.. tự nhiên thấy mình trở lại gần Bộ Tổng Tham mưu lúc nào không hay. Nhân tiện tôi đi vòng qua hướng Lăng Cha Cả để theo đường Trương minh Giảng xuống Sài Gòn. 
Lúc nầy đã quá 1 giờ trưa rồi. Đường xá vắng tanh, dân chúng rút hết vô nhà đóng kín cửa. ngoại trừ bọn hôi của còn đang lăng xăng lục lạo và khuân vác từng biệt thự do người Mỹ mướn ở, hay các nhà vô chủ, của những người dân quá sợ cộng sản đã bỏ đi hoặc di tản hay đang tìm đường di tản ra ngoại quốc. 
Tuy không còn nghe tiếng đạn pháo hay rốc kết liên tục nhưng vẫn còn lác đác một vài tiếng súng cá nhân hay một vài tràng liên thanh đâu đó từ hướng trại Hoàng hoa Thám của anh em Dù. Tôi còn nhớ lúc rời khỏi Ban Liên Hợp Quân sự ngày hôm qua, tôi còn chứng kiến được một số hành động anh dũng của anh em "Biệt kích 81 Dù" đã bắn hạ 13 chiến xa T.54 của Bắc Việt từ Lăng Cha Cả lên hướng Củ Chi khi các đơn vị Bắc Việt tấn công vào trại Hoàng Hoa Thám để tìm cách đột nhập ngang hông vào Tân Sơn Nhất. Hôm nay xác những chiếc tăng T.54 vẫn còn ngổn ngang ở vùng nầy, và tiếng súng cá nhân vẫn còn lẻ tẻ mặc dầu đã có lệnh đơn phương ngừng bắn của QLVNCH từ 11 giờ sáng nay. 
Đường Trương minh Giảng vắng tanh không một bóng người, không một chiếc xe nào chỉ thấy có một vài xác chết rải rác ngoài đường, gần cầu, hình như của bọn đặc công Bắc Việt.
Khắp các nẻo đường mà tôi đi qua, trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và cả Gia Định, tôi quá đau lòng mà thấy cảnh không biết bao nhiêu là súng ống đạn dược đủ loại, quân phục đủ màu đủ sắc của mọi binh chủng được vứt bỏ ngổn ngang từng đống hay bừa bãi, rải rác khắp các vỉa hè, các thùng rác, cống rãnh.. có lẽ đây là một cách vừa thi hành, vừa phản đối lệnh buông súng đầu hàng của tướng Minh và tướng Hạnh. . . .còn đang ra rả kêu gọi liên tục trên đài phát thanh. Càng đau lòng hơn khi thỉnh thoảng tôi bắt gặp một số người chạy long nhông ngoài đường, hầu hết chỉ có một quần cụt trên người, có khi trần truồng như nhộng, chắc chắn họ là quân nhân, vì họ luôn miệng chửi thề tục tỉu vang trời, chửi cả bọn chiến thắng Bắc Việt lẫn người chủ bại đan tâm khóa tay Quân đội để đầu hàng cộng sản! 
Bến Bạch Đằng và Nhà Bè vắng tàu nhưng không vắng người vì còn một số quá đông đang còn lóng nhóng chờ... tàu từ Tân Cảng xuống. Nhưng tôi nghĩ chắc chắn không còn chiếc nào. 
Tôi vào Bình Đông (Chợ Lớn) để thử tìm đưởng bộ xuống Gò Công. Nhưng cảnh sát dã chiến ở chốt đầu cầu đã được lệnh khóa cổng từ 6 giờ sáng nay không cho một ai qua khỏi cầu. Trở về Phú Lâm, tôi cũng bị chốt cảnh sát dã chiến ngăn chận, như thế có nghĩa là từ 6 giờ sáng nay đã có lệnh khóa hết mọi con đường ra khỏi Đô thành, khó mà dùng đường bộ được, và cũng có nghĩa là bọn cộng sản Bắc Việt đã bao vây chặt thủ đô nầy rồi. 
Như thế là coi như tôi không còn khả năng và phương tiện nào thoát ra khỏi thủ đô Sài Gòn nữa bằng cả 3 đường bộ, đường thủy và đường bay. Thôi thì đành phải ngồi yên để chờ xem diễn tiến sắp tới tức là ngồi chờ xem Cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô mà thôi!! Nghĩ thế tôi quay xe trở về Bàn Cờ. 
Trên đường về, đột nhiên tôi nghe mấy tràng đại liên ròn rã ở hướng nhà thờ Sài Gòn. Quá tò mò tôi muốn đến xem nhưng gần đến nhà thờ thì nghe tiếng chiến xa chạy rầm rập ở hướng đại lộ Thống Nhất. Tôi biết là chuyên gì đã xảy ra rồi, nhưng quá đau lòng đến độ không thể nào dám chạy đến đó để xem, tôi vội chạy về Bàn Cờ ngay. 
6 giờ chiều: 
Tôi có ý định lên Hạnh thông Tây, vào thăm Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp của mình. Nhưng khi vừa qua khỏi sân Golf ở phía sau Tổng Tham mưu thì một cảnh tượng quá đau lòng làm tôi phải ngừng xe lại ngay. Từng nhóm thương bệnh binh dìu nhau đi bộ từ cổng Tổng Y Viện Cộng Hòa. Hỏi ra tôi mới biết là từ 5 giờ chiều nay, một toán quân Bắc Việt đã vào tiếp thu Quân Y Viện mà họ liệt vào hàng "chiến lợi phẩm chiến tranh". Người sĩ quan tiếp thu ra lệnh cho tất cả đều phải ra khỏi bệnh viện, và "ngay tức khắc" không được chậm trễ, không được mang theo bất cứ thứ gì kể cả xe cộ đủ loại, vì tất cả đều là của Mỹ Ngụy, không do cá nhân mua sắm, ngoại trừ quần áo đang mặc trên mình. 
Tất cả mọi người, từ các bác sĩ quân y, các nam nữ y tá, trợ tá xã hội, lao công dân chính v.v. cho đến thương bịnh binh đủ loại, không cần biết tình trạng bệnh lý, đã được chữa trị hay chưa, vết thương đã mổ hay chưa? lành hay chưa lành? v.v. Thật quá khủng khiếp cho những anh em thương binh vừa được chuyển từ mặt trận về, vừa được lên bàn mổ hay vừa được mổ mà chưa khâu xong vết mổ, còn đang nửa mê nửa tỉnh.. đều phải ôm vết thương lang thang xuất viện mà không biết phải đi về đâu? nhà ở đâu mà về? Gia đình có đâu mà về? đơn vị ở đâu mà về? Vì họ được tản thương về đây từ mặt trận. 
Đây là một câu chuyện thê thảm nhất trong lịch sử chiến tranh quốc cộng, giữa Nam Bắc Việt Nam, giữa người Việt Nam với nhau. Ngay như trong cả 2 thế chiến, người ta cũng không có lối cư xử quá tàn bạo và nhẫn tâm vô nhân đạo như thế, huống là giữa những người Việt Nam cùng một dòng máu Lạc Hồng? 

Để giúp cho những người khốn khổ nầy, chúng tôi và một số dân chúng quanh chùa Vạn Hạnh (Phú Nhuận) kêu gọi được một số xe tư nhân, xe tắc xi, xích lô máy, xích lô đạp.. đưa giùm một số thương bịnh binh nặng, đang trong tình trạng giải phẫu dở dang.. đến các bệnh viện Đô Thành, Nguyễn văn Học, Chợ Rẫy, Grall và một số bệnh viện tư của người Hoa ở Chợ Lớn, kể cả 2 bệnh viện tư nhỏ của hai bác sĩ Nguyễn văn Tạo, Nguyễn duy Tài ở đường Pasteur.. để nhờ tạm chữa trị tiếp, chờ ngày cho họ về với gia đình.. 
Giờ nầy thật tình thời gian đã trôi qua quá lâu rồi, gần 30 năm rồi, thử hỏi dân chúng Miền Nam cũng như người Việt Nam ở hải ngoại nầy còn có mấy ai biết đến và nhớ đến một buổi chiều thê thảm nhất của anh em quân nhân chúng tôi, nhất là những anh em thương bịnh binh thuộc QLVNCH đang điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa đã bị xua đuổi thẳng tay một cách vô nhân đạo ra khỏi bàn mổ hay khỏi giường bịnh, do sự tiếp thu của Cục Quân Y của Quân Đội Nhân Dân BV? vào ngày 30 tháng 4 /1975 mà cộng sản gọi là ngày chiến thắng của họ trong chiến dịch xâm lăng Miền Nam Việt Nam có tên gọi là chiến dịch Hồ chí Minh!!!
Đêm nay về Bàn Cờ nghỉ tạm, tôi không có một chút hứng thú nào khi ngồi trước một bữa cơm ngon của gia đình, tôi cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ được chỉ mong cho trời mau sáng để được xem tận mắt cảnh "đổi đời"! Ước gì cảnh đó phải hoàn toàn khác hẳn cảnh mà tôi đã đích thân chứng kiến chiều hôm qua ở Gò Vấp! 
Ngày mồng 3 tháng 5/ 1975 
Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ thư viện Quốc Gia. Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ "Văn Hóa đồi trụy" : 
Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là "ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy" ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con "cọp 30"), tại Sài Gòn Chợ Lớn thì mỗi quận một tiểu ban, ở các tỉnh thì mỗi tỉnh một tiểu ban. 
"Văn hóa đồi trụy" được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v... đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga). 
Mục tiêu mà các "ông cọp 30" nhắm vào trước tiên là Thư viện quốc gia (national library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và Encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành Công Pháp quốc tế, Khoa Học Kỹ Thuật, Hàng Không và cả khoa học Không Gian,v.v... mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của Đất Nước, trong phút chốc bị "cọp 30" xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ Encyclopedia lên xem mà ứa nước mắt... nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một "cọp 3O" khoảng 16 tuổi tới đuổi: 
"Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta Độc lập rồi thì Ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!!" 
Tội nghiệp! Thật là tội nghiệp!!! 
(Về sau mãi cho đến 1992 lúc chúng tôi sắp rời khòi VN, thì thư viện quốc gia nầy vẫn còn được cộng sản dùng làm "mặt bằng" cho mướn làm tiệc cưới và tiệc "liên hoan" của cán bộ công nhân viên các cấp). 
Mục tiêu kế tiếp của bọn "cọp 30" là Thư Viện Bộ Giáo Dục, các nhà sách ở khu chợ Bến Thành và dài dài vô đến Chợ Lớn... sau đó tiểu ban đi xét từng nhà khắp đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, ai sợ thì cứ tự mình đốt, bỏ... nếu xét gặp thì chắc chắn phải gặp khó khăn với mấy "ông cọp 30 trẻ" nầy. 
Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại "nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai", cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v.. cũng phải được duyệt xếp loại lại (Bà Thiếu tá Cách Mạng đào hát Kim Cương phụ trách phần nầy). 
Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của Mỹ Ngụy từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng, không cần biết có hợp với dân tộc Việt Nam hay không và cũng không cần lượng xét hậu quả sẽ như thế nào (có nghĩa là thay vì đẩy Miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của Miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi Miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau... nhằm đưa đất nước Việt Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa đúng theo lệnh của các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng. Mãi cho đến cuối thập niên 80, lúc tôi ra khỏi trại tù cải tạo, lãnh đạo đảng Nguyễn Văn Linh nhờ chạy theo phong trào "đổi mới" của Liên Xô, mới chịu mở mắt ra và chừng đó mới thấy được là đảng cộng sản đã kéo cả đất nước và dân tộc Việt Nam đi lùi vào thời kỳ đồ đá... từ sau ngày cướp được chánh quyền mùa thu năm 1945 và nhất là để mất đi một cơ hội và một thời gian quá dài từ sau ngày nhuộm đỏ Miền Nam Việt Nam 30 tháng 4 1975.) 
Ngày 4 tháng 5 
Tôi đến nhà của Ngô công Đức vì nghe tin anh ta mới từ bên Pháp trở về Sài Gòn qua ngã Lào, Hà Nội (mang theo chiếc xe đạp). Đến nhà anh mới được biết là người vợ của anh đã sang ngang không biết vì lý do gì, (có thể vì hành động phản chiến của anh.) Đến đây tôi may mắn được gặp lại một người bạn thân, trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp, (anh rể của Ngô công Đức) may mắn có mặt tại Dinh Độc Lập từ sáng ngày 30/4, nhờ vậy tôi mới được biết thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyện bộ đội Bắc Việt vào tiếp thu Dinh Độc Lập trưa ngày 30 tháng 4. Tôi phải ghi lại gần như nguyên văn lời của ông bạn Nguyễn văn Binh của tôi như sau : 
"Sau khi chiến xa T.54 ủi sập một bên cổng chính của Dinh Độc Lập, (theo suy đoán của anh Binh thì đây là một hành động tượng trưng cho chiến thắng quân sự cuối cùng và quyết định của cộng sản Bắc Việt ) một số bộ đội tràn vào sân thượng hạ cờ VNCH xuống và treo cờ MTGPMN lên (chưa phải là cờ đỏ sao vàng của Bắc Việt ), một sĩ quan Bắc Việt có bộ đội hộ tống ập vào đại sảnh, nơi mà Tổng Thống Dương Văn Minh đang có mặt cùng với những người cộng sự viên thân tín nhứt trong Chánh Phủ của ông. Thấy vị sĩ quan nầy đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của quân đội nhân dân Miền Bắc, nên ông Minh tưởng rằng mình đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp. 
-"Thưa quan sáu, tôi đã chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông" 
Sĩ quan nầy dùng danh từ "mầy tao" xẵng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng: 
- "Mầy dám nói là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mầy làm gì có "quyền" nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng nầy đây. Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống! 
Mặt tướng Minh co dúm lại. ông chợt hiểu là ông không gặp được những người của MTGPMN mà là những người cộng sản Bắc Việt, dù họ treo cờ Việt Cộng trên xe. Không phải là những người Miền Nam đã vào chiếm Dinh Tổng Thống, mà đang đứng trước mặt ông là những chiếc xe tăng, những sĩ quan và bộ đội Bắc Việt và họ đã đối đãi với ông không như bạn hay đồng bào, mà như một kẻ thù thất trận! 
Tướng Minh cố gắng tự kềm chế và dịu dàng hơn ông nói tiếp: 
- "Chúng tôi đã có dự trù sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua... 
Vị trung tá Bắc Việt ngăn ông lại và xẵng giọng: 
- "Bọn bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ cái bếp tư sản của mầy lại đi. Chúng tao đã có cơm dã chiến của chúng tao, một nắm cơm nắm và một hộp thịt kho mặn" 
Sau đó sĩ quan nầy ra lệnh nhốt tất cả các tổng trưởng hiện diện vào một gian phòng, sau khi đã cho lệnh khám xét rất cẩn thận và không khoan nhượng trước sự hiện diện các nhà báo ngoại quốc đang làm nhiệm vụ quay phim, chụp ảnh lia lịa cảnh tượng lịch sử nầy. 
Sau đó ông Minh bị "bộ đội" bao quanh chĩa súng vào người ông, và vị sĩ quan cao cấp vung khẩu súng lục to đẩy ông lên một chiếc xe Jeep và phóng đi dưới hàng loạt ánh đèn chớp của máy ảnh và máy quay phim của báo chí. Ông được đưa đến đài phát thanh để ông phải lên tiếng kêu gọi lần chót với các binh sĩ còn đang tiếp tục chiến đấu. Vì chiến trận vẫn còn tiếp diễn gần như khắp nơi, ở ngoại ô, ở Chợ Lớn, chung quanh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, ở khu vực gần Tân Cảng, trước trung tâm truyền tin Phú Lâm,... 
Đến 13 giờ, tướng Minh được đưa trở về Dinh Tổng Thống và bị nhốt dưới tầng hầm. " 
Cũng vẫn theo lời của anh bạn tôi: 
- Ông Nguyễn Văn Hảo đương kim Tổng trưởng Tài Chánh đã có mặt tại dinh Độc Lập ngày 30/4/75 với tướng Dương Văn Minh, cùng với nội các của ông Vũ Văn Mẫu và một số nhân sự phản chiến tự xưng là thành phần thứ ba (như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Cứ, Võ Long Triều,v.v...). Khi ông Minh được đưa trở về đến Dinh Độc Lập thì ông Hảo lên tiếng, nói một câu "bất hủ" với sĩ quan chỉ huy Bắc Việt rằng: 
-"Tôi còn ở đây chờ quí vị, để trao cho quí vị một món quà, đó là trên 20 tấn vàng". 
Vị sĩ quan đó đáp ngay tức khắc: 
-"Đó không phải là quà mà là chiến lợi phẩm của chúng tao, tao phải tịch thu, mầy hãy trao ngay cho tao đi!". 
Và ông Hão đã dẫn người nầy đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ngay chiều ngày 30/4/1975, trao 3 chìa khóa hầm vàng cho đại diện Bắc Việt, để chỉ dẫn họ cách thức lấy 20 tấn vàng dằn kho của VNCH ở Ngân Hàng nầy. Sau đó ông Hảo vẫn bị đưa về nhốt chung với các vị Tổng trưởng khác". 
.................. 
Ở nhà của Ngô công Đức, tôi được chứng kiến một cảnh "ngu dốt" của một toán bộ đội Bắc Việt, nói lên tình trạng quá lạc hậu đáng thương hại của người dân Miền Bắc nói chung: 
Trong lúc tôi và anh Binh anh Đức ngồi ở phòng khách trò chuyện thì có một toán chừng 6 anh "bộ đội" ập vào nhà "khám xét". 
Người chỉ huy cầm trong tay cái điện thoại và hách dịch hỏi anh Đức : 
Cái "đài" nầy là của anh? 
Phải, của tôi 
Anh làm "chức vụ" gì lớn lắm của Mỹ Ngụy mà có cái "đài" nầy? anh dùng cái đài nầy để liên lạc với Mỹ Ngụy và với CIA phải không? Tôi phải bắt anh ngay về cơ quan để "làm việc", mặc áo vô đi rồi theo tôi ngay. (vì lúc đó anh Đức ở trần) 
Xin lỗi anh tôi không đi đâu hết, cái nầy là cái điện thoại chớ không phải cái đài. 
Đồ ngoan cố, cái nầy là cái điện đài, tôi được lệnh bắt anh, vì trong nhà anh có một cái điện đài mà không chịu đi khai báo.. . . 
.. . . . . . . 
Tôi rời khỏi nhà anh Đức trưa hôm đó, lòng suy nghĩ miên man. Thật tội nghiệp cho cái anh chàng phản chiến Ngô công Đức nầy, giờ nầy chạm mặt với thực tế có lẽ anh mới sáng mắt thấy rõ trình độ của người dân Miền Bắc và mức độ giáo dục và ảnh hưởng tuyên truyền nhồi nhét của cộng sản là thế nào đối với dân chúng..! Tội nghiệp cho cái anh bộ đội quá ngu dốt nầy, và cũng thật quá tội nghiệp cho người dân Miền Nam của mình trong những năm tháng sắp tới... có lẽ phài chịu sống đau khổ triền miên vì cái tình trạng ngu dốt của kẻ xăm lăng thống trị, đến từ Miền Bắc... 
Ngày 5 tháng 5/75 
Tôi quyết định đến nhà anh chị bác sĩ Nguyễn văn Tạo ở đường Pasteur để tạm trú và tạm lánh mặt chờ ngày 15 tháng 6 là ngày trình diện đi "học tập". Ở đây có lẽ yên hơn là về Sadec (gia đình tôi) hay Cai Lậy (gia đình bên vợ tôi), dù sao ở ngay Sài Gòn chắc không bị những màn trả thù rùng rợn như ở tỉnh, như một số tin tức mà tôi được biết cho tới ngày hôm nay.. (như ở ngay tĩnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị họ kết án là "có tội với nhân dân" mà không thông qua một tòa án nào, và bị hành quyết ngay khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã tấu...Riêng anh trung úy Dù Nguyễn văn Ngọc ở xã Long Hồ, dù đã chết từ hơn một năm trước, vẫn bị họ đào mả lên, đưa cả quan tài ra giữa chợ ở Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn.) 
Sáng nay tôi phải lên thăm một thiếu tá tuyên úy Phật Giáo, đang là trụ trì tại một ngôi chùa ở Hạnh Thông Tây, và là người có trách nhiệm lo mọi công tác hậu sự cho quân nhân các cấp không may bị tử thương, và hằng ngày lo chăm nom săn sóc nơi an nghỉ cuối cùng của anh em quân nhân chúng tôi là "nghĩa trang quân đội Hạnh Thông Tây" nằm ở đối diện không xa với chùa nầy. 
Đưa tôi vào chánh điện lạy Phật xong ông dẫn tôi lên phòng riêng và khi chỉ còn có hai chúng tôi thì ông nín không nổi nữa, bật lên khóc sướt mướt, ấp úng nói không thành lời. Sau một lúc khá lâu bình tâm trở lại ông mới nói rõ cho tôi nghe là không phải ông khóc vì chuyện "mất nước", nhưng khóc vì động lòng từ bi trước cảnh mồ mả trong nghĩa trang quân đội mà ông có trách nhiệm săn sóc đã bị cộng sản Bắc Việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày mồng 3 tháng 5 vừa qua. 
Mặc cho sự van xin cầu khẩn của ông (trong bộ áo nâu sòng của một thượng tọa) họ vẫn san bằng hết từ nhà xác, nhà liệm xác, nhà nguyện cho đến ngôi mộ cuối cùng...... Ông vừa nói vừa tức tưởi khóc:
" Không hiểu sao họ quá tàn nhẫn như vậy? Họ nói là để lấy đất mà trồng trọt để nuôi nhân dân đang đói nghèo. Đất rộng như vầy, màu mỡ như vầy mà làm nghĩa địa thì phí của trời quá... độc ác với nhân dân quá!" 
Thật tội nghiệp cho vị tuyên úy Phật Giáo nầy. Ông quá thật tình, nhìn sự việc qua lòng từ bi của một tu sĩ, nên không hiểu là hành động nầy phải xuất phát từ chủ trương và chánh sách của người cộng sản mà nhất là cộng sản Miền Bắc, đội quân tiền phong của Quốc tế Cộng sản Đệ Tam Nga Tầu.! Dù họ là người Việt Nam nhưng tư tưởng, hành động và nhất là lương tâm của họ ngày hôm nay không còn thuộc về họ nữa. Họ phải theo đúng giáo điều Mác Lê, theo đúng lệnh của Staline, của Mao trạch Đông là những quan thầy trực tiếp điều khiển họ trong cuộc chiến tranh bành trướng về phương Nam nầy. 
Ông bạn tuyên úy của tôi cũng chất phác như người dân Miền Nam đã từng cho những lời "tố cộng" của chánh quyền hay của Phòng Chiến Tranh Chánh trị là những chuyện "đặt điều" cốt để tuyên truyền tác động tinh thần của quân cán chính Miền Nam. Bây giờ chỉ mới giáp mặt với một vài hành động của họ thôi, rồi đây có lẽ từ từ rồi họ sẽ thấy được bộ mặt thật của con người cộng sản nầy. Nhưng từ hôm nay cho đến đó người dân Miền Nam chúng ta chắc còn sẽ phải chịu nhiều cảnh thương đau cùng cực nữa... trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của họ. 
Tôi mời ông thiếu tá tuyên úy bạn tôi cùng lên nghĩa trang Biên Hòa để xem thử là họ đã ủi nghĩa trang quân đội ở đây chưa? Theo tin ông đã nhận được thì hình như họ cũng đã thực hiện công tác nầy rồi, cũng vào ngày 3 tháng 5. 
Có đi đến nơi chúng tôi mới thấy rõ được hiện trạng. Thật là thê thảm! Trước hết là tượng hình của một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến qua tượng đài "Thương Tiếc", một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật rất có giá trị đặt bên vệ đường ở mặt tiền của nghĩa trang quân đội đã bị cộng sản phá nát bằng cốt mìn, và ủi sạch không còn một chút dấu vết..Cả nghĩa trang rộng lớn cũng đã biến thành bình địa! 
Trên đường về Hạnh Thông Tây cả hai chúng tôi yên lặng không trao đổi một lời nào, tôi tin chắc là cảm nghĩ của một người tu sĩ đương nhiên phải khác hẳn với cảm nghĩ của một chiến binh như tôi. Dù sao khi về đến chùa, trước khi giã từ, tôi cũng nói rõ cho Thầy tuyên úy bạn tôi thấy được cảm nghĩ của tôi: 
- Hành động quá ư tàn nhẫn đến dã man nầy thật không đúng là hành động của bất cứ người Việt nào nhất là ở Miền Nam Việt Nam. Từ ngàn xưa, đúng theo đạo lý và truyền thống của dân tộc Việt, người Việt Nam chúng ta ai cũng biết là "nghĩa tử là nghĩa tận" hay "chết là hết". Dù giữa cá nhân anh và tôi có thù hằn nhau cách mấy nhưng khi anh hay tôi có người đã nằm xuống rồi thì coi như mối thù đó được xóa bỏ vĩnh viễn, không ai còn muốn nhắc đến nữa. Vậy ủi hết mồ mả của quân nhân các cấp thuộc QLVNCH có nghĩa là gì đây? Nếu không muốn nói trước hết là nhằm "trả thù cho quân đội và nhân dân Miền Bắc"? sau đó lại "xóa sạch được vết tích của QLVNCH, người đã chết xóa trước, người còn sống xóa sau? trong chủ trương sửa lại toàn bộ lịch sữ trong tương lai đối với các thế hệ trẻ sau 1975, một trang sử đấu tranh dai dẵng của Quân Dân Cán Chính Miền Nam đã hy sinh làm tiền đồn ngăn chận làn sóng xăm lăng cộng sản, trong suốt gần 30 năm từ 1945 mà họ cần phải xóa bỏ? Tôi nghĩ chỉ có như vậy họ mới đan tâm có những hành động phi nhân đạo nầy. Và chắc chắn trên toàn bộ Miền Nam Việt Nam các nghĩa trang quân đội đều phải chịu chung một số phận. Dĩ nhiên rồi cũng phải đến số phận của chúng tôi... những chiến binh còn sống sót. 
Nhưng ngày nào còn có một chiến binh QLVNCH còn sống sót như cá nhân tôi thì ngày dó cộng sản Bắc Việt đừng hòng sửa được một trang sử nào!!! 
Chúng tôi xin tạm chấm dứt mấy trang "Hồi Ký Dang Dở" ở đây, và xin thành tâm cầu nguyện cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được vĩnh viễn thoát khỏi ách độc tài đảng trị của bọn cộng sản vô thần khát máu và tàn bạo này. 
Washington, những ngày giáp Tết năm Giáp Thân
Dương Hiếu Nghĩa